Nhà thơ Trần Hùng Thắng, bút danh Hoài Ngọc Anh, sinh năm 1942, quê xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
Ông
là hậu duệ của Tả Hãn Tướng Quân. Tả Hãn tướng quân là cụ Trần Bá Khoản (tức
Nghiễm) quê làng Trà Lũ. Cụ có sức khỏe hơn người, lại tinh thông võ nghệ. Cụ
thường sử dụng thanh đao to bằng tàu lá chuối có cán bằng sắt luyện, hai người
mới khênh nổi. Năm 1740 Trịnh Doanh thân chinh mộ quân đánh dẹp khởi nghĩa Ngân
Già. Cụ ứng mộ lập công lớn được phong Đô chỉ huy đồng tri cai hãn tả hùng hữu
đẳng trung tiệp, kiêm chỉ huy đội thuyền tráng tiết tướng quân Nghiễm trung hầu,
quan võ tứ phẩm triều Lê, giữ chức thủy quân tứ cơ. Khi cụ giải giáp về quê,
gia tư có hàng chục vạn. Dân gian có câu “Đệ nhất Thiêm Kì, Đệ nhì Hãn Tả” nói
về sự giàu sang của cụ. Cuối thời Lê, kho nhà nước trống rỗng, triều đình quyên
góp các xã, Trà Lũ phải nộp 80 vạn quan tiền. Cụ bỏ của nhà ra nộp thay dân
làng. Hiện nay còn đền thờ quan Tả Hãn ở xã Xuân Trung (Xuân Trường – Nam Định).
Con cháu cụ đều theo ngạch võ như: con trai cụ là Trần Đình Thạc làm Tham đốc
vũ huân tướng quân, tước Trọng Nghĩa hầu; Cháu cụ là Trần Đình Lãm làm Đô chỉ
huy sứ; Chắt, chút cụ có nhiều người đỗ Tú tài...
Năm 1949 đến 1955 Trần Hùng Thắng theo gia đình tản cư vào
Thiệu Hóa, Thanh Hóa. Bạn học tuổi thơ của ông nhiều người thành đạt như PGS TS
Nguyễn Lương Tiểu Bạch, Đại tá họa sĩ Đinh Quang Tỉnh, Đại tá nhà phê bình Hồng
Diệu…
Ông tốt nghiệp Đại học Bách khoa Hà Nội khóa 9. Bạn cùng lớp
với ông ngày ấy nhiều người thành đạt như PGS TS Nguyễn Trọng San, TS Chí Hùng,
Nhà nghiên cứu lịch sử Phan Duy Kha, nguyên Thứ trưởng GS TS Đặng Hùng Võ, Nhà
văn Thiếu tướng Hồ Sỹ Hậu,...
Thời trẻ ông đã bộc lộ năng khiếu hội họa, thể thao. Các
môn điền kinh, bóng chuyền, bơi lội ông tham gia nghiệp dư đều đạt thành tích
đáng khen. Năm 1960 ông tham gia cuộc thi bơi vượt sông Đào đoạn dài 5000 mét về
đích tốp đầu. Ông từng nhảy cao qua xà 1,8 mét và được tặng huy chương cá nhân.
Ra
trường, năm 1967 ông về công tác tại Tổng cục Vật tư (sau là Bộ Vật tư, nay là
Bộ Công thương). Năm 1969 ông tham gia thi công công trình B12 (Đường ống dẫn dầu
từ Quảng Ninh về Hà Nội) cùng chuyên gia Liên Xô. Sau đó ông từng tham gia xây
dựng các công trình kho dầu sân bay Nội Bài, Kho vật tư Thanh Hóa, Sơn La, Lạng
Sơn, Tổng kho H101, H102, H204, A315, A318, A320…
Ông từng tham gia thiết kế trưng bày tại các khu triển lãm sáng
kiến của các cơ quan trung ương (1972), Khu triển lãm quốc gia Vân Hồ (1980),
Triển lãm tại Văn phòng Bộ Vật tư, Khu triển lãm thành phố Nam Định, Triển lãm
trưng bày Phòng truyền thống Cấp 3 Xuân Trường kỷ niệm 40 năm ngày thành lập
(2001)…
Năm 1977 ông xây dựng gia đình. Vợ ông là một y tá Bệnh viện
tỉnh Nam Định. Ông có hai con, một trai, một gái đều tốt nghiệp đại học, công
việc ổn định. Thập niên 80 thế kỷ trước, tình hình kinh tế khó khăn, vợ chồng
ông ở đôi nơi càng thêm khó khăn. Sau vụ ông viết văn theo phương pháp hiện thực
phê phán bị người ta gây khó dễ, ông đã bỏ về sống với gia đình, theo đuổi nghiệp
thơ văn.
