Thứ Hai, 5 tháng 6, 2017

SƯƠNG KHÓI MẶT NGƯỜI: Tập 2 chương 10, 11 / Tiểu thuyết Phan Đạt Ninh



           Chương 10


          Đám ma Hội khác hoàn toàn với những đám ma từ trước tới giờ ở cái làng Vàng bé nhỏ thân thương này. Thông thường khi nhà nào có người chết, gia đình và địa phương tổ chức tối đa không quá ba ngày, hai đêm. Đám Hội chỉ có một ngày, một đêm. Tức là Hội chết chiều hôm trước thì chiều hôm sau đã đưa Hội ra đồng
          Trong điếu văn, trưởng thôn làng Vàng cũng nêu ngắn gọn Hội mất đột ngột do trượt chân té ngã, đầu đập xuống sân nhà. Điếu văn cũng nhắc đến những thành tích của Hội đã đóng góp cho địa phương. Tuy vậy bà con vẫn nhóm nọ, nhóm kia xì xầm bàn tán về lý do Hội ngã chết,
về ả nhân tình của Hội.

          Dân làng Vàng cũng bình luận cảnh hai đứa con Hội khóc tức tưởi lúc xe tang bắt đầu lăn bánh và lúc hạ huyệt. Người ta nói đứa con gái khóc là chuyện bình thường, nó còn quá nhỏ, chưa biết nỗi bất hạnh xảy ra trong gia đình. Thằng anh khóc mới là vấn đề phức tạp, khó hiểu? Nó khóc bởi nỗi đau tột bậc khi cả mẹ và cha đều mất hay sự căm giận người bố đã gây ra nỗi bất hạnh trút xuống đầu nó? Không ai dám khẳng định điều này.
          Mấy ngày sau, Bà Hồng căn dặn bà Răm,Tư điếc, Lương mù không ai được nói gì về tấm ảnh Hội chụp với người tình. Bà Hồng làm thế với mục đích không để nỗi buồn ám ảnh người còn sống bên ngoại của Hội. Tấm ảnh này bà Hồng chỉ cho Tiến anh trai Hội là người duy nhất được xem trước khi nó theo Hội nằm sâu dưới mồ.
          Thằng con trai Hội cũng chỉ ở nhà vài ngày rồi nó khóa cửa đi. Khi đi nó mang theo con gà chọi bữa về nó để trong chiếc ba lô. Nó đến nhà ông bà ngoại gửi chiếc chìa khóa và dặn dò em gái. Ông bà ngoại khuyên bảo thế nào nó cũng không nghe. Nó nói đi miền nam chưa biết khi nào mới về. Nó dặn ông bà bán ngôi nhà ấy đi, nó không muốn nhìn thấy ngôi nhà này nữa...Ông bà nó giận nó, xót nó, cho tiền nó mang đi, nó không cầm. Nó bảo nó có tiền rồi.
          Thằng con Hội rút trong túi một tập tiền mệnh giá lớn. Nó đưa cho ông bà bảo giữ hộ.
          Ông bà nó giật mình khi thấy số tiền quá lớn. Ông nó hỏi: Tiền đâu mà cháu có nhiều thế? Nó bảo tiền này của bố nó ba mươi triệu, còn lại của nó kiếm được. Ông nó hỏi kiếm thế nào? Nó  bảo bằng sức lao động .Ông nó lại hỏi tiếp lao động ở đâu? Công việc gì? Nó không trả lời .
          Nó bước ra sân xách chiếc ba lô, túi quần áo rồi đi thẳng.
          Mấy tháng sau có người ở quê tình cờ nhận ra nó đang ở Nam Định. Nó làm công cho một gia đình chuyên nuôi  và kinh doanh giống gà chọi. Hàng ngày nó dậy từ sớm làm những việc như dọn phân gà, cho gà ăn,tắm cho gà, chăm sóc cho gà sau những lần giao đấu. Nó khéo tay chăm sóc gà, nó yêu quý con gà thật sự nên chủ gà cũng quý nó. Mỗi khi gà đi đấu về dù thắng hay thua nó đều kiểm tra kĩ lưỡng các vết thương của gà, nó vệ sinh cho gà bằng nước muối ấm, lau khô cho gà, dùng cồn để vệ sinh hai cựa , tiêm thuốc chống phù nề, ngâm hai chân gà trong nước lạnh . Xong việc nó vạch mỏ cho gà uống thuốc bổ vi ta min để gà khỏi mất nước. Nếu gà đi ngoài phân xanh,phân trắng,nó cho gà uống thuốc, ăn cơm nóng chộn thuốc bổ B1,rồi chườm khăn ấm cho gà. Do khéo tay,yêu gà,biết cách chăm sóc gà nên chủ gà mê nó, nhận nó làm con nuôi, nó được ăn ở với chủ nhà.Nhiều lần nó được theo chủ gà vác gà đi đấu ở những làng khác, tỉnh khác xa tận Tiên Lãng Hải phòng,Quảng Ninh, Lào Cai,vân vân. Còn các tỉnh miền Trung, miền Nam thì nó nhẵn mặt. Con gà chọi nó đem theo là loại gà Xám còn gọi là chiến kê Nam Định, hay gà Xám bất trị.Giống gà này chân trắng, mào công, cựa chỉ địa. Đặc điểm nổi bật của gà Xám bất trị là lối ra đòn cực hay,đánh đòn quyết liệt, chắc chắn. Nếu bị đối phương đè ,nó luồn chui trong cánh đối phương tránh đòn. Một con gà Xám thường có giá tới năm triệu đồng. Con gà nó đem theo có giá cao hơn, nó mua từ chủ gà nói đem về quê tặng người thân. Nể tình chủ gà vừa bán vừa tặng cho nó. Hôm về quê, chủ gà nói cho nó biết thành tích của chọi Xám. Chọi Xám đã đánh hàng chục trận, chưa thua trận nào.
