Hiển thị các bài đăng có nhãn Tác giả Lý Bạch. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tác giả Lý Bạch. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 3 tháng 10, 2017

TRẦN MỸ GIỐNG DỊCH BÀI “TỰ KHIỂN” CỦA LÝ BẠCH


 
Trần Mỹ Giống

Trần Mỹ Giống dịch thơ:

Giải khuây

I
Say ngủ mặc đất trời
Áo ta hoa rụng đầy
Tỉnh theo trăng tản bộ
Chim về tổ, không người

II
         Rượu say sớm tối biết chi
Đầy mình hoa rụng khác gì áo hoa
        Lần theo trăng suối gần xa
Kìa chim về tổ, người đà vắng tanh.

Thứ Hai, 24 tháng 7, 2017

ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI (Kì 12) / TS. Nguyễn Ngọc Kiên chọn và dịch thơ



 
TS Nguyễn Ngọc Kiên


          NHÀ THƠ VƯƠNG XƯƠNG LINH
          Vương Xương Linh 王昌齡 (khoảng 698-756) tự Thiếu Bá 少伯, người đất Giang Ninh (tỉnh Giang Tô), năm 727 (đời Ðường Huyền Tông), thi  đậu tiến sĩ, được bổ làm chức hiệu thư lang. Sau vì sơ suất về hành vi, bị biếm ra làm chức úy tại Long Tiêu, ở phía Tây sông Tương. Khi trở về quê nhà, gặp lúc loạn lạc, bị Thứ sử Lư Khâu Hiển giết chết vì tư thù.
           Vương Xương Linh được người đương thời xưng là Thi thiên tử, có bạn thân là Vương Chi Hoán và Tân Tiệm.
(Theo thivien.net)


Thứ Ba, 6 tháng 6, 2017

ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI (Kì 4) / Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch và giới thiệu thơ

TS Nguyễn Ngộc Kiên

          VƯƠNG XƯƠNG LINH
          Tiểu sử: Vương Xương Linh là người Kinh Triệu, Trường An (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc).
          Năm Khai Nguyên thứ 15 (727) đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), ông thi đỗ Tiến sĩ.
          Bảy năm sau (734), ông lại đỗ khoa Bác học hoành từ, lần lượt trải chức: Bí thư sảnh, Hiệu thư lang, huyện úy huyện Dĩ Thủy [3].
Năm Khai Nguyên thứ 28 (740), vì phạm lỗi ông bị giáng làm Giang Ninh thừa. Rồi vì những vụn vặt, ông lại giáng làm Long Tiêu úy.
          Cuối năm 755, tướng An Lộc Sơn dấy binh chống triều đình. Sau đó, Vương Xương Linh trở về làng thì bị viên Thứ sử ở địa phương tên là Lư Khưu Hiển giết chết vì tư thù  khoảng năm 756.
Số thơ của Vương Xương Linh để lại hiện còn hơn 180 bài, một nửa là tuyệt cú.
          Ngoài ra, theo thiên "Nghệ văn chí" trong Tân Đường thư (Sử nhà Đường bộ mới), thì ông còn viết sách lý luận có nhan đề là Thi cách (Khuôn phép của thơ, gồm 2 quyển) và Thi trung mật chỉ (Ý sâu kín của thơ, gồm 1 quyển); nhưng nay chỉ còn quyển Thi cách do người đời Minh chép, nhưng có người nghi là sách giả, không phải nguyên bản
           (Theo Từ điển Wikipedia mở tiếng Việt)

Thứ Bảy, 3 tháng 6, 2017

ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI (Kì 3): Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch thơ và giới thiệu



TS Nguyễn Ngọc Kiên

          -  李白
          Tiểu sử: Lý Bạch (chữ Hán: 李白; 701- 762), biểu tự Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青莲居士), là một trong những nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn danh tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.
          Suốt cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên tài về thi ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Ông cùng người bạn Đỗ Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường, mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng văn. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên (詩仙) hay Thi Hiệp (詩俠). Giới thi nhân bấy giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu Tiên (酒仙) hay Trích Tiên Nhân (谪仙人). Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên (天上謫仙).

Thứ Hai, 8 tháng 5, 2017

Trần Mỹ Giống dịch thơ “Tống hữu nhân” của Lý Bạch



TIỄN BẠN

Lý Bạch
Non xanh bao phía bắc
Nước bạc lượn đằng đông
Nơi đây khi tiễn biệt
Lẻ loi tựa cỏ bồng
Dạ khách buồn mây nổi
Tình bạn sầu chiều buông
Vẫy tay nay tiễn biệt
Tiếng ngựa xa xót lòng.

Trần Mỹ Giống dịch

Thứ Năm, 15 tháng 12, 2016

NHÀ THƠ LÍ BẠCH



          Nguyễn Ngọc Kiên dịch thơ

          Lý Bạch 李白 (701-762) tự Thái Bạch 太白, hiệu Thanh Liên cư sĩ 青蓮居士, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ - tức Lũng Tây ngày xưa). Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa, lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thuỷ, 25 tuổi "chống kiếm viễn du", đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca" (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục dật. Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Trường An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một "văn nhân ngự dụng" nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thuỷ.