Trong những năm sống ở Hà Nội, ông quan hệ bạn bè khá rộng rãi. Ông thường lui tới nhà hát kịch giao lưu với các văn nghệ sĩ như Mạnh Linh, Trọng Khôi, Đoàn Dũng, Thanh Tân, Nguyệt Ánh… Một lần ông cùng bạn bè tụ tập ở phòng ông Song Thương (Biên tập viên Đài truyền hình Việt Nam gồm các nghệ sĩ Trọng Khôi, Nguyệt Ánh NSND, NS Thanh Tân, đạo diễn Doãn Hoàng Giang, nhà biên kịch Ngọc Chanh, Song Thương, Văn Ngạn Phó ban biên tập Đài TNVN), mọi người thống nhất mỗi người phải thể hiện năng lực của mình. Thanh Tân thể hiện vai ông gác rừng say, Nguyệt Ánh nhảy “thoát y” trong vai Ni na vở Cậu bé đánh trống trận, Trọng Khôi – kẻ điên đốt đền, Ngọc Chanh – tên tướng cướp (sau đổi thành Tình yêu và tội phạm)… Đến lượt mình, Trần Hùng Thắng ứng khẩu đọc bài thơ vui nhắc tên những người có mặt trong cuộc hội ngộ.
HẠNH NGỘ VĂN
NGHỆ SĨ
Ni Na Nguyệt Ánh thoát y
Doãn Hoàng Giang có chạy đi đằng trời
Trọng Khôi đền đốt tả tơi
Song Thương, Văn Ngạn nổi trôi màn hình
Ngọc Chanh tướng cướp đa tình
Thắng thua ai tỏ chuyện mình với ta…
Thời gian này ông thường hay buổi tối ngồi lều của nhà văn
Phùng Quán (trong nhóm Nhân văn giai phẩm) bên Hồ Tây. Phùng Quán nổi tiếng
“Văn chui, rượu lủi, cá trộm”. Sau khi đi cải tạo về, gặp nhiều khó khăn, để
thêm thu nhập, Phùng Quán phải nhờ nhà thơ Tế Hanh đứng tên sáng tác của mình mới
được ra mắt bạn đọc. Một đôi lần ông đến thăm nhạc sĩ Văn Cao. Đến nay ông vẫn
còn tiếc là ngày ấy không chú ý ghi chép nhiều tình tiết về nhạc sĩ. Nhạc sĩ Đỗ
Nhuận từng bảo: Văn Cao là nhạc sĩ sáng tác quốc ca trên thế giới duy nhất còn
sống. Sau này những chuyện về ông sẽ đắt như tôm tươi.