          Nó ôm chọi Xám về quê thực tình nó chạy trốn cuộc vây bắt của công an trong vụ đá gà ở Hà nội. Nó là người may mắn trong số kẻ chơi đá gà và cá độ bị bắt. Nó may bởi nó là trẻ con không ai để ý, vả lại nó láu cá khi nghe tin có công an trong đám cá độ, nó kín đáo ôm con Xám nhét gọn trong ba lô, khoác thêm chiếc áo,thay mũ lẳng lặng chuồn thẳng. Nó cải trang thành người khác, hệt đứa trẻ ra bến xe để về nhà.
          Bữa nay nó và con Xám rong ruổi mấy tỉnh miền Trung. Nó đi xe khách về Nghệ an. Nó vào thẳng khu dân nghiền chọi, nghiền cờ bạc. Thấy nó vác gà đến, cánh dân chơi hò nhau đến. Dân chơi toàn cánh máu mặt, xe máy phân khối lớn từ đẩu đâu chạy rầm rầm vác gà đến.
Nó nhìn cánh này không có tên tuổi, nó không thèm đấu. Nó làm thế để chọc vào máu cánh chơi...
          Cánh chơi cố gặng, nó không nghe...Nó đẩy máu chơi của cánh này lên tới đỉnh...Cuối cùng cuộc thách đấu và cá độ xuất hiện... Nó chỉ đợi có thế...
          Nói một chút về xứ địa phương này, dân ở đây nổi tiếng cả nước về buôn bán ma túy, nhà nhà đi buôn, người người đi buôn. Ma túy được vận chuyển từ Lào về bằng mọi hình thức ô tô,xe máy, đi bộ, người già, trẻ nhỏ bất kể khi nào, giấu ma túy ở mọi chỗ. Chẳng thế nơi này toàn nhà xây cao tầng, ngạo nghễ hiên ngang giữa chốn đồng không mông quạnh. Pháp luật đã thể hiện nghiêm khắc ở xứ này, nhiều án tử hình, tù chung thân, hai mươi năm, cả bố lẫn mẹ cùng ngồi tù, ông bà nội ngoại ngồi tù vì buôn ma túy, con cháu ở một mình không có người lớn trông nom, chăm nom. Chúng tự bảo ban nhau đi học, ăn uống ,tắm giặt. Ở đây dường như người ta không hề sợ hãi chuyện đi tù, coi đó là chuyện vặt, đồng tiền lợi nhuận thu về quá lớn nên mọi chuyện trở thành nhỏ bé...
          Cánh chơi nhìn mặt nó non choẹt, nhìn chọi Xám có vẻ coi thường...
Vào trận, chừng dăm phút của hồ một cánh chọi của các đối phương đã không chịu nổi đòn, bỏ chạy. Có con lăn ra đất máu me đầy đầu, đầy nách, giãy đành đạch bởi trúng miếng “đòn sỏ” từ cặp cựa con Xám .
          Nó ôm con Xám vào lòng vuốt ve.
          Đám chơi khiếp đảm. Cánh cá độ hò hét.
          Có kẻ trong đám mang biệt danh Máu Me gạ nó đấu với chiến kê Tía của một tay chơi gà nổi tiếng trong vùng. Nó quan sát thấy “Máu Me” một nhân vật có cái tên nghe buồn cười, đầu trọc, xăm trổ khắp người, dây chuyền vàng lớn đeo cổ, nhẫn vàng lớn đeo tay, dáng hảo hán, năn nỉ, tăng giá cho nó vùn vụt: mười triệu... hai mươi triệu...Nó thấy con mồi Máu Me này chắc chắn là tay trùm cờ bạc, chơi được nhưng nó vẫn giả vờ không chơi. Nó nói phải mất cả năm trời tìm kiếm, cả năm trời huấn luyện mới có được con Xám này. Nó mở sổ thành tích của chiến kê cho gã xem các trận huyết chiến của Xám. Gã thích ra mặt. Gã lẩm bẩm: Đánh sáu mươi trận chưa thua trận nào, mười lăm trận hạ gục đối thủ tại chỗ ở hồ một.... Kính nể....Gã nhìn Xám thèm khát.
          Gã quyết định gán xe máy S H nếu Xám chiến thắng.
          Nó đồng ý.Hai bên kéo nhau vào quán nước có đám chơi hai bên làm chứng.
          Đám nhận con Tía thắng xôn xao nhận định:
          - Đảm bảo  con Tía sẽ thắng!
          Gã máu me chần chừ, nó huých gã:Ông đừng nghe bên ngoài họ nói.  Ông không tin tôi à?
          Đám nhận con Xám thắng ồn ào:
          - Con Xám sẽ thắng! Con này lì đòn, già mặt hơn...
          Thế đấy, một đứa trẻ nứt mắt ranh mà  lọc lõi đến vậy. Đặc điểm này nó giống Hội. Nó tinh ranh như cáo, như cú.
          Nó và chủ con Tía quyết định giao đấu: Những ánh mắt của kẻ say máu cờ bạc nổi lên hau háu, những nhận xét, khẳng định như đinh đóng cột, những ví von so sánh cực bậy, cực mất dạy, cực khốn nạn sổ ra. Tiền cá độ hai chủ gà giữ lại theo quy định .
          Hai bên ngồi đối đầu cách nhau một khoảng cách xa.
          Chủ xới ôm Tía kê ra trước. Trông Tía kê oai vệ như một tướng quân. Thằng con nhà Hội ôm Xám ra sau.
          Con Tía đánh mắt thấy Xám đã vội đạp chân đòi tụt khỏi tay chủ .
          Con Xám cũng trông thấy Tía nhưng nó lặng im.
          Gã Máu me run sợ ra mặt khi thấy chiến kê Tía có hình thù dữ dằn,mặt công, mào công, mình cốc, cặp cánh vỏ chai, lông đen pha đỏ, chân vàng có điểm những chấm đen như mực, đôi mắt trắng dã, sát thủ...Gã lo sợ con Xám bại trận. Thằng con nhà Hội ngồi bên nói nhỏ vào tai gã:
          - Ông đừng sợ. Con Tía kia cũng liệt vào loại quý, nhưng không già dặn chiến trường bằng con Xám. Ông cứ nhìn cặp cựa và cái mỏ của Xám mà xem, nó chẳng ăn đứt con Tía à. Gã Máu Me đồng ý. Gã đã nhìn thấy số tiền lớn gã bỏ túi và cái thân xác mĩ miều gợi tình của bạn gái trong đám làng chơi.
          Hồ một, hai chiến kê chưa thực sự say đòn, chưa tung những đòn độc.
          Con Tía thường xuyên tấn công con Xám với lối đánh kèm chặt hai bên đánh vào vai con Xám.
          Xám chỉ đỡ, chủ yếu luồn cánh, áp đầu.
          Hồ hai con Tía ra đòn Sỏ, nó tìm cơ cắn mào con Xám lấy điểm tựa để tung cú đá vào cổ con Xám. Nếu cú đá thành công, con Xám có thể bị trật khớp cổ, cú đá này còn nguy hiểm ở chỗ  cặp cựa dài bọc cựa thép sắc nhọn như mũi lao có thể đâm thủng họng hoặc rách toang diều, rách nách con Xám.
          Nhìn chiến kê Tía ra độc chiêu gã chủ thích lắm. Gã reo lên: Giỏi lắm con ! Làm tới đi con ! Con Tía cắn mớm vào mào con xám và tung cú đá... Con  Xám xoay người cực nhanh vô hiệu hóa cú đá của con Tía...
Thằng con nhà Hội ngồi bên gật đầu liên tục, nó đang đồng ý với lối tránh đòn giữ sức, tiêu hao sức lực đối phương, dồn đối phương vào thế luẩn quẩn...
          Bất ngờ con Xám ra đòn Liên hoàn cước, nó tung những cú đá liên hồi từ ba bốn đòn trở lên vào đầu vào mặt con Tía . Con Tía trúng nhiều đòn khiến mặt mũi tối tăm...
          Con Xám đang dũng mãnh bỗng nhiên bỏ chạy...Gã Máu Me thở dài...  Thằng con Hội trấn an tinh thần gã: Ông yên tâm đi...Con Xám vờ chạy đấy...
          Con Tía đuổi theo. Xám đột ngột dừng lại.... Nó tung chân giáng một đòn cực mạnh vào đối phương, nhiều đòn mạnh vào đối phương, cặp cựa bọc thép của  con Xám liên tục tung vào nách, vào lườn, vào mặt con Tía.
Con Tía trúng đòn độc Hồi mã hương kêu thất thanh, lăn ra đất , giãy đành đạch...
          Máu từ mắt, từ hầu từ họng, từ diều, từ phổi nó phun ra ...
          Gã Máu Me sướng lắm. Gã đến vuốt ve con Xám khen hết lời: Giỏi lắm! Giỏ lắm! Giỏi lắm!
          Thằng con nhà Hội vuốt ve con Xám. Nó thận trọng tháo cặp cựa sắt nhọn hoắt ra khỏi chân con Xám. Nó hỏi Máu Me: Ông có biết con Xám thuộc loại gì không? Máu Me ngẩn mặt  không biết. Nó nói  con Xám thuộc loại Linh kê , khó kiếm lắm, ông có đi vài tỉnh không chắc có, loại độc đấy. Cái xe máy của ông ngoài cửa hàng cả đám...
          Gã Máu Me ngồi sát lại thằng con nhà Hội xem nó chăm sóc gà...
Gã Máu Me nhận thằng con nhà Hội làm em nuôi, khen: Chú em mới ngần ấy tuổi mà giỏi quá, kinh nghiệm đầy mình, chú em cũng đúng là hàng độc, hàng hiếm đấy. Tối nay anh sẽ khao, chú em thích gì anh cũng, chiều. Anh cho chú em thêm vài triệu...
          Thằng con nhà Hội cười, nó cầm tiền bỏ vào túi áo.
          Gã Máu Me khoái nó lắm. Bởi gã vừa thu về khoản tiền cờ bạc lớn, gã còn được người đẹp trả giá cho gã một đêm ...
          Người phụ nữ trả cho gã một đêm tuổi chưa đến ba mươi. Ả có thân hình gợi cảm bởi các vòng đo. Son phấn trên người ả cũng trở bên sang trọng bởi những bàn tay chuyên nghiệp tô vẽ. Ả là trùm cờ bạc nơi này. Ả không lấy chồng, không thích lấy chồng. Với ả người chồng sẽ như vòng kim cô thắt đầu ả. Ả thích tự do không chịu ràng buộc.
          Thằng con nhà Hội còn mách nước cho Máu Me ra Nam định, nó sẽ tìm mua cho gã một Xám kê mới. Gã Máu Me lại càng sướng. Gã mời nó ở lại nhà chơi.
          Gã Máu Me giàu lắm. Gã đã có vợ ở nhà quê. Gã đang ở với cô vợ bé nơi này. Gã có  ba cô vợ bé ở ba tòa nhà lớn ba nơi khác xa nhau. Gã làm thế để không ai biết gì về gã. Ngoài ra gã có hàng chục gái trẻ đẹp khác là bồ bịch... Gã thường nói : Có tiền là mua được tình, được quyền, gã bảo nó nếu thích gái gã sẽ đưa về cho một em, nó từ chối...
          Mấy ngày sau nó và Máu Me đem theo hai xe máy đến bến xe để ra Bắc.
          Đến Nam Định nó đưa Máu Me vào nhà chủ cũ chuyên nuôi và luyện gà chọi.
          Gã Mau Me thích lắm thái độ lịch sự hào phóng của chủ nhà. Gã còn thích hơn khi chủ nhà đồng ý bán cho gã một chiến kê Xám cũng từng lừng danh thiên hạ.
          Hai hôm sau nó và Máu Me cưỡi xe máy đem chiến kê lên Lào Cai đấu với các chủ gà Trung quốc.
          Các trận đánh sinh tử này, Xám hạ gục đối phương chỉ trong vòng hồ một, và mỗi chiến thắng thường kết thúc bằng cú đá xuyên phổi hạ gục đối phương ngay tại trận. Xám là nỗi sợ kinh hoàng của các chiến kê Trung quốc.
          Thông qua các tay xe ôm gọi điện về, Máu Me và nó biết công an tiến hành vây bắt. Máu Me và nó nhanh chóng thay đổi áo quần, giấu gà vào ba lô lên xe máy tẩu thoát...
          Nó và Máu Me phóng xe về quê . Nó nhốt hai chiến kê ở hai ngăn chuồng gà cũ rồi cẩn trọng lấy cây que che đậy cẩn thận.
          Nó cất chiếc xe máy bên nhà ông bà ngoại, đưa tiền cho ông bà giữ hộ. Nó ở nhà hai hôm lại đi.
          Thế đấy, mới mười ba mười bốn tuổi đầu nó đã như con cáo. Một con cáo tinh quái bên một con cáo già biết giấu mặt , biết chọn giờ để bắt gà.

          Chương 11

          Ông Hai Bốn cười khà khà để hở miệng lộ ra những chiếc răng không còn. Năm nay ông đã ngoại tám mươi rồi. Lão Mạnh nhìn ông Hai Bốn cười cũng cười theo. Ông Hai Bốn lên tiếng: Lão Mạnh này vô duyên quá! Cậu cười gì ở tớ? Cười để hở mười cái răng à?
          Lão Mạnh lại cười và thêm câu bình luận: Ông anh cười đâu có hở mười cái răng? Em chả thấy chiếc nào? Ông Hai Bốn tiếp lời: Ấy là tôi nói cậu. Còn tớ sắp xuống lỗ rồi. Răng đi bỏ lợi ở lại., buồn thế. Cậu không quan sát tớ ăn bây giờ à? Những món khoái khẩu như gân cốt bò, lợn, gà tớ có xơi được đâu? Tớ toàn dành cho các cậu đấy thôi ? Bây giờ tớ phải suy nghĩ về tớ. Có lẽ tháng tới tớ sẽ chu du thiên hạ, đến với những nơi đáng đến, đến với đồng đội,bạn bè, đến nơi thắng cảnh, kẻo đôi năm nữa lại ngồi một chỗ hoặc chui xuống lỗ thì tiếc lắm.
          Lão Mạnh tròn xoe mắt nhìn ông Hai Bốn, bởi từ trước tới giờ ông Hai Bốn có chịu đi xa đâu? Ông chỉ loanh quanh trong xóm. Hay bây giờ ông có quá nhiều tiền nên tính chuyện rong chơi. Vả lại ông Hai Bốn đi chơi là phải. Mình phải ủng hộ. Nghĩ đến đây Lão Mạnh mới nói: Bác nói đúng rồi. Bác nên chu du thiên hạ một chuyến. Em ủng hộ bác. Tiền bác giờ nhiều như quân Nguyên không tiêu để làm gì? Nói dại.... có mang đi được đâu?
Nghe lão Mạnh nói thế, ông Hai Bốn lại khà khà cười. Ông chấn chỉnh lão Mạnh: Cậu vừa nói có nhiều tiền không tiêu để làm gì? Sai bét ! Tớ có kế hoạch chi tiêu rồi. Một tỉ đồng trong túi tớ đâu phải nhỏ? Tớ sẽ chi tiêu hợp lý cho các cậu xem. Đừng tưởng tớ già  mà lẫn cẫn lẩm cẩm nhé? Tớ còn tinh chán, ngoài tám mươi đã là cái gì.
          Nói rồi ông Hai Bốn đưa ra kế hoạch của mình. Ông bảo Lão Mạnh gọi vợ chồng Du, bà Hồng tới.
          Khi đã đông đủ thành phần, ông Hai Bốn chỉ ghế họ ngồi, ông nói: Vừa rồi tôi bán bộ bàn ghế và cây lộc vừng cho chồng con Hoa được một tỉ đồng. Số tiền này quá lớn với tôi. Bội bàn ghế này tôi mua trước khi nghỉ hưu, thời ấy giá trị không lớn, chỉ bằng mấy tháng lương,ai ngờ bây giờ nó như thế. Người xưa đã nói “Lộc bất tận hưởng”. Tôi quyết định để lại cho quán Ẩm thực Việt năm trăm triệu đồng. Số tiền này để mở rộng kinh doanh. Cụ thể anh Mạnh, anh Du ra làm việc với xã, mua thêm mảnh đất gần lão Bình cũ rượu mới. Năm trăm triệu còn lại tôi tặng mỗi vị hai triệu đồng ,gọi là lộc. Vị chi hết tám triệu, hai triệu bữa trước tôi đã khao mọi người, cộng lại là mười triêu. Tôi mua cho tôi và vợ một mảnh đất hậu sự bên công viên Vĩnh Hằng trên núi Thắng hết sáu mươi triệu, tặng cho quỹ học xã ba mươi triệu, còn lại bốn trăm triệu. Ba trăm triệu đưa vợ giữ đề phòng ốm đau, một trăm triệu tôi cầm tháng sau tôi đi chu du thiên hạ, thăm bạn bè thời quân ngũ, nhà nào khó khăn thì giúp họ chút ít. Đơn giản chỉ có vậy, mọi người nghĩ sao?
          Nghe ông Hai Bốn trình bày kế hoạch chi tiêu của mình ai cũng buồn cười, nhưng ai cũng bằng lòng. Lão Mạnh hỏi ông Hai Bốn: Chỉ còn vài ngày nữa là hết tháng, thế anh có cho chị đi cùng không? Có chứ! Thời trẻ tôi với bà ấy xa nhau nhiều rồi. Bây giờ phải gần  nhau. Mấy hôm nữa vợ chồng tôi sẽ rong ruổi từ Bắc vào Nam hết tháng...
          Ông Hai Bốn đang nói bỗng nhiên dừng lại, ông nghẹn ngào, mắt ông chớp liên tục ,nước mắt chảy ra, mắt đỏ hoe... Mọi người biết ông đang xúc động nhớ lại thời chiến tranh...
          Ông xúc động nói: Tôi sẽ đưa nhà tôi lên Điện Biên, lên miền tây bắc. Nơi ấy nước mắt, mồ hôi,  máu tôi đã đổ...Nơi ấy biết bao người lính tuổi mười tám đôi mươi như tôi đã hi sinh, họ nằm lại nơi đây...Ông Hai Bốn nghẹn ngào giây lát mới nói tiếp: Tôi sẽ đến nghĩa trang thắp hương viếng họ. Tưởng nhớ đến họ, những người đã hi sinh vì đất nước.
          Sau đó về Hà nội, vào lăng viếng Bác, cho bà vợ xem xác máy bay B52, tôi thăm một số bè bạn cũ. Thời gian còn lại sẽ đến mảnh đất miền Trung, rẻo đất thành đồng lũy thép những năm chiến tranh phá hoại, nơi tôi mười lăm năm đầu đội mũ sắt, ngồi bên mâm pháo với những trận đánh lịch sử bảo vệ cầu Hàm Rồng... Rồi vào Nam thăm lại các địa phương nơi đóng quân, nơi chúng tôi đặt trận nã đạn vào Tà Cơn, Dốc Miếu...Ôi, nhiều  lắm, không biết có đủ thời gian để đi hết được không? Ông Hai Bốn nhắm mắt, ngửa cổ nhìn lên vòm cây xanh biếc lá...
          Mọi người ngắm nhìn ông Hai Bốn lòng đầy cảm phục. Có lẽ những năm tháng cuối đời ông hay nhớ về quá khứ, ở ông đó là một quá khứ hào hùng tắm mình trong những trang sử vẻ vang dân tộc. Những năm tháng đó dài dằng dặc sống chết bên đạn bom không biết chết khi nào,không hề tính toán đến ngày trở về. Ông quen đời quân ngũ, hơn bốn chục năm còn gì. Ngày ông nghỉ hưu, về nhà ông hay cằn nhằn với mọi người vì lối sống không ngăn nắp, bầy bừa, luộm thuộm. Ông sắp xếp lại trật tự mọi thứ trong nhà,trong bếp cho tới ngoài vườn rau nơi để cuốc, để thùng tưới, vân vân. Ngày đầu vợ ông cảm thấy khó chịu ở ông. Ông như một cái máy, đến giờ là làm việc, làm theo một quy trình khắt khe. Khi ông tham gia làm kinh tế trong nhóm Ẩm thực Việt, ông cũng như vị chỉ huy, ông khảo sát cụ thể, phân tích từng yếu tố dẫn đến thành công hay thất bại.
          Mấy ngày sau nhiều thực khách ngoài thị xã thường hay đến ăn nhậu biết ông sắp có chuyến đi xuyên việt, người tham gia nội dung này, nội dung kia. Có người bảo ông nên đi bằng tàu hỏa,ông tha hồ nhìn ngắm phong cảnh đất nước,lại không mệt mỏi. Người bảo ông đi bằng ô tô, ông thích dừng đâu cũng được, ngày đi đêm nghỉ. Cuối cùng ông chọn phương tiện ô tô. Ông thuê hẳn chiếc xe con năm chỗ, thuê hẳn người lái. Có nhiều người kêu ông lãng phí,ông thừa nhận điều đó. Nhưng đây là chuyến đi dối già của ông. Có lẽ sau chuyến đi này  không bao giờ ông có điều kiện đi nữa.
Trước ngày đi ông nghỉ việc ơ cửa hàng hai ngày để chuẩn bị.
          Vợ ông không quan tâm đến phương tiện đi. Bà luẩn quẩn với thứ quần áo,với đồ ăn đem theo. Thấy thế ông bảo: Bà lo áo quần thôi, đồ ăn không cần, dọc đường hàng quán rất nhiều, à này, bà nhớ đem cho tôi can rượu năm .... hay mười lít nhỉ? Mười lít nhé. Và một thùng bia, một thùng nước chai.
          Ông Hai Bốn chợt nhớ ra điều hệ trọng, đấy là bộ quần áo sĩ quan, quân hàm, mũ cứng, mũ mềm, giày...Ông vào phòng mở tủ lấy ra bộ quân phục đầy đủ hầu như còn mới tinh. Đây là bộ quân phục ngày nghỉ hưu ông được sư đoàn tặng, ông chỉ dùng nó trong những ngày lễ tết..
          Ông Hai Bốn cất nó vào trong túi.
          Ngày ông Hai Bốn và vợ lên đường ông không muốn cho ai biết, vậy mà dân làng Vàng hầu như ai cũng biết.
          Đám đàn ông mới nhậu về kháo nhau “Cụ ấy đi chuyến dối già.” “ Về già người ta thường hay nhớ về quá khứ” “. Quá khứ là quãng thời gian đã qua đi.” “Mỗi người có một quá khứ. Kẻ tội lỗi,người vinh quang.” “Tôi không cần quan tâm quá khứ, tôi chỉ cần cái hiện tại” “Cụ ấy toàn là vinh quang thôi. Cánh mình cổ cày vai bừa từ trẻ tới giờ có đếch gì mà vinh quang!” “ Ông nói thế mà nghe được ? Cổ cày vai bừa cũng vinh quang chứ? Không có người ở quê cổ cày vai bừa thì lấy gì cho vào dạ dày” “Thôi đi các vị, lắm chuyện quá! Có thế mà cũng tranh luận,mệt cả người, dở hơi!”. Đám người rượu vào lời ra tụ tập tranh luận sôi nổi một hồi rồi tản ra ai về nhà nấy...
          Ngày đầu tiên buổi hành trình, vợ chồng ông Hai Bốn nghỉ tại Hòa Bình. Ông đưa vợ đi tham quan đập thủy điện Hòa Bình.
          Đứng trên bờ đập nhà máy, ông lặng nhìn hồ nước mênh mông, sâu thăm thẳm...
          Nơi đây mấy chục năm trước, ông đã từng nghỉ chân để lên Điện Biên giờ đã chìm sâu dưới trăm mét nước. Những mái nhà sàn, vườn cây, ao cá, mồ mả ông bà tổ tiên của người Mường đã di chuyển đi nơi khác.
          Nơi đây năm mười bảy tuổi ông xung phong tham gia bộ đội chủ lực. Năm năm sau ông về Trung đoàn 55 ở Thanh Hóa, sau đó ông được bổ sung vào Trung đoàn 89 Đại đoàn 316 giải phóng Tây Bắc. Khi tiêu diệt hết địch, giải phóng tỉnh Lai Châu, Đại đoàn 316 tiến về áp sát Điện Biên Phủ nã pháo vào sân bay Mường Thanh.
          Ba mươi hai ngày đêm chiến đấu ác liệt giành chiến thắng trên Đồi Xanh, địch đã hết hi vọng mở rộng vòng vây chung quanh tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
          Sau chiến thắng Đồi Xanh, ông cùng đồng đội đánh chiếm đồi A1, một cứ điểm kiên cố được quân Pháp thiết kế nhiều tầng giao thông hào. Thời gian này ông là một trong những tay súng DKZ 75 ly giỏi của Đại đoàn 316...
          Đứng trên đập nhà máy lồng lộng gió, tâm tư ông Hai Bốn như đắm chìm trong quá khứ, cái thời thanh niên rất ý nghĩa, bước ngoặt của đời ông. Từ đó đời ông gắn với chinh chiến, gắn với hai cuộc chiến tranh vệ quốc gian khổ, hào hùng của dân tộc.
          Ông lặng im...Bà Hai Bốn biết được xúc cảm của chồng, bà cũng lặng im đứng bên.
          Một đêm nghỉ lại Hòa Bình, cửa ngõ lên miền Tây Bắc, sớm hôm sau ông lên Điện Biên.
          Việc đầu tiên trên mảnh đất Điện Biên vợ chồng ông đến nghĩa trang thắp hương các anh hùng liệt sĩ, đồng đội của ông. Ông khóc nhiều. Ông khóc vì nỗi đau máu xương đổ xuống, ông khóc vì chiến thắng, vì hạnh phúc.
          Ông dẫn vợ đến xem hầm Đờ Cát, tướng chỉ huy bại trận Điện Biên.
          Mấy ngày trên đất Điện Biên ông thấy cảnh vật thay đổi quá nhiều.  Những quả đồi lở loét hố bom đạn xưa giờ xanh bạt ngàn cây trái, cánh đồng Mường Thanh lúa chín vàng, dòng sông Nậm Rốm nước  trong xanh, bản làng người Thái, người Mường, người Kinh bên nhau. Di chứng chiến tranh còn lại với thời gian là chiếc xe tăng đã han gỉ, là hầm chỉ huy của viên tướng bại trận Đờ Cát.
          Tạm biệt Điện Biên, ông vào mảnh đất miền Trung .
          Thanh Hóa. Mảnh đất kiên cường những năm chống chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ lần thứ nhất kéo dài bốn năm với hơn một ngàn ngày đêm khốc liệt. Trên đường từ Hà nội vào, ông Hai Bốn đã tính sẽ đến Hàm Rồng, nơi “đầu mút của khu vực cán xoong”
          Ông hồi tưởng lại tình hình chiến sự mấy chục năm về trước, ông nhớ rành rọt như in trong đầu. Với ông có nhiều thứ ông lãng quên, nhưng những mốc quan trọng trong đời binh nghiệp ông không bao giờ quên. Ông nhớ về cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất của đế quốc Mĩ ,từ 5 tháng 8 năm 1964 đến 1 tháng 1 năm 1968. Ông nhớ lại cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ hai, từ 26 tháng 12 năm 1971 đến15 tháng 1 năm 1973.
Ở giai đoạn thứ nhất:
           Mĩ và tay sai thất bại lớn trong ở chiến trường miền Nam, cuối năm 1964 đầu năm 1965, Mĩ vạch kế hoạch ném bom miền Bắc. Huyết mạch giao thông từ Hà nội vào đường mòn Hồ Chí Minh,có sáu mươi điểm tắc quan trọng, trong đó Hàm Rồng là điểm tắc quan trọng nhất, là đầu mút của khu vực cán xoong. Mĩ đưa ra mục tiêu phải phá sập cầu Hàm Rồng. Mất cầu Hàm Rồng Mĩ sẽ cắt được mạch máu giao thông Bắc- Nam, phá hoại nền kinh tế Thanh Hóa, làm suy yếu vai trò  hậu phương với tiền tuyến miền Nam...
          Tầm quá trưa, xe ông Hai Bốn dừng lại nhà nghỉ phía nam cầu Hàm Rồng. Xuống xe mọi người giục ông vào nhà hàng ăn trưa, ông chần chừ như đang tìm kiếm một thứ gì đâu đó. Ông đến bên một cụ già ngồi trong nhà hàng nhặt rau, ông biết cụ già ở tuổi tám chín mươi sẽ là nhân chứng nơi này những năm chiến tranh ác liệt. Ông lân la hỏi chuyện: Cụ ơi, nơi này thời chiến tranh ác liệt lắm phải không? Cụ già ngừng tay ngẩng mặt nhìn ông hỏi lại: ông là việt kiều ở nước ngoài mới về nước hả?  Chắc thế nên không biết mảnh đất này, chiếc cầu này. Đây là cầu Hàm Rồng, thời chiến tranh nơi này tụi Mĩ đánh phá đạn bom dữ lắm. Ông muốn biết hết ông phải ở đây cả tuần, phải đi hết xứ Thanh, phải hỏi nhiều người, tôi già quá rồi, gần trăm tuổi nhớ không nổi... Nghe cụ già nói vậy, lòng ông nặng trĩu những ưu tư...
          Bữa cơm trưa quá muộn, ăn xong ông Hai Bốn về phòng nghỉ. Ông cứ tưởng đoạn đường dài hơn trăm cây số từ Hà nội vào sẽ làm ông mệt mỏi, ông sẽ ngủ một giấc thật say, êm đềm. Nhưng ông không ngủ được. Quá khứ cứ dội về tràn ngập trong ông...
          Trận đụng đầu lịch sử của đồng đội ông, của ông với cuộc chiến tranh phá hoại của giặc Mĩ ở  đây. Với âm mưu cắt đứt sự chi viện Bắc- Nam, Mĩ tập trung hỏa lực mạnh muốn đánh dứt điểm Hàm Rồng...
          Sáng ngày 3 tháng 4 năm 1965, 16 chiếc máy bay đầu tiên của Mĩ ném bom cầu Đò Lèn, cầu Cun, ga xe lửa Văn Trai.
          Cụm hỏa lực phía bắc cầu Hàm Rồng đã bắn rơi chiếc máy bay trinh sát.
          Đầu giờ chiều cùng ngày cuộc tấn công của máy bay Mĩ ồ ạt :
102 lần tốp máy bay, 360 lần chiếc , 14 đợt tấn công toàn khu vực Hàm Rồng.
          Trên trời từng tốp phản lực các loại F105, F8, RF101... gầm rú...
Nhận định địch sẽ đánh phá ác liệt hơn, Bộ Tổng Tư Lệnh đã điều động ba đại đội pháo cao xạ 57 ly từ Trung đoàn 234 Sư đoàn 350, Bộ Tư lệnh phòng không ở Nghệ an tăng cường cho Hàm Rồng. Ông và đồng đội hành quân  cấp tốc .
          Sáng ngày mùng 4 tháng 4 năm 1965 Mĩ phát hiện đơn vị ông, máy bay Mĩ tập trung đánh phá khu vực bến phà Ghép huyện Tĩnh gia hòng ngăn không cho xe pháo của ta qua sông.
          Các đại đội 2, 4, 5 và khẩu đội 14 ly 5 đã bắn rơi 3 chiếc F105 bắt sống một giặc lái.
          10 giờ sáng cùng ngày, máy bay Mĩ từ hướng sân bay Cò Rạt Thái Lan, sân bay Đà Nẵng, tàu sân bay hạm đội 7 ngoài biển thay nhau bổ nhào ném bom khu vực Hàm Rồng.
          Đơn vị pháo cao xạ 57 ly trung đoàn 234 của ông chặn đánh vòng ngoài trên nhiều tầng, nhiều hướng, ở mọi độ cao làm cho đội hình chiến đấu của địch rối loạn không thể công kích mục tiêu như đã định. Trận đánh này ông bị thương vùng vai, đồng đội giục ông về tuyến sau nhưng ông không chịu rời trận địa. Đây là lần thứ tư máu ông đã đổ.
          Hai ngày 3 và 4 tháng 4 năm 1965, Mí sử dụng 174 lần tốp, 454 lần chiếc máy bay, ném 627 quả bom phá, 58 quả bom nổ chậm, hàng trăm tên lửa, rốc két vào các vùng trọng điểm tỉnh Thanh Hóa. Hai ngày chiến đấu kiên cường, quân dân Thanh Hóa bắn rơi 47 máy bay, bắt sống nhiều giặc lái, bảo vệ an toàn cầu Hàm Rồng.
          Giai đoạn thứ hai :
          Từ ngày 26 tháng 12 năm 1971 đến 15 tháng 1 năm 1973, Mĩ sử dụng các phương tiện chiến tranh hiện đại như B52, tên lửa Tà- lốc, bom xuyên, bom la de đánh Hàm Rồng.
          Đêm 21 tháng 4 năm 1972 Mĩ thả bom vào hai làng Hạc Oa (Đông Cương) và Phượng Mao (Hoàng Hóa) giết chết hàng trăm người.
Ngày 14 tháng 6 năm 1972 Mĩ thả bom vào đê Sông Mã sát cầu Hàm Rồng giết  chết 64 giáo sinh trường y sĩ và trường sư phạm 7+ 3, làm bị thương hàng trăm người.
          Hồi tưởng lại những sự kiện lịch sử trong giai đoạn ác liệt, hào hùng của dân tộc , ông Hai Bốn nhớ lại những lời thề của ông, của đồng đội ”Hàm Rồng là máu xương,là niềm tin của bốn phương gửi về”,“Bị thương nặng không kêu ca, bị thương nhẹ không rời vị trí”,“Thà gục trên mâm pháo, quyết không để gục cầu”...
          Ông Hai Bốn nói vợ, với chàng trai lái xe: Thời ấy chiến tranh ác liệt, cái chết cận kề nhưng người lính không hề sợ, chỉ có tâm huyết sẵn sàng hi sinh thân mình vì Tổ quốc. Vậy mà thời này... Ông Hai Bốn không nói hết câu. Ông thở dài trăn trở...thời bình mà lòng người phân tán...tổ quốc trở thành xa vời, cá nhân, gia đình là trên hết...
          Ông Hai Bốn ở lại Thanh Hóa những một tuần. Ông đi về hầu hết các huyện tỉnh Thanh gặp lại các chiến binh thời ấy. Gặp nhau sau mấy chục năm xa cách, người mất, người còn, gia cảnh cũng khác, người giàu, người nghèo, gặp nhau họ vồ lấy nhau cười, khóc...Một người bạn tuổi cũng như ông, cấp bậc cao hơn ông chợt nói: Cái năm 1972 anh còn nhớ có sự kiện gì không?
          Ông Hai Bốn sững người không nhớ nổi, bởi năm tháng ấy có quá nhiều sự kiện với ông, với đơn vị ông. Ông đành chịu. Bạn ông cười nói: Cuộc chiến tranh có bao điều kì diệu, trước ngày anh và tôi được cấp trên cử vào Nam, nhằm che mắt địch, giấu tông tích anh và tôi đã chấp nhận “hi sinh”, gửi giấy tử gửi về địa phương, tờ giấy ấy vợ tôi còn giữ... Nghe đến đây bà Hai Bốn nói: Các ông có biết ngày đó chị em tôi phải nuốt nước mắt thế nào không? Tất cả nỗi đau phải cố dồn vào công việc để quên đi. Nhưng người có phải đá đâu, mỗi khi đêm về lại khóc trong màn...khóc giấu bố mẹ chồng.
          Hôm sau ông Hai Bốn, vợ và bạn bè đến nghĩa trang liệt sĩ thắp hương cho những người đã khuất. Đứng trước bạt ngàn mộ chí, ông và đồng đội đã khóc...
          Máu xương, nước mắt của dân tộc đã đổ xuống quá nhiều cho đất nước này được trường tồn.
          Chiều hôm ấy chiếc xe con tiếp tục lăn bánh chở ông Hai Bốn và vợ qua các phố dài sầm uất, qua những cánh đồng xanh bát ngát, những miền biển xanh cát trắng ,những nhà hàng, cửa hiệu đông người ăn uống để đến với mảnh đất miền Nam. Nơi ông đến là cầu Hiền Lương, Dốc Miếu, Cồn Tiên, Khe Sanh.

Đã đăng:
Tập 1:
Tập 2:

1 nhận xét: