Hiển thị các bài đăng có nhãn Tác giả Đỗ Hữu Trác. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tác giả Đỗ Hữu Trác. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 1 tháng 8, 2023

ĐỀN THỜ XÃ NHẬT HY THỜ AI? / Đỗ Hữu Trác

 


Đền Hạ (Xuân Hy)

 

      Xã Nhật Hy(01), huyện Giao Thuỷ, Phủ Thiên Trường, trấn Sơn Nam xưa có 2 ngôi Đền vẫn còn tồn tại quy mô, bề thế đến ngày nay và đều đã được xếp hạng DI TÍCH LỊCH SỬ VĂN HOÁ CẤP QUỐC GIA từ những năm cuối thế kỷ trước:

       1- Đền Xuân Hy (thuộc xã Xuân Thuỷ, huyện Xuân Trường).

       2- Đền Xuân Bảng (xã Xuân Bảng, huyện Xuân Trường).

       Chúng ta cùng tìm hiểu về hai ngôi Đền đó.

 

Thứ Ba, 25 tháng 7, 2023

CÁC VỊ THIỀN SƯ CHÙA LINH QUANG – TRÀ LŨ TRUNG / Đỗ Hữu Trác

 



        Gần đây, có những thông tin sai lệch về các vị Thiền Sư chùa Linh Quang Trà Lũ Trung(1), là một Phật tử sinh ra và lớn lên ở đất Trà Lũ, tôi mạo muội đăng trình chư đạo hữu một số thông tin, hiểu biết của mình về các vị Thiền Sư xưa ở chùa Linh Quang - Trà Lũ Trung, ngôi chùa toạ lạc ở vị trí cách nhà tôi xưa chừng 1 km.

Chủ Nhật, 16 tháng 7, 2023

TRÀ LŨ XÃ CHÍ / Lê Văn Nhưng ; Đỗ Hữu Trác dịch.

 



 

茶縷社誌

 

TRÀ LŨ XÃ CHÍ

 

Khắc in mùa Xuân năm Duy Tân Bính Thìn – 1916.

Tủ sách Nhĩ Khê.

 

 

LỜI DẪN.

 

      1. Làng TRÀ LŨ (茶縷), huyện Giao Thuỷ (膠水), Phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định là một làng khá đặc biệt: Làng được lập muộn (Cuối TK 15, đầu TK 16), dân cư làng gom từ nhiều họ tộc khác nhau (gần 20 họ), có phân chia đấu tranh lương giáo sớm và dai dẳng, kinh tế công thương nghiệp phát triển mạnh, chú ý việc học hành, lắm chữ, có nhiều người đỗ đạt cả văn và võ, xây dựng nhiều công trình văn hoá tâm linh, đền miếu chùa lăng quy mô bề thế, đa dạng, làng có tan có tụ, có “lừng danh” với cuộc “khởi nghĩa nông dân” Phan Bá Vành….Nói chung….làng có nhiều chuyện ….xưa để nói, để kể, để nhớ.

Thứ Bảy, 4 tháng 6, 2022

THIỀN SƯ GIÁC ĐẠO NGẠN / Đỗ Hữu Trác

 

 

 

       南無本師釋迦牟尼佛。

       Nam mô Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

 南無慧光塔敕賜僧統道原和尚清白比丘法諱覺道岸如常禪師不器菩薩禪座下。

       Nam mô Tuệ Quang tháp Sắc tứ Tăng thống Đạo nguyên Hoà thượng Thanh bạch tì kheo pháp huý Giác Đạo Ngạn Như Thường thiền sư Bất khí Bồ tát Thiền toà hạ.

Thứ Năm, 14 tháng 10, 2021

CÂU ĐỐI MỪNG ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH / Đỗ Trác

       

Dịch giả Đỗ Hữu Trác (Người cao)

             

       Đặng Đức Địch (20/8/1816 – 04/8/1896) tự Cửu Tuân, hiệu Côi Phong, đỗ Cử nhân năm 1848, đỗ Phó Bảng năm 1849, làm quan trải các chức: Tri huyện Hàm Yên, Tri phủ An Bình, Đốc học Hải Dương, Đốc học Bình Định, Giám sát Ngự sử, sung Tập Hiền viện Tu soạn… Năm 1873 bị bệnh, ông xin về quê an dưỡng và nuôi mẹ già, Năm 1874 triều đình triệu ông ra làm Đốc học Nam Định, Thị giảng học sĩ, sung Sử quán Toản tu, Hồng Lô tự khanh, năm 1883 được giao chức thự Tuần phủ Quảng Ngãi, 1884 thăng Lễ bộ Tham tri, sung Sử quán Toản tu, lĩnh Lễ bộ Thượng thư, 1886 sung Kinh diên giảng quan(1)… Những năm 1873-1875 ông được Cai Tổng Lê Như Lâm mời về làng Trà Lũ dạy học, là thầy dạy học nâng cao của Cử nhân Lê Văn Nhưng – tác giả cuốn Trà Lũ Xã Chí(2).

      Ông là người nghiêm cẩn, mực thước, mô phạm, và… rất kỹ tính(3). Ông cao lớn, quắc thước, tiếng nói sang sảng.

      Trong dịp mừng thọ bát tuần của ông, nhiều bè bạn, học trò, quan viên, văn thân hàng xã, họ tộc đều có đối, trướng mừng.

Thứ Năm, 16 tháng 9, 2021

ĐỊA DANH XUÂN TRƯỜNG - ĐÔI ĐIỀU TẢN MẠN / Đỗ Trác

 


                                                Trần Mỹ Giống và Đỗ Hữu Trác (bên phải)


              Cái tên “Xuân Trường 春長” mới chỉ xuất hiện cách nay chừng 150 năm, nhưng nó đã có “cựu danh”, “tiền danh” = “tên cũ”, “tên trước” từ cách nay cả ngàn năm rồi. Cái mảnh đất mà đầu thế kỷ 21 nay chúng ta gọi là “Xuân Trường” xưa vốn không phải như thế, mà nó đã có nhiều “thêm”, “bớt” trong lịch sử do những yếu tố tự nhiên và… hành chính.

Thứ Ba, 27 tháng 4, 2021

CHÙA VIÊN QUANG... THIÊN DI KÝ / Đỗ Trác

 

                        Nhà nghiên cứu Hán Nôm Đỗ Hữu Trác - Tác giả bài viết này- Người cao bên phải


          Chùa Viên Quang (Viên Quang Tự - 圓光寺) hiện toạ lạc tại Làng Nghĩa Xá – Xã Xuân Ninh – Huyện Xuân Trường – Tỉnh Nam Định. Chùa nguyên được khởi dựng từ thời Lý, những năm 10XX, do triều đình cấp tiền xây dựng. Chùa một thời do Thiền sư Thánh Tổ Giác Hải (覺海) trụ trì, và sau gần trăm năm được người chắt của Thiền sư là Lý Tường Đĩnh (李祥挺) đứng ra tu bổ, trùng tu nâng cấp. Thời gian, lũ lụt, lở bồi đã làm cho chùa Viên Quang phải hai lần “thiên di”, khiến cho vị trí toạ lạc hiện nay (2020) của chùa chính là điểm “dừng chân” lần 3 sau 2 lần “dịch chuyển”. Này bạn, bạn hãy cùng tôi trở về quá khứ hoang vắng xa xưa để dõi theo lai lịch của ngôi chùa cổ, quý, sắp tròn ngàn năm tuổi này nhé!

Thứ Tư, 1 tháng 7, 2020

GIỖ TRẬN 12/5 / Đỗ Hữu Trác



                                      Tam quan Cảnh Linh tự

        Ngày này năm xưa!

        Hồi bé cứ nghe các cụ kể rằng, ngày trước vùng làng quê Xuân Trường - Giao Thuỷ nói chung, xã Trà Lũ nói riêng có ngày “giỗ trận” (nghĩa là giỗ hàng loạt, nhiều gia đình, họ tộc có giỗ) vào ngày 12 tháng 5 (âm lịch). Sở dĩ có chuyện đó là vì ngày 12 tháng 5 năm Quý Mão – 1903 có nhiều người ở vùng Giao Thuỷ - Xuân Trường chết vì bão (nhà cửa sập, cây cối đổ đè chết), vì đuối nước biển dâng (mà ngày nay ta gọi là “sóng thần”). Ông nội tôi là người có được chứng kiến cơn bão đó mỗi lần kể lại đều lắc đầu, lè lưỡi vì sự khủng khiếp của nó. Gần đây, đọc lại sách Trà Lũ xã chí của cụ Cử Lê Văn Nhưng viết, khắc in năm 1916, phần “kiếp nạn” mới thấy cụ thể THÊM về điều đó.

Chủ Nhật, 21 tháng 6, 2020

NGHỀ KHÂU NÓN Ở TRÀ LŨ BẮC / Đỗ Hữu Trác




Nghề làm nón lá đội đầu ở Trà Lũ Bắc không nổi tiếng như một thương hiệu, một “làng nghề” như ở làng Chuông – Phương Trung – Thanh Oai – Hà Đông (nay thuộc Hà Nội), làng Hạ Thôn Quảng Tân – Ba Đồn – Quảng Bình, hay về nét đặc trưng như nón bài thơ xứ Huế. Thiệt thòi như thế là bởi vì dân làng Trà Lũ biết và giỏi nhiều nghề thủ công quá, không chuyên sâu một nghề như những xứ trên. Và tỉ lệ dân làng làm nghề thủ công này cũng không quá lớn, dân cư còn chia sẻ vào những ngành nghề khác như đi buôn, làm cót lá, đan bồ, làm bánh kẹo…. Thực tình, cầm cái nón trên tay mà ngắm nghía, săm soi từng mũi kim, từng đường khâu, từng mép lá, sờ vuốt từng “dòng” khâu, từng mối “nứt” và đưa cái nón ra xa, nheo mắt ngắm màu trắng loá của nó, người có kinh nghiệm một chút sẽ thấy nón lá Xuân Bắc đẹp, chắc hơn hẳn các loại nón lá có xuất xứ từ các làng nghề mà tôi kể ở trên.

Thứ Năm, 18 tháng 6, 2020

NGHỀ LÀM CÓT Ở LÀNG TRÀ LŨ BẮC / Đỗ Hữu Trác



        Sống giữa vùng nông nghiệp gần như là thuần lúa, lại do giao lưu với mọi miền nhiều, nên cư dân Trà Lũ Bắc sớm tìm học và phát triển nghề đan lát, làm cót. Không biết Tổ nghề đan cót nước Việt Nam là ở đâu nhưng cứ như theo tôi tìm hiểu nghề nghiệp và sản phẩm thì có lẽ ở Trà Lũ Bắc có ngành nghề đan cót sớm vào bậc nhất nước Việt Nam. Nghề ấy đã làm phong phú thêm hoạt động kinh tế của cư dân làng, đem lại việc làm cho số đông cư dân trong xã những dịp nông nhàn. Xưa, sau những ngày làm đất, cấy lúa, và sau những ngày gặt hái một năm hai vụ thì người dân xã ta chủ yếu là chơi, “nông nhàn”. Nghe các cụ kể lại thì dân ta hồi ấy chưa có phát triển ngành nghề thủ công mang tính chất hàng hoá. Trong làng có một số người làm nghề “phi nông nghiệp” thì vẫn là theo các nghề, các “chuyên môn dịch vụ” phục vụ cho sản xuất nông nghiệp là chính như thợ rèn làm liềm, hái, rèn dao, cuốc, lưỡi cày, thợ mộc làm nhà cửa, đẽo cày, bừa…Những sản phẩm (ngoài lương thực, thực phẩm) phục vụ đời sống và sản xuất với số lượng lớn như cót lá, chiếu cói, nón lá và theo đó là các ngành nghề làm ra xuất hiện khá muộn về sau này.

Thứ Hai, 13 tháng 1, 2020

Sách mới: TRÀ LŨ XÃ CHÍ



        Dịch giả Đỗ Hữu Trác gửi biếu trang chủ sách mới:

        TRÀ LŨ XÃ CHÍ / Nhĩ Khê Lê Văn Nhưng ; Đỗ Hữu Trác dịch. – H.: Tôn giáo, 2019. – 228 tr. ; 24 cm.