Từ ngày ông về sống ở thành phố Nam Định, chẳng ai biết ông
là Kỹ sư, mà quen gọi ông là Họa sĩ, Nhà thơ. Ông chơi thân với nhạc sĩ nhà
giáo Nguyễn Hữu Thắng cùng phố Hoàng Văn Thụ. Sau khi báo Nam Định đăng bài
“Giáo viên nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thắng” của ông, bà chị ông Nguyễn Hữu Thắng là Việt
Kiều sống ở Pháp về, mới biết hoàn cảnh cơ cực của em mình mà mua cho Nguyễn Hữu
Thắng ngôi nhà ở Hà Nội. Nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thắng nổi tiếng với ca khúc Không
ai ngăn nổi lời ca. Qua nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thắng, ông quen biết và giao lưu với
giới văn nghệ sĩ Nam Định như Chu Văn, Kim Ngọc Diệu, Vũ Quốc Ái, Phạm Như Hà,
Trần Trung Hiếu, Trần Trung Kỳ, Đức Miên, Minh Đoan, Thanh Hòa, Nhật Tân…
Sau lần gặp nạn do viết truyện ngắn theo phương pháp hiện
thực phê phán, ông không viết truyện nữa, chỉ sáng tác thơ. Tuy nhiên, ông vẫn ẩn
danh chấp bút hồi ký cho bạn bè. Nhiều sáng tác thơ văn của ông đã đăng các báo
Nhân dân, Quân đội nhân dân, Người Hà Nội, Đại đoàn kết, Người cao tuổi, Cựu
chiến binh, và nhiều tạp chí…
Một lần bù khú với bạn bè về chủ đề “Đầu đường thiếu tá bơm
xe / Cuối đường đại tá bán chè đỗ đen” ông đã ứng khẩu:
Nhạc công lạc vật phỏng tay
Úy tá rời trận ra ngay vỉa hè
Bà giáo ngồi ôm nồi chè
Công nhân máy Dệt đêm về thêm
ca
Một lần sáu ông bạn “buôn dưa” tại dinh Nhà giáo Trần Đình
Thi ở cạnh ga tàu Nam Định, theo yêu cầu của bạn, ông đã đọc sáu câu thơ ghép
tên của mỗi người theo vòng tròn mà ông là người sau cùng:
Sáu thầy xơi cô Thi ca
Minh Đoan nhấp nhổm vào ra mấy
lần
Thắng điếc ham “Dệt mùa xuân”
Khiến ông Xuân Huấn dương cần
nhảy ngay
Đức Miên nửa tỉnh nửa say
Thắng thua chưa tỏ, việc này
chửa xong.
Hiện ông sống cùng bà kế ở quê. Ông lấy việc thăm thú bạn
bè, xướng họa thơ ca... làm vui.
Trước đây, có lần Chu Văn - Chủ tịch hội Văn nghệ tỉnh, mời
ông tham gia hội nhưng ông từ chối vì muốn được tự do sáng tác chứ không chịu
phụ thuộc vào tổ chức nào. Tác phẩm chính của ông là tập thơ “Trầu một lá”,
ngoài ra còn hàng trăm bài đăng tạp chí và in trong nhiều tuyển thơ như “Hành
Thiện tự ngàn xưa”, “Giáo sư Vũ Khiêu trong vòng tay bạn bè”, “Vũ Khiêu và bè bạn”,
“Tuổi cao nêu gương sáng”, “Một thoáng Xuân Hương”, “Thi đàn truyền thống Việt
Nam”, “Tuyển tập Đường thi”...
Mảng thơ nổi nhất của ông là thơ tình. Thơ
ông khi buồn não nuột, lúc say đắm dâng trào, có lúc như biển cả bão tố, có khi
êm đềm dịu ngọt, sâu lắng như nước hồ lặng gió...
Nhân đây chép ra mấy bài thơ của ông đã đăng tạp chí:
TRĂNG NON THÔN NỮ
Ngọc
ngà trăng dãi cầu cao
Hàng cây nghiêng ngả, lao xao
ngỡ ngàng
Dậu
thưa thấp thoáng mơ màng
Trời xanh hé mở khuôn vàng
nghiêng soi
Dại
ngây chết đứng giữa trời
Trăng non thôn nữ, bóng người
cầu ao.
THĂM VƯỜN
Vườn em lâu vắng người chăm
bón
Đâu ngỡ thu này anh ghé thăm
Cỏ lác um tùm không xén tỉa
Thiếu mưa đất xốp cũng khô cằn.
Tay mới lướt qua đám cỏ gà
Gặp màn sương phủ phía bờ xa
Cung đàn năm ngón: Mây vờn
núi
Nước bỗng tràn khe đẫm suối
hoa.
Hoa trái đung đưa khéo đón mời
Mới vừa chạm lưỡi đã mê ngay
Thỏa thê tận hưởng xua cơn
khát
Uống mãi ngàn đời chẳng hết
say.
VŨ KHÚC TÌNH YÊU
Chiếc lá chắn cuối cùng buông
rơi
Vòm trời chao đảo
Nhật, nguyệt nhận trao
Sóng cồn vũ bão
Sừng sững tượng đài
Sương dầm đảo xa
Những âm thanh đứt quãng,
nguyên sơ
Nhành liễu rủ
Trời xanh lửng lơ
Không gian chìm
Bão qua, biển thở
Gió lặng rừng già
Hoa khép sườn non
Khúc giao hoan đời đời thao
thức
Trái đất trường tồn
Vũ khúc tình yêu.
MÁI TRƯỜNG
KHÔNG TIẾNG TRỐNG
Mái trướng ấy không hề vang
tiếng trống
Máy bay thù quần đảo suốt
ngày đêm
Không ghế không bàn, trơ trọi
tấm bảng đen
Lũ học trò nghèo dong đèn, đeo
sách, bàn đến lớp.
Đứa ngoài khu Ba, đứa trong
khu Bốn
Dưới mái đình thiêng* ươm con
chữ chuyên cần
Tan học về buồn ngủ díu bước
chân
Bụng sôi cồn cào, mắt hoa đom
đóm
Cơn mưa đầu mùa ào ào ập xuống
Mấy mái đầu che tạm manh áo
tơi
Cô bạn tôi trượt ngã, sách,
bàn rơi
Mặt dính đầy bùn, ngượng
ngùng chữa thẹn
Mắt bồ câu ngày thường lúng
liếng
Sấm giật lưng trời sợ hãi nép
vào tôi.
Tiếng súng ngừng, mỗi đứa mỗi
nơi
Người trở lại quê hương, người
ngược ra Hà Nội
Cuộc sống bộn bề chẳng mấy ai
nghĩ tới
Về ngôi trường không trống giục,
ánh đèn dong.
Đã xa rồi những năm tháng chiến
tranh
Lớp học trò xưa nay đã lên
ông, lên cụ.
Ông kỹ sư già bàng hoàng gặp
lại người bạn cũ
Trước mắt mình, nữ nhà giáo
tóc bạc phơ
Sâu thẳm đáy lòng đánh thức hồn
thơ
Họ bên nhau nhớ về cơn mưa đầu
mùa
Và ngôi trường không tiếng trống.
Thu 2018
…………….
*
Hồi kháng chiến chống Pháp, để tránh máy bay địch bắn phá, các lớp học ở vùng tự
do được tổ chức vào ban đêm. Học nhờ trong các đình, đền cổ. Học sinh đến trường
phải mang theo sách, đèn và bàn học. Bàn cá nhân đóng theo kiểu ghế cắt tóc. Hộp
ghế đựng sách kẹp bởi chân vào mặt bàn.
LỜI THỀ
CON SÁO
Sóng xé nát trăng thề thành mảnh
vụn
Gió thét gào dồn nén mây trôi
Tình lang thang
Sóng nước đầy vơi
Ta lạc giữa đường đời ôm mộng
ảo
*
Vẫn còn đây!
Lời thề con sáo
Hoa phượng bay nhuộm đỏ sân
trường
Nụ hôn đầu đời
Tình bước sang trang
Bàn tay dại ngây thấu mùi da
thịt
Ánh mắt nụ cười nồng say ngây
ngất
Trời đất sững sờ thời khắc
cũng ngừng trôi
Ánh trăng thề ngọt lịm làn
môi
Nguyện bên nhau:
Tới cùng trời cuối đất.
*
Không gian nhạt nhòa
Bình minh vụt tắt
Ánh trăng thề vỡ nát giữa trời
xuân
Ta về đây!
Nhẹ bước chân trần
Biết bao cánh chim bay
Sau mỗi mùa phượng nở
Lớp lớp học trò
Sớm chiều hớn hở
Lại thêm những chuyến đò “Lỡ
bước sang ngang”
Những dở hay phía trước con
đường
Thất bại, thành công nào ai
biết trước
Hãy chấp nhận những gì ta có
được
Quy luật cuộc đời:
Gió cuốn phượng bay.
Mùa phượng 2018
GIÁ
MÀ
Giá
mà mình chẳng gặp nhau
Thì sao có được thương đau tháng ngày
Giá
mà rượu uống chẳng say
Đời còn đâu nữa những ngày nhớ thương
Giá
mà buổi ấy tới trường
Guốc em đừng đứt giữa đường gặp anh
Giá
mà biển chẳng còn xanh
Đất lành đâu dễ hoá thành sông sâu
Giá
mà cau chẳng cần trầu
Tình yêu trai gái còn đâu đến giờ
Giá
mà tình đẹp như mơ
Thì anh đâu có câu thơ - Giá mà...
ĐỢI
Hôm qua em đến phòng anh
Giường đơn thay ghế chân thành mời em
Ngoài
trời thấp thoáng trăng lên
Trong phòng anh có trăng em dọi vào
Mới
nghe tiếng nói ngọt ngào
Tim anh run rẩy trăng nào có hay
Xin
đừng như cánh chim bay
Như làn gió thoảng chiều nay qua thềm
Ước
gì đời mãi bên em
Chăn đơn đỡ lạnh những đêm gió lùa
Em
về trời lại đổ mưa
Sương nhoà lối vắng canh khuya mơ màng
Em
về mai em có sang
Bên này, bên ấy cách hàng dậu thưa
Ngày
ngày hai buổi sớm trưa
Ngóng em qua ngõ kẻng vừa tan ca
Bên
này, bên ấy bao xa
Thế mà em chẳng ghé qua những chiều
Giật
mình đâu biết mình yêu
Phòng đơn anh vẫn bấy nhiêu đợi chờ.
Một số bài thơ của ông đã được
phổ nhạc như “Tiếng chuông”, “Vũ khúc tình yêu” (Nhạc: Trần Công Thủy), “Thành
phố sinh thái năm sao” (Nhạc: Trọng Đài. Ca sĩ Mai Hoa thể hiện), “Người chiến
sĩ Ra đa” (Nhạc: Nguyễn Hữu Thắng), “Khúc ca mùa xuân” (Nhạc: Lý Dũng)…
Ở
tuổi bát tuần, ông vẫn say mê nghiệp thơ văn. Tài ứng khẩu thành thơ của ông vẫn
rất nhanh nhạy. Họa sĩ Ba Tỉnh – bạn ông, có ý định vẽ chân dung ông, nhưng
chưa biết vẽ thế nào thể hiện rõ tính cách và tài năng của ông. Tình cờ đọc được
bài thơ của tôi viết về nhà thơ Trần Hùng Thắng, họa sĩ Ba Tỉnh chợt bùng cảm
xúc và phóng tay liền ba bức chân dung Trần Hùng Thắng, bức nào cũng rất có thần.
Bài thơ còn được nhạc sĩ Trần Công Thủy phổ thành ca khúc “Chúc mừng sinh nhật
Trần Hùng Thắng” do ca sĩ Mạnh Hùng thể hiện. Bài thơ tôi viết về nhà thơ Trần
Hùng Thắng như sau:
CHÂN
DUNG NHÀ THƠ TRẦN HÙNG THẮNG
Vốn dòng Tả Hãn Tướng Quân
Hồn
thêu nét bút, thơ văn dạt dào
Kỹ
sư lớp trước, tự hào
Màng
chi quan chức, thiết nào hư danh
Cho
đi muôn vạn nhánh cành
Nhận
về một lá trầu xanh cay nồng
Ngỡ ngàng đứt gánh tơ hồng
Còn
hai trái ngọt trời không phụ người
Lên
xe, xuống ngựa một thời
Khi
thăm địa phủ, lúc chơi cung Hằng
Tao
nhân mặc khách đãi đằng
Túi thơ bầu rượu kém chăng Đào Tiềm*?
………….
Chú thích:
*Đào Tiềm tự Uyên Minh, người đời Tấn,
nổi tiếng cao thượng, ham đọc sách, giỏi thơ văn, không màng danh lợi, an bần lạc
đạo, lấy tiếng đàn, câu thơ, chén rượu làm vui...
Đầu năm 2022 Hội người cao tuổi địa phương mừng thọ tuổi 80
của nhà thơ Trần Hùng Thắng, tôi lại nghĩ về cuộc đời chìm nổi của ông. Đó là yếu
tố gợi cảm xúc để tôi viết bài thơ chân dung ông… Tôi viết lan man về tiểu sử
ông để bạn đọc thêm hiểu, thêm cảm bài thơ tôi viết chân dung ông.
TMG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét