Chủ Nhật, 16 tháng 7, 2023

TRÀ LŨ XÃ CHÍ / Lê Văn Nhưng ; Đỗ Hữu Trác dịch.

 



 

茶縷社誌

 

TRÀ LŨ XÃ CHÍ

 

Khắc in mùa Xuân năm Duy Tân Bính Thìn – 1916.

Tủ sách Nhĩ Khê.

 

 

LỜI DẪN.

 

      1. Làng TRÀ LŨ (茶縷), huyện Giao Thuỷ (膠水), Phủ Thiên Trường, tỉnh Nam Định là một làng khá đặc biệt: Làng được lập muộn (Cuối TK 15, đầu TK 16), dân cư làng gom từ nhiều họ tộc khác nhau (gần 20 họ), có phân chia đấu tranh lương giáo sớm và dai dẳng, kinh tế công thương nghiệp phát triển mạnh, chú ý việc học hành, lắm chữ, có nhiều người đỗ đạt cả văn và võ, xây dựng nhiều công trình văn hoá tâm linh, đền miếu chùa lăng quy mô bề thế, đa dạng, làng có tan có tụ, có “lừng danh” với cuộc “khởi nghĩa nông dân” Phan Bá Vành….Nói chung….làng có nhiều chuyện ….xưa để nói, để kể, để nhớ.

      2. Nhĩ Khê cư sĩ - Cử nhân Lê Văn Nhưng:  Tên thật là Lê Văn Nhưng (黎文仍), tự Khải Vân (啟雲), con ông Lê Soạn (黎撰), tự Thiện Thuật (善述) và bà Đặng thị Tính (鄧氏性). Bố mẹ ông sống ở xóm Đông Biên (東邊) – thôn Bắc – xã Trà Lũ (茶縷) – huyện Giao Thuỷ (膠水) - Phủ Thiên Trường (天長) (nay là Xóm 8, xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, Tỉnh Nam Định). Ông sinh năm thứ 9 thời Tự Đức - Bính Thìn – 1856. Ông là người thông minh, lanh lợi, có trí nhớ rất tốt, đọc sách chỉ một lần là thuộc và lại có biệt tài đọc ngược sách mà không sai chữ nào. Dân trong huyện ngoài làng đều coi là thần đồng, có khả năng đỗ đạt cao. Lúc trẻ ông theo học khai tâm ở thầy đồ Bùi Thiện người làng, sau theo học lớp nâng cao của Hầu tước Đặng Đức Địch những năm 1870 – 1873 (Đặng Đức Địch người làng Hành Thiện, sinh năm 1817, đỗ Cử nhân khoa thi năm 1848, đỗ Phó bảng Khoa thi Kỷ Dậu 1849, sau làm quan đến chức Lễ bộ Thượng thư; những năm 1870 – 1873, về làng Trà Lũ Bắc dạy học theo lời mời của Cai tổng Lê Như Lâm). Sơ khảo, ông đỗ đầu tỉnh Nam Định. Khoa thi chính thức năm Bính Tý - 1876 ông đỗ Cử nhân. Năm Giáp Ngọ (1894) ông làm nhà ở xóm Đường Nhất ngoại (nay là xóm 6, xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, Tỉnh Nam Định) lấy tên là “Nhĩ Khê Trang” (do xung quanh thổ ở có dòng sông chảy vòng quanh, giống như cái vành tai, “khê = là “dòng suối”, “nhĩ = là “cái tai”). Không ra làm quan, đường con cái cũng khó khăn, ông lấy gió trăng sách vở làm vui. Kiến văn phong phú, lại ngồi ngôi Tiên chỉ làng Trà Lũ Bắc nhiều năm, ông hiểu nhiều, biết rộng về đất và người Trà Lũ. Được bạn bè cổ vũ, ông tập hợp tư liệu viết nên nhiều tác phẩm bằng chữ Hán, trong đó đặc sắc và có giá trị nhất là cuốn TRÀ LŨ XÃ CHÍ và tập LIỆT TỰ NGHI VĂN (列祀儀文) hãy còn được bảo tồn đến ngày nay.

     3. Sinh ra (năm 1957) ở Xóm 3, Xã Xuân Bắc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định (xưa là Xóm Khẩu Tam, thôn Bắc, xã Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ, Phủ Thiên Trường), hồi còn bé xíu, hóng chuyện ông nội, bố đẻ với các ông, các cụ bạn già chữ nghĩa ở quê (như cụ Đồ Du, cụ Đội Lại, cụ Mai Phúng…), nhiều lần được nghe các cụ nhắc đến: người này, việc nọ, chỗ ấy….”đã được cụ Cử Nhưng nói trong Xã Chí !”. Lúc rảnh rỗi, thường hỏi lại ông nội, bố đẻ: Thế cụ Cử Nhưng là ai?  Xã Chí là thế nào? Thì được trả lời rằng: Cụ Cử Nhưng là cụ Lê Văn Nhưng, đỗ đạt cao nhất xã ta thời trước, Xã Chí là quyển sách cụ ấy viết về xã ta. Hết.

      Lớn lên một chút, đi học và công tác xa, thi thoảng về quê được tham gia chuyện trò giao lưu với các cụ, các ông trưởng thượng ở làng như cụ cụ Mai Thi (thường gọi là Thơ), cụ Đỗ Quyền, cụ Đỗ Thanh, cụ Mai Văn Lý, cụ Đỗ Yết…, cũng thường được nghe các cụ nói và nhắc lại những chuyện trong Xã Chí. Thực tế, cho đến những năm đầu thập niên 90 thế kỷ trước, tôi vẫn không biết mặt mũi, hình hài cuốn sách đó là thế nào.

      4. Đất nước đổi mới, kinh tế xã hội có nhiều khởi sắc, làng xã, các tộc ở quê cũng chú ý nhiều hơn đến việc bảo tồn, công nhận, tu bổ các di sản vật thể và phi vật thể của địa phương. Đâu đó có nhiều người đi tìm sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ để tìm hiểu kỹ hơn và mong giới thiệu, quảng bá nó như một nguồn thông tin, một di sản quý của làng xã.

      4.1 Đầu tiên là có bản dịch sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ do cụ Vũ văn Giáp (tức Vũ Tiêng), người quê Trà Lũ Bắc, sống ở Sài Gòn, có bản sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ chữ Hán đem nhờ ông Nguyễn Mâu dịch (dịch xong tháng 9/1995). Bản dịch này được cụ Tiêng sao ra làm nhiều bản đem tặng các tộc ở làng Trà Lũ Bắc (mà tôi được tiếp cận và sao chụp). Tuy ông Nguyễn Mâu đã rất cố gắng, đầu tư nhiều công sức cho việc dịch thuật, song, như ông nói, “do học hành thô thiển, chữ nghĩa ăn đong và bận miếng cơm manh áo, không chuyên chú được nên bản dịch còn nhiều tì vết, khuyết điểm”.

      4.2 Tiếp theo là có bản dịch sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ của cụ Mai Văn Lý, người xóm 1 xã Xuân Bắc (xưa là xóm Khẩu Đoài, thôn Bắc) và cụ Đỗ Quyền (thường gọi là cụ Cuồn), người xóm 5 xã Xuân Bắc (xưa là xóm Đường Nhất Nội). Bản này chỉ gồm một số phần lược dịch, chọn dịch của cụ Lý, cụ Quyền, đồng thời có lẫn những ghi chép, phụ lục riêng của các cụ, không liên quan gì đến nội dung sách Trà Lũ xã chí.

      4.3 Cụ Trần Đức Tâm (tức Trần Xuân Đỉnh), người gốc xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường (xưa là thôn Trung xã Trà Lũ) có được trong tay bản sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ chữ Hán nguyên thuộc sở hữu của cụ Trần Văn Độ - Tú tài, bạn thân của tác giả Lê Văn Nhưng, người đề tựa sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ. Cụ này có tìm hiểu và giao lưu về sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ với các cụ Mai Văn Lý, Đỗ Quyền (nói ở trên) và đã sao chép….”bản dịch” của hai cụ.

      4.4 Là một người con họ Trần, quê xã Xuân Trung, huyện Xuân Trường (thôn Trung, xã Trà Lũ), lại đảm nhận phụ trách mảng công việc tư liệu, địa chí của Thư viện tổng hợp tỉnh Nam Hà, Ông Trần Mỹ Giống đã gia công tìm kiếm sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ chữ Hán và bản dịch để làm tư liệu lưu trữ và thông tin cho thư viện tỉnh Nam Hà. Và ông đã tiếp cận được bản chụp sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ chữ Hán và bản dịch của cụ Trần Đức Tâm nói trên (và cũng chính là từ nội dung bản “dịch” của hai cụ Mai Văn Lý, Đỗ Quyền). Bản dịch này về cơ bản đã chọn dịch được phần lớn nội dung sách. Tuy nhiên, do mục tiêu của các cụ Mai Văn Lý, Đỗ Quyền và cụ Trần Đức Tâm chỉ là dịch, ghi chép những phần mà các cụ cho là cần thiết, quan trọng, đồng thời lại ghi chép thêm nhiều điều không phải là từ nguyên bản sách gốc…nên nội dung bản “dịch” này còn nhiều đoạn thiếu khuyết, nhiều mục sách bị cắt bỏ, đảo lộn hoặc….dôi ra !? Bản dịch này đã được in ra làm tư liệu tra đọc ở Thư viện tỉnh Nam Hà bấy lâu nay (từ năm 1997) và thông tin trên mạng internet ở địa chỉ:  http://thuviennamdinh.vn/userfiles/Tr%C3%A0%20L%C5%A9%20x%C3%A3%20ch%C3%AD%20-%20L%C3%AA%20V%C4%83n%20Nh%C6%B0ng%288%29.pdf 

      4.5 Là kẻ hậu sinh người làng, khi được tiếp cận với “nguyên tác” sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ chữ Hán và đọc các bản dịch kể trên, trong quá trình tự học thêm chữ Hán, tìm hiểu về lịch sử quê hương bản quán, họ mạc ông bà, cảm phục kiến thức, tài năng của cụ Cử Lê Văn Nhưng nói chung và nội dung sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ nói riêng, tôi thấy mình rất cần “đính chính” và thậm chí là “dịch” lại toàn văn tác phẩm TRÀ LŨ XÃ CHÍ của Nhĩ Khê Lê Văn Nhưng. – Một cuốn CHÍ hiếm hoi của hàng xã viết từ đầu thế kỷ XX, ghi chép phong phú đa dạng, chi tiết, toàn diện về Đất và Người Trà Lũ qua mấy trăm năm dâu bể kể từ ngày lập ấp. (Với gần 40 mục cụ thể: Lập làng, Chia thôn, Chia trại, Chia xóm, Ruộng đất, Khu vực, Ranh giới đất đai, Mạch đất, Sông lạch, Cầu đường, Chợ, Nghề nghiệp, Lính tráng, Thuế khoá, Đền miếu, Họ tộc, Việc tế lễ, Tục lệ, Di tích cũ, Đất lành, Võ công, Thi cử đỗ đạt, Những con người hào hiệp, Sức khoẻ, Trí thức ẩn dật, Thầy dạy học, Thiên chúa giáo, Tăng Ni, Thầy thuốc giỏi, Sống thọ, Kiện tụng, Phụ nữ hiền lương, Đàn bà ác nghiệt, Kẻ xấu xa, Kẻ cướp, Kiếp nạn).

      Thành tâm là vậy, nhưng cũng bởi việc học hành Hán Nôm còn rất nông cạn, không được chuyên sâu từ tuổi trẻ, nên mặc dù có thêm được sự hỗ trợ giúp đỡ rất nhiệt tình của nhiều bè bạn, nhiều bậc thầy Hán Nôm thông qua mạng xã hội, bản dịch của tôi chắc chắn vẫn còn nhiều khuyết điểm. Kính mong các bậc thức giả chỉ chính cho.

      5. Về bản in sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ chữ Hán. Cụ Lê Văn Nhưng viết xong sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ, đem khắc in, khắc chưa xong thì Cụ mất. Với sự cố gắng của ông Đinh Xuân Thưởng (con rể cụ Lê Văn Nhưng) và sự giúp đỡ tận tình cả về biên tập nội dung chữ nghĩa bản khắc cũng như huy động tiền bạc, giấy mực để khắc in của cụ Trần Văn Độ (đã nói ở trên), bản sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ đã được khắc hoàn chỉnh và in ấn. Nhưng có lẽ một phần do điều kiện kinh tế không cho phép (tuy đã được nhiều người hảo tâm, liên tài đóng góp tài trợ), một phần do nhu cầu quảng bá, sử dụng sách thời ấy không nhiều nên sách chỉ được in với số lượng rất hạn chế. Mấy chục năm chiến tranh, loạn lạc và sự tàn phá của thời gian đã làm cho số sách in còn lại càng ít. Bản thân tôi tuy cũng giao du, tìm tòi khá nhiều song cũng chỉ “mục sở thị” một bản sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ được in gỗ thời đó với rất nhiều trang thất lạc, tan nát. Ngoài ra tôi được thấy bản sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ sao chụp từ cuốn TRÀ LŨ XÃ CHÍ thuộc sở hữu của cụ Trần Văn Độ (đủ 48 tờ in xưa), hiện còn được Ông Trần Mỹ Giống lưu giữ, và bản sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ chữ Hán sao chụp nhân bản khi năm 1997, UBND xã Xuân Bắc cho sao in, “tái bản” cuốn sách này.

      6. LỊCH SỬ thì ghi chép các sự kiện về chính trị, kinh tế, xã hội và thiên nhiên của một đất nước trải qua các triều đại, các mốc, các khoảng thời gian nhất định. Ở một phạm vi nhỏ hơn, CHÍ ghi chép về đất đai, sông ngòi, đường sá, chợ búa, họ tộc, dân cư, kinh tế, xã hội và “chính trị”, phong tục của một vùng nhỏ như xã, huyện, tỉnh. Trong CHÍ có nhiều điều đã thể hiện ở Sử, nhưng có nhiều điều mà không thể tìm thấy trong Sử. Ở một phạm vi nhất định, so với Sử, CHÍ gần gũi, thân thiết và có giá trị hơn hẳn với cư dân bản địa, hay với người muốn tìm hiểu sâu, kỹ hơn về vùng đất đó.

      Qua thời gian, thế sự thăng trầm, bãi bể biến thành nương dâu, CHÍ ghi chép cả những biến động cụ thể của đất đai, bờ bãi: đắp đê mới, bỏ đê cũ, bồi thêm ruộng, bão gió, lụt lội, vỡ đê, lở mất ruộng, tranh chấp đất đai.

      CHÍ còn ghi chép về các dòng sông ngòi xưa cũ, đầu, đuôi dòng chảy, khê cạn, nắn dòng, ghi chép lai lịch đầu cuối của từng cây cầu, từng con đường cụ thể.

     CHÍ ghi chép nguồn gốc, sinh sôi, diễn phái, nảy cành phát nhánh của các tộc người cụ thể ở làng xã, cho con người ta hiểu biết cụ thể về tiên tổ ông bà mình, mối quan hệ huyết thống, đồng tộc hay xóm giềng lân lý với người khác. Ở đây, CHÍ lại có tác dụng như một phần của các cuốn tộc phả hoàn chỉnh. Với cách viết như TRÀ LŨ XÃ CHÍ nó còn giúp lưu giữ nhiều điều mà các tư liệu khác không thể có như tên, họ cụ thể của nhiều người (sư Ngọc Bích, sư Đỗ Hiệt, sư Đào Canh, sư Đào Phú, sư Đào Kế) mà ngày xưa cách viết phả, văn khấn…không thể hiện được do kiêng ghi tên cụ thể.

      Do nhiều yếu tố lịch sử như chiến tranh, di cư, đi khai hoang lập ấp…làm cư dân làng tán lạc nên nhiều nhánh họ, nhiều gia đình chỉ còn biết nhờ cậy vào TRÀ LŨ XÃ CHÍ để “định vị” mình, để biết nguồn gốc, lai lịch của mình.

      Trà Lũ lại là một làng đặc biệt với nhiều sự kiện không chỉ bó hẹp trong phạm vi làng xã, mà còn có tính khu vực, quốc gia, lại ghi chép rõ ràng, khúc chiết về những sự kiện, những nhân vật kiệt suất nên nhiều khi TRÀ LŨ XÃ CHÍ còn giúp minh định, đánh giá nhiều vấn đề mang tính chất quốc gia như: khởi nghĩa nông dân Phan Bá Vành, việc binh bị thời nhà Nguyễn, thuế thân, thuế ruộng vườn, thuế đò, thuế chợ, việc thuỷ lợi, đắp đê, đắp đường cái quan, ngăn mặn xâm nhập.

      TRÀ LŨ XÃ CHÍ ghi chép đầy đủ các di tích vật thể và phi vật thể ở làng xã, các tục lệ về hương ẩm, vọng làng, tang tế.

      TRÀ LŨ XÃ CHÍ ghi chép rõ ràng về những con người tốt, giỏi giang, khoẻ mạnh, dũng cảm, đỗ đạt, hào hiệp, thiện lương, chân tu, có đóng góp tốt cho họ mạc cộng đồng. Bao “người tốt việc tốt” đều được kê khảo để làm gương sống tốt cho hậu thế. Mặt khác, sách cũng “bêu gương” những người xấu, kẻ trộm cắp, kiện tụng gây rối cư dân, những con người ăn ở vô đạo với mẹ cha, xóm ngõ và bị trừng phạt, bị tai ương, bị gặp hoạ theo lẽ nhân quả. Những “tấm gương” này cũng có giá trị răn dạy rất nhiều với cộng đồng hậu thế.

      7. Việc in ấn, xuất bản cuốn TRÀ LŨ XÃ CHÍ này: Hơn 100 năm qua, sách nằm dưới hình hài chữ Hán nên nội dung quý giá của nó được rất ít người biết đến. Sách dịch ra đã khá công phu, lại được cộng đồng nghiên cứu giao lưu Hán Nôm trên mạng xã hội nhiệt tình thảo luận, hỗ trợ nên có thể nói, chúng tôi đã có được một bản dịch tương đối hoàn chỉnh, tươm tất, chuyển tải được những điều cơ bản mà tác giả gửi gắm, thể hiện. Rồi hạnh ngộ, được Ông Trần Cao Tường – một người con của dòng họ Trần – cự tộc đất Trà Lũ – hằng tâm hằng sản đứng ra chủ trì tài trợ cho việc in ấn đàng hoàng, đẹp đẽ bản dịch cuốn sách, chúng tôi lấy làm hân hạnh, càng chuyên tâm mài giũa, trau chuốt cho bản dịch sách được kỹ lưỡng hơn với mong ước mỗi chi họ, mỗi chòm xóm, mỗi nhóm cư dân gốc Trà Lũ đều có thể có ít nhất một cuốn CHÍ – SỬ làng mình, chuyền tay nhau đọc để mà tự hào, mà thêm yêu quý truyền thống quê hương, thêm hiểu, thêm kính tiên tổ, ông cha mình những ngày gian khó dâu bể xa xưa.

      Với người yêu thích Hán Nôm và sử, chí. Bản sách này hy vọng góp thêm một tư liệu tham khảo khá hoàn chỉnh song ngữ - Hán Việt, có nguyên bản chữ Hán và bản dịch tiếng Việt để tiện đối chiếu, tham khảo. Do sách xuất bản đã lâu, lại ít được chú ý bảo tồn, quảng bá nên hầu hết các bản sách (dù là sao chụp hay gốc in khắc gỗ xưa kia) đều không còn đầy đủ nội dung. Qua quá trình tìm hiểu, đối chiếu, thu thập từ nhiều nguồn, tôi đã bổ sung đủ được 101 trang sách chụp bản in khắc gỗ ban đầu, hệ thống, xắp xếp lại và chụp ảnh, in kèm theo đây như một tư liệu “gốc”. Vì vậy, sách cũng ghi rõ mục lục song ngữ (Việt – Hán) để tiện cho việc soát xét và đối chiếu nội dung bản dịch với nguyên tác chữ Hán. (Vì sách chữ Hán xưa viết, in theo lối từ phải qua trái, nên để tiện cho người quan tâm đọc, đối chiếu phần chữ Hán, ở đây, phần phụ lục nguyên tác vẫn giữ nguyên thứ tự trang sách gốc, in lần lượt từ sau về trước).

      8. Để có được bản dịch sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ kèm theo phụ lục nguyên văn chữ Hán này, chúng tôi chân thành bày tỏ lòng biết ơn với:

- Tác giả Nhĩ Khê Lê Văn Nhưng.

- Cụ Trần Văn Độ, ông Đinh Xuân Thưởng và các bậc tiền nhân đã giúp tập hợp tư liệu viết nên cuốn sách, đóng góp công của cho việc khắc in, xuất bản cuốn sách.

- Các cụ, các ông người làng (Mai Thi, Vũ Tiêng, Mai Văn Lý, Đỗ Quyền, Trần Đức Tâm, Đỗ Văn Thanh, Đỗ Yết…) đã lưu giữ, chọn dịch và lan truyền nội dung sách trong hơn 100 năm qua, để nay chúng tôi kế thừa mà có bản dịch đầy đủ này.

- Ông Trần Mỹ Giống, người đã có công sưu tập, quảng bá nội dung sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ trong hệ thống tư liệu địa chí, địa bạ của tỉnh Nam Hà và thư viện quốc gia, đã cung cấp cho tôi bản chụp đầy đủ, rõ ràng nguyên bản sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ.

- Các ông Khổng Thanh Diện, Lê Quốc Việt, Phạm Văn Ánh, Nguyễn Quốc Thái, Nguyễn Quang Duy,…là những người uyên bác chữ nghĩa Hán Nôm đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi rất nhiều trong quá trình khảo dịch cuốn sách.

- Ông Trần Cao Tường – người con của họ Trần thôn Trung xã Trà Lũ đã chủ trì tài trợ cho việc in ấn, xuất bản sách TRÀ LŨ XÃ CHÍ.

 

              Hà Nội, những ngày mùa Thu năm Kỷ Hợi 2019.

                                     Người dịch, chú:

                                    ĐỖ HỮU TRÁC.    

                      


       MỤC LỤC SONG NGỮ

Số thứ tự      CHƯƠNG – MỤC

       Tiếng Việt  -       Trang -  Chữ Hán -    Trang

01   Lời tựa               

02   Truyện Ông Nhĩ Khê cư sĩ - Nhĩ Khê cư sĩ truyện -珥溪居士傳  

03   Tự viết lời tựa     Tự tựa - 自序     

04   Lập làng                     Kiến ấp - 建邑   

05   Chia thôn            Phân thôn - 分村      

06   Chia trại                     Phân trại - 分寨 

07   Chia xóm            Khu hoạch - 區畫     

08   Ruộng đất           Điền thổ - 田土 

09   Các xứ ruộng đất.      Xứ sở - 處所      

10   Ranh giới đất đai       Địa giới - 地界  

11   Mạch đất             Địa mạch - 地脉

12   Sông lạch            Giang khê - 江溪      

13   Cầu đường          Kiều lộ - 橋路   

14   Chợ                    Thị -

15   Nghề nghiệp              Nghệ nghiệp - 藝業  

16   Lính tráng           Binh đinh - 兵丁

17   Thuế khoá           Phú thuế -  

18   Đền miếu            Đàn miếu - 坛廟

19   Họ tộc                 Tộc tính - 族姓  

20   Việc tế lễ            Tự sự - 祀事      

21   Tục lệ                 Tục lệ - 俗例     

22   Di tích cũ            Cổ tích - 古蹟    

23   Đất lành                     Phúc địa - 福地 

24   Võ công                     Võ phiệt - 武閥 

25   Thi cử đỗ đạt             Khoa phổ - 科譜

26   Những con người hào hiệp            Hào phổ - 豪譜  

27   Sức khoẻ             Dũng lực - 勇力

28   Trí thức ẩn dật    Xử sĩ - 處士

29   Thầy dạy học      Tông sư - 宗師  

30   Thiên chúa giáo  Giáo Tổ - 教祖  

31   Tăng Ni              Thích tông - 釋宗     

31   Thầy thuốc giỏi  Y tông - 醫宗    

33   Sống thọ                    Thọ khảo - 夀考

34   Kiện tụng            Kiện tụng - 健訟

35   Phụ nữ hiền lương- Hiền phụ - 賢婦   

36   Đàn bà ác nghiệt Nghiệt phụ -蘖婦     

37   Kẻ xấu xa           Khuy hạnh -虧行     

38   Kẻ cướp              Phỉ nhân-匪人   

39   Kiếp nạn             Kiếp tai - 刼災  

40   Kết sách      

 

             

       LỜI TỰA. (2.0)

 

      Thời xưa tỉnh, huyện, làng, xã đều có CHÍ. Đối với các nhà trước tác có Địa Dư Chí, Phong Thổ Chí, Nhân Sự Tạp Chí. CHÍ có thể giúp người đời sau khảo cứu, xem xét những điều tốt đẹp, những gương sáng xa xưa mà sửa sang sử sách.

      Xã Trà Lũ ta có dân lâu lắm rồi. Nhưng ai là những người hay chữ, khéo tay? Các Tộc từ đâu mà đến? Các thế hệ xa gần thế nào? Việc hay ? Việc dở ? Thực là chưa có ai nói cho rõ! Vì sao thế ? Đó chính là do chưa có CHÍ vậy ! Soạn CHÍ chẳng phải là một việc làm cao quý của bậc quân tử uyên bác sao?

      Ông Lê Nhĩ Khê là một người kiệt xuất trong xã ta. Thân sinh ra ông là người hiền lành, đức độ, cả đời không sát sinh. Đứng tuổi nằm mơ rồi sau đó sinh ra Ông. Ông tên huý là Lê Văn Nhưng, tự Khải Vân. Tuổi trẻ thông minh lanh lợi, học hành giỏi giang có tiếng, trong làng ngoài xã ai cũng nói sẽ đỗ đạt cao. Khoa thi Bính Tý (1876) thời Tự Đức, ông đi thi Hương liền đỗ Cử nhân nhưng không ra làm quan. Ngồi ngôi Tiên Chỉ làng Trà Lũ Bắc, ông có rất nhiều việc làm công ích cho làng xã, ghi chép cẩn thận, giúp lợi cho dân. Như về việc ruộng đất trong xã, gồm những cánh đồng nào? giáp ranh tứ cận, cương thổ, mốc giới ra sao? Sông ngòi uốn lượn thế nào? Mọi điều nghe, nhìn thấy đều ghi chép rõ ràng, rành mạch, chi tiết. Năm thứ hai đời Vua Thành Thái (1890) có việc phân giao xã trại, đinh điền (dân số, ruộng đất), Ông chỉ làm một buổi tối là xong.

      Về già ông mở lớp dạy học trò, đồng thời tham cứu rộng rãi các loại sách vở, biên soạn ra các tập sách Lịch Sử, Binh Kính, Gia Lễ, Tang Tế và tập Liệt Tự Nghi Văn. Tự tay mình viết chép, không bỏ sót mảy may. Lại có đính kèm theo các tài liệu chữ Hán được dịch chú rõ ràng, có đề cập đến trong sách Xã Chí.

      Độ tôi ở cùng làng với Ông, thường đến chơi và hỏi Ông những điều mình chưa rõ, còn nghi hoặc, rồi lại bàn với Ông việc biên soạn Xã Chí. Ông bèn chú tâm sưu tập phả tộc, ký sự, rồi lại nghe hỏi các cụ già cả, phụ lão trong làng, cộng với những điều mình tai nghe, mắt thấy mà biên soạn nên cuốn Xã Chí này. Hỏi xưa biết nay, ghi chép bao nhiêu phong tục thực tế trong làng, đền miếu chùa lăng, cương vực mốc giới, xóm, xã, trại nhập vào tách ra, đinh điền tăng giảm thế nào, thứ thế các Tộc trong làng, người giỏi văn, giỏi võ ra sao? Mọi điều đều ghi chép đủ, luận giải rõ ràng, công khai minh bạch trong làng xã. Không một người tốt nào bị bỏ sót mà không nêu gương, không một kẻ xấu, một hành vi bại hoại nào không bị nêu ra để mà răn chúng. Đó chính là quyển TRÀ LŨ XÃ CHÍ này. Thực là một tấm gương sáng của xã ta vậy.

      Duy Tân năm thứ 9, tháng 10. (10/1915).

      Tú tài người xã Trà Lũ Trần Văn Độ tự Bách Trinh kính cẩn viết bài tựa.  

 

TRUYỆN ÔNG NHĨ KHÊ CƯ SĨ.(1)

 

      Ông Nhĩ Khê Cư Sĩ, họ Lê, tên huý là Nhưng. Đời trước sống ở thôn Bắc, xóm Đông Biên. Bố ông là Lê Thiện Thuật, huý Soạn, tính tình hiền lành trung hậu, không sát sinh, làm nghề thuốc giúp người. Già lão rồi mà chưa có con, cầu đảo ở Đền thiêng, được quẻ bói rằng sẽ sinh con trai. Bà mẹ là Đặng thị Tính, đêm nằm mơ thấy có một đứa trẻ đến xin được ở nhờ, rồi sau sinh ra ông. Ông thời thơ ấu thông minh dĩnh ngộ, đọc sách một lần là thuộc lòng, lại có thể đọc ngược sách mà không hề sai mảy may, người ta đều coi là thần đồng. Mười ba tuổi mồ côi cha, vẫn cố gắng học hành theo lời mẹ dặn dò hối thúc. Lớn lên, có lần nằm mơ thấy một ông lão đem cho ba thỏi mực bảo nuốt đi. Bèn nuốt, rồi bỗng thấy trong bụng như có một vật gì. Từ đó học hành ngày càng tiến bộ. Theo học lớp của Thầy Đặng Thượng thư (Ông họ Đặng, tên Địch, người làng Hành Thiện, đỗ Phó bảng, mở lớp dạy học ở Trà Lũ, lại làm Quan Đốc học tỉnh Nam Định, sau thăng đến chức Thượng thư bộ Lễ), khi thi khảo hạch đỗ đầu tỉnh, được khen thưởng (thời đó quan Đốc học tỉnh nhà là Văn Minh Đại học sĩ Nguyễn Trọng Hợp, người Kim Lũ). Hai mươi mốt tuổi, đi thi hương liền đậu ngay Cử nhân. Gặp phải thời khó khăn, ông không ra làm quan, lấy sách vở làm vui. Có làm bài thơ rằng:

Làm quan ta vốn cũng có phần

Nhưng mà từ khước có nguyên nhân

Lại được làm “Vua” nơi thôn dã

Hoa đồng cỏ nội cũng xưng “Thần”.

       Người đến làm quan trong quận nghe danh, thường tìm đến hỏi han trò chuyện nhưng ông không đem sự nghèo nàn của gia cảnh để nhờ vả gì. Quan Thái thú Nguyễn Hữu Dự (người Phù Liệt, tỉnh Hà Đông, sau làm quan đến chức Bố chánh Hà Nội) trực tiếp đến chơi nhà, nhiều lần cùng ông xướng hoạ thơ văn, có làm tặng một đôi câu đối rất trân trọng, kính nể là:

Cúc trời trồng, trong sạch để nuôi tiết tháo.

Rồng đất có, náu mình để giữ tấm thân.

(Như Cúc hoang, trong sạch để nuôi tiết tháo

Như Rồng đất, ẩn giấu để giữ tấm thân)

      Lúc đầu làm Văn hội trưởng, lại ngồi ngôi Tiên chỉ làng, chia cấp ruộng đất, phân giao xã trại, nhất nhất đều ghi chép rõ ràng minh bạch. Lại đơn giản bớt tục lệ, châm chước nghi thức, đem lại nhiều tiện lợi cho làng xã.

       Năm Giáp Ngọ thời Thành Thái, xây dựng nhà ở Xóm Đường Nhất, đặt tên là Trang Nhĩ Khê (vì xung quanh thổ có suối (KHÊ = ) chảy vòng vòng như cái tai (NHĨ = ) nên đặt như vậy). Dạy học trò tại nhà, khuyến khích thực học. Lại khảo cứu sâu sách vở, tìm hiểu kỹ danh vật, ghi chép lại bằng văn chương khúc chiết. Đại để có các tập: Gia Lễ, Tang tế, Lịch sử, Binh kính, rồi biên tập, phân loại xắp xếp viết bằng chữ Hán vào các tập: LIỆT TỰ NGHI VĂN, TRÀ LŨ XÃ CHÍ, còn các câu đối, hoành phi, biển trướng thì rất nhiều.

       Ông sinh giờ Thân, ngày mồng Tám, tháng 12, năm Bính Thìn thời Tự Đức (1856), đến  giờ Mão, ngày mồng 6, tháng 5, năm Bính Thìn thời Khải Định (1916) thì mất vì bệnh, thọ 61 tuổi, mộ táng ở trước trang, phía tây. Thân hào trong xã dâng tên thuỵ là “Đạt Trinh Tiên Sinh達貞先生.

       Sinh thời Ông trầm mặc, hoà nhã, dễ gần. Ai có việc gì hỏi luôn trả lời tận tình, thấu đáo, mọi người đều quý mến. Về già không có con trai nối dõi, bèn lấy việc viết lách sách vở, thăm thú danh lam thắng cảnh làm vui. Ông mất, sau lấy cháu ngoại làm thừa tự. Con rể Đinh Xuân Thưởng tập hợp di cảo với nhan đề là “NHĨ KHÊ TOÀN TẬP”, cất giữ ở phòng sách trang Nhĩ Khê.

       Tiên sinh mất, XÃ CHÍ khắc chưa xong. Thuật lại rõ ràng như thế để đăng ký.

       Khải Định năm Bính Thìn, tháng 9, tuần đầu. (9/1916).

       Đinh Xuân Thưởng kính viết.

 

 

       TỰ VIẾT LỜI TỰA.(3)

 

      Xã có CHÍ như nước có SỬ vậy ! SỬ ghi việc thịnh suy của các triều đại, cách thức trị nước hay dở của các thời để đời sau biết. CHÍ thì ghi chép về các họ tộc, các nhân vật, liệt kê các phong tục hay, ghi chép về đất đai từ thuở ban đầu. Xã không thể thiếu CHÍ, cũng như đất nước không thể thiếu SỬ vậy. Xã ta KHÔNG có CHÍ, hay là CÓ CHÍ mà đã thất lạc tao binh hoả Đinh Hợi? Người biết điều ấy thì không còn có thể nói nữa, mà người còn có thể nói thì lại chưa chắc đã biết ! Mà đâu phải chỉ riêng một xã ta là không có CHÍ !?

      Tôi từ lúc còn ấu thơ có nết hay hỏi han ghi chép. Mỗi khi hầu Cha, hầu Thầy thường hỏi không ngừng. Rồi lớn lên, may mắn đỗ đạt. Mà gặp thời gian khó, lấy gió trăng sách vở làm vui. Mỗi khi đọc thấy điều gì ở thiên hạ đều đem so xét vào với làng quê mình. Nào là Hương ước theo Lã thị XuânThu, nào là chia Ruộng đất theo phép của Trương Tử. Gần đây thì thế, xa xưa thì sao? Rồi khi phân giao xã trại, chia cấp ruộng đất, suất lính, không thể thoái thác trách nhiệm. Cho đến việc tang, việc tế lễ, sớ văn nghi thức, tục lệ đối đãi….đều không thể trông nhờ vào người khác giúp. Đối với các họ tộc, cứ gặp người có học thức là hỏi về các bậc tiên hiền. Đối với các bậc phụ lão luôn bàn về các gương đức độ xưa, gặp nông phu thì hỏi về giá ruộng vườn cao hay thấp, gặp người đi buôn thì hỏi về lãi lờ giá cả. Mãi vậy mà thành thân thiết. Rồi về đại lược đã biết hết đầu đuôi ngóc ngách mọi việc trong xã.

      Lại gặp nhiều bạn bè chơi thân thúc giục soạn CHÍ. Tự thấy mình biết thì không đầy đủ, nói thì không hết nhẽ, bèn thoái thác. Nhưng nghĩ đi rồi lại nghĩ lại. Biết không đầy đủ còn hơn là không biết, nói không hết nhẽ còn hơn là không nói gì ! Huống chi, được ở ta mà mất đi cũng là ở ta. Mấy trăm năm sau sách vở phép tắc nào rồi cũng mất đó thôi! Việc soạn CHÍ có thể từ chối, thoái thác sao?! Bèn thuật lại những điều tai nghe mắt thấy, phân loại thành CHÍ. Những mong rằng có thể được người chép sử đời sau bổ khuyết, viết tiếp cho đầy đủ, rõ ràng.

Cử nhân Lê Văn Nhưng tự Khải Vân viết tại trang Nhĩ Khê, vào năm Duy Tân 9 - Ất Mão, sau Tết Trung Thu 2 ngày!

 

       TRÀ LŨ XÃ CHÍ

Nhĩ Khê Cư Sĩ Lê Văn Nhưng tự Khải Vân biên soạn.

 

       LẬP LÀNG.(4)

 

       Có người hỏi Nhĩ Khê tôi rằng: Làng Trà Lũ được lập từ khi nào? Đến nay là bao nhiêu năm? Nhĩ Khê tôi xin thưa rằng: Xã xưa không có Chí để lại, nên không thể biết rõ, chỉ có thể suy đoán thôi. Từ đầu thời Lê đến nay là hơn bốn trăm năm. Trà Lũ có tên ghi trong sử từ thời Lê, năm Quý Mão. Từ năm Nguyên Hoà thứ nhất (Quý Mão (1) – 1533) đến nay - năm Ất Mão thời Duy Tân (1915) là ba trăm tám mươi ba năm. Thôn Bắc họ Bùi là họ đứng đầu. Thuỷ tổ họ Bùi được phong tước Hoằng Tín Đại Phu Thái Bộc Tự Khanh. Nước ta có chức quan ấy  bắt đầu từ năm thứ hai - Tân Mão (1471) - thời Hồng Đức. Tức là xã ta phải có sau thời điểm ấy. Mà Hồng Đức nhị niên đến nay là 445 năm. Xã ta hai họ Trần, Phan đều có phả tộc đầy đủ các đời, cho đến nay có 16 hoặc 17 đời. Thông thường 4 đời người là 1 trăm năm. Tức là các Tộc cũng đã trải khoảng 400 năm rồi vậy. Tương truyền rằng: Xã ta có từ thời Lê Hồng Đức thì cũng xấp xỉ con số ấy. Lại nói: từ Phượng Lũ di cư tới. Nhưng cũng không biết được đích xác như vậy.

 

       CHIA THÔN (4b)

 

       Lại hỏi: Sao lại có tên thôn Bắc, thôn Trung, thôn Đông, thôn Đoài? Rằng: Thường lúc mới lập làng, người ta hay chọn làm nhà ở chỗ cao ráo. Xứ Cựu Cốt (舊骨) là một dải đất cao, thôn Trung (中村) ở giữa, thôn Bắc (北村) ở phía bắc, thôn Đông (東村) ở về phía đông.  Vì thế nên lấy vị trí đó mà đặt tên gọi cho thôn. Ngày xưa chỉ có ba thôn: Bắc, Trung, Đông. Mỗi thôn đều có lương dân, giáo dân cư trú và cày cấy lẫn lộn, xen nhau, lại cùng một sổ bạ (hộ khẩu, thuế má). Thành Thái năm đầu (1889) có việc tăng thêm đinh số, gia tăng sưu thuế mà các thôn không thoả thuận phân bổ được, bèn có đơn xin lập chỉ bài riêng. Mỗi thôn lập một chỉ bài. Họ đạo (giáo giáp) của ba thôn hợp nhất lại thành một chỉ bài, vì thế mà có riêng ra một thôn Đoài (兌村). Bây giờ, tức từ Duy Tân năm thứ 9, thì phân thành bốn xã.

 

       CHIA TRẠI (4b)

 

       Hỏi: Nam Điền (南田) là trại hay là xã? Rằng: Ruộng chung xã ta, phần lớn là ở phía nam sông Trung (Trung Giang = 中江), phía tây sông Ngô Đồng (Ngô Đồng Giang = 梧桐江- tức Sông Sò ngày nay – Đ.H.T). Ngày trước ruộng chỗ ấy cấp hết cho binh lính. Những năm đầu thời Minh Mạng (1820 – 1840) người nhà của binh lính cày cấy những ruộng ấy, lúc đầu chỉ dựng lên những túp lều nhỏ ở tạm, dần dần lại đào ao, vượt thổ, dựng nhà để ở và cho những người xã bên đến làm thuê trú ngụ. Lâu lâu nhiều năm hình thành nên Trại Nam Điền. Trại này vốn là một xóm to của thôn Trung. Bèn lấy tên xóm đó (Nam Điền) gọi luôn cho tên trại.

      Toàn bộ ruộng đất ở trại là cấp cho binh lính, mọi việc đại diện, giao tiếp của trại đều do binh lính đảm nhiệm, kỳ dịch làng xã không quản lý được. Có người xin cấp đất ở mà thước tấc cũng không rõ ràng. Khi đối chiếu với sổ bạ ruộng đất thì tăng lậu lên rất nhiều. Dân trại biết điều đó, đến mùa lúa chín binh lính và dân trại tranh nhau gặt, rồi đi kiện lên tỉnh. Quan tỉnh về đo lại ruộng đất, trích ra số ruộng ẩn lậu gian trá hơn 200 mẫu. Dân trại không chấp nhận, tiếp tục kiện vào tận Kinh đô Huế ở cả hai toà: Đánh trống khiếu nại ở công đường và chặn xe Vua ngang đường kêu oan. Đến khi quan ở trong triều về đo khám lại ruộng đất thì thấy số liệu về ruộng đất so với trước hầu hết là có sai lệch.

      Năm thứ 9 thời Tự Đức (1856), quyết nghị chấp nhận hơn 60 mẫu ruộng công trại này đã vượt lập làm đất ở, còn số ruộng man lậu tăng lên và số đinh hiện có thì ghi vào sổ thuế phải nộp. Đồng thời giao nguyên số đó cho xã chịu trách nhiệm cày cấy, thu nộp thuế.

      Năm thứ ba thời Đồng Khánh (1888) Trại Nam Điền lại tiếp tục khiếu nại lên Nha Kinh Lược Hà Nội, đòi kỳ lão, lí dịch của xã căn cứ theo số đinh thực tế mà chia ruộng giao cho trại. Đến năm thứ 2 thời Thành Thái (1890), xã giao ruộng đất cho trại Nam Điền và xác lập ranh giới. Đến năm thứ 3 thời Thành Thái (1891) trại có đơn xin cấp triện (con dấu) riêng. Từ đó là có riêng xã Nam Điền.

 

       CHIA XÓM.(5)

 

       Thôn đều có chia ra các xóm.

        Thôn Trung có: Đông Nhuệ (), Đông Kiều (東橋), Đông Hào (東豪), Đông Phú (東富), Đông Thọ (東壽), Đoài Đũng (兌勇), Đoài Phụ (兌阜), Đoài Nghĩa (兌義), Đoài Ninh (), Nam Long (南隆), Nam Phượng (南鳳), Nam Kỳ (南棋), Bắc Lạc (北樂), Bắc Đỗng (北洞), Bắc Tỉnh (北井), Bắc Hà (北河), Bắc Ngọc (北玉), Trung Phúc (中福), Trung Thiện (中善), Trung Tiên (中仙), Trung Mỹ (中美).

      Thôn Bắc có: Đường Nhất Nội (堂一内), Đường Nhất Ngoại (堂一外), Đông Biên (東邊), Tiền Trì (前池), Cựu Cốt Nam (舊骨南), Cựu Cốt Trung (舊骨中), Cựu Cốt Bắc (舊骨北), Cựu Cốt Hậu (舊骨後), Khẩu Nhị (口二), Khẩu Tam (口三), Khẩu Nhị Cựu (口二舊), Khẩu Trung (口中), Khẩu Đoài (口兌), Khẩu Nội (口内), Đô Trạo (都棹), Hướng Trung (向中), Hướng Đông (向東). Về sau theo lương giáo, tách Tiền Trì thành Tiền Trì Lễ (前池禮), Tiền Trì Nghĩa (前池義) (nay là Tiền Trì Nhất (前池一), Tiền Trì Nhị (前池二)), tách Khẩu Đoài thành Khẩu Đoài Lễ (口兌禮), Khẩu Đoài Nghĩa (口兌義). Thời Tự Đức, phân loại giáo dân, Khẩu Trung Nghĩa, Khẩu Đoài Nghĩa hợp làm xóm Đoài Trung (兌中).Hướng Trung, Hướng Đông đổi làmTrung Thành (中成), Đông Thành (東成). Cựu Cốt Hậu đổi thành Cựu Cốt Đông (舊骨東). Xóm Khẩu Nội (口内) ít đinh, nay không có sổ sách riêng.

      Thôn Đông có: Đông Phú (東富), Tây Thịnh (西盛), Nam Ninh (), Bắc Khang (北康), Trung Cương (中彊), Vạn Thọ (萬壽), Đoài Quý (兌貴), Mỹ Đức (美德).

      Năm cuối thời Tự Đức, phân tách dân lương, giáo thôn Trung, thôn Đông.

Từ thời Thành Thái mới phân tách dân lương, giáo thôn Bắc.

       Xóm giáo thôn Trung là từ Đoài Dũng, Đoài Phụ, Đoài Nghĩa, Trung Phúc, Đông Phú, Đông Hào, Bắc Tỉnh tách ra, với tên gọi là xóm Lạc Đạo (樂道).

       Xóm giáo thôn Bắc từ Đông Biên, Tiền Trì, Đoài Trung, Đông Thành tách ra, với tên gọi là xóm Trí Trung (致中).

       Thôn Đông xóm giáo dân gọi là xóm Nam Cường (南彊).

       Xét theo số đinh khi phân chia thì thôn Trung: lương 3, giáo 1, thôn Bắc: lương 11, giáo 1, thôn Đông: lương 2, giáo 1. Về sau mới có việc hợp chung giáo dân lại thành thôn Đoài (兌村).

 

       RUỘNG ĐẤT.(6)

 

      Ruộng công xã ta có ba mươi xứ. Đồng trong có các xứ: Tân Bến(𣷷), Đoạn Đồng(段同), Đường Nhất(堂一), Đường Nhị(堂二), Đường Tam(堂三), Sài Nội(柴内), Lăng Nội(陵内). Đồng ngoài có các xứ: Sài Nhị(柴二), Sài Tam(柴三), Sài Hạ(柴下), Sài Tứ(柴四), Cấp Tứ(給賜), Cống Xuyên(貢川), Ba Mươi(𠀧𨑮), Một Trăm(𤾓), Lăng Hạ(陵下), Thất Mẫu(七畝), Chấp Chài(), Nội Điền(内田), Mỗi Khê(每溪), Trạch Lâm(澤林), Tân Điền(新田), Thượng Đoạn(上段), Trung Đoạn(中段), Hạ Đoạn(下段).

Theo sổ sách địa bạ ba thôn được cấp thời Quang Trung và Gia Long, ruộng công toàn xã là 1.111 mẫu 5 sào. Lại có 55 mẫu ruộng ở các xứ Hà Khẩu(河口), Đường Nhất(堂一), Thái Bằng(太憑), Lục Lăng(錄陵), Lăng Hạ(陵下) để làm ruộng chùa, ruộng Đền. Đất thổ ở các xứ Khẩu Nhị(口二), Khẩu Tam(口三), Đô Trạo(都棹), Hà Khẩu(河口), Cựu Cốt(舊骨), Tiền Trì(前池), Đường Nhất(堂一), Đường Tam(堂三), Côn Thượng(昆上), Côn Hạ(昆下), Lăng Nội(陵内), Sài Nội(柴内), Ông Thượng(翁尚), Bà Lão(妑老), Đông Biên(東邊), Đoài Biên(兌邊), Sài Nhị(柴二) đều được miễn thuế, có thể mua bán được.

Thời trước ruộng công còn có đồng ngoài ở các xứ Lôi, Côn(雷昆). Cuối thời nhà Lê, vỡ đê sông Ngô Đồng, ruộng hai xứ này và xứ Thượng Đoạn bị lở sạt, trong khi ở bờ phía đông lại được phù sa bồi đắp thêm 300 mẫu ruộng, xã ta cùng với xã Hoành Nha tranh chấp khu đất này, đi thưa kiện mà không được.

Cho đến năm Minh Mạng 10 mới bắt đầu có địa bạ chính thức. Theo bạ này, ruộng công xã ta có 805 mẫu, ruộng chùa, đền xã ta và ruộng dầu nhang hương oản chùa Thần Quang (chùa Thần Quang ở xã Dũng Nghĩa, thờ Không Lộ Thiền Sư, thời trước các xã trong huyện ta đều giành ruộng để hàng năm đóng góp tiền dầu nhang hương oản cho chùa) là 55 mẫu hai sào. Đất làm nhà ở, vườn, ao toàn xã: 880 mẫu 5 sào.

Năm Tự Đức 6 (1853) Trại Nam Điền kiện, có quan ở kinh đô về đo khám lại, số ruộng đất tăng thêm trên một ngàn mẫu. Đất thổ cư ở các xứ Đô Trạo, Khẩu Nhị, Hà Khẩu, Cựu Cốt, Đường Nhất. Tiền Trì, Lăng Nội, Bà Lão hiện đang có cấy lúa đều đo vẽ hết đưa vào trong án, tuy chưa đủ số, song ba thôn cũng vẫn không được giảm trừ, đành phải theo tỉ lệ cũ, chia ra mà chịu. (Thuế ruộng đất chia làm 93 phần: Thôn Trung 42 phần, Thôn Bắc 39 phần, Thôn Đông 12 phần. Đinh thì trừ số man lậu ra, đinh phát sinh thêm thì chịu nộp riêng thuế ngoài, còn chia phần đinh giữa các thôn thì cũng theo tỉ lệ như trên).

Năm đầu thời Thành Thái (1889) quan người Pháp dùng thước mới (mét = mètre) đo lại ruộng đất, rồi vẽ ra thành bản đồ. Ruộng đất 1.707 mẫu. Sông ngòi, lạch, đất bãi tha ma là 200 mẫu, so với trước giảm đi rất nhiều.

Năm thứ 3 thời Thành Thái, trại Nam Điền nhận địa bạ ruộng đất riêng. Xã ta còn chịu các khoảnh ruộng 664 mẫu. 9 khoảnh thổ và 12 khoảnh thổ 671 mẫu.Lại lấy số mục theo Nghị định đem đối chiếu với số đo thời Gia Long thấy tăng lên. Mà sông, ngòi, bãi tha ma thuộc12 khoảnh thổ so với trước đây chỉ thấy giảm số.

Đến nay, năm thứ 9 thời Duy Tân, chỉ bài (sổ thuế) hiện ghi rõ:

Thôn Trung: ruộng: 302 mẫu, thổ: 282 mẫu.

Thôn Bắc: ruộng: 449 mẫu, thổ: 285 mẫu.

       Thôn Đông: ruộng: 86 mẫu, thổ 95 mẫu.

       Thôn Đoài: ruộng: 180 mẫu, thổ: 153 mẫu.

       Toàn xã cộng các khoảnh ruộng: 1.017 mẫu, các khoảnh thổ: 815 mẫu.

       Xã ta thời trước không có tư điền (ruộng riêng), chỉ có ruộng chùa, ruộng Đền Thần là 55 mẫu. Thuế tư điền theo thuế ruộng công hạng 2. Thời trước, thuế tư điền nhẹ, đến năm Tự Đức thứ 18 (1865) mới bắt đầu phải chịu thuế ngang với ruộng công. Năm cuối thời Tự Đức, quan tỉnh yêu cầu phàm là thổ riêng cấy lúa được thì xin cải ngạch chịu thuế như ruộng riêng. Xã ta, các xứ Cựu Cốt, Đường Nhất, Đường Tam, Khẩu Nhị, Khẩu Tam, Đô Trạo, Hà Khẩu, Tiền Trì đều có các chỗ san gò lấp vũng để cấy lúa, các gia đình thôn Bắc đều có làm đơn xin đổi hạng ruộng đất, từ đó mà có tư điền, ruộng riêng. Ruộng đó nhập chung số vào chỉ bài, sổ thuế của thôn Bắc. Riêng tư điền xứ Đường Tam quy về cho thôn Đông thu nộp thuế. Phân giao về Trại Nam Điền ruộng đất tổng cộng là 477 mẫu 5 sào. (Đem so sánh với số liệu đo lại theo bản án xưa thì đa số là không khớp).

      Xứ Cấp Tứ (給賜), ruộng : 108 mẫu, 4 sào, 13 thước, 12 khấu;thổ: 9 mẫu 4 sào, 12 thước.

      Xứ Nhất Đoạn (一段): ruộng: 71 mẫu, 8 sào, 2 thước, 3 khấu; thổ: 10 mẫu 9 sào 5 thước.

      Xứ Tân Bến (津變): ruộng: 8 mẫu 5 sào 9 thước 8 khấu; thổ: 32 mẫu 2 sào 5 miếng 9 khấu.

      Xứ Trạch Lâm (澤林): thổ: 28 mẫu 6 sào 10 thước 7 khấu; thổ: 3 sào 13 thước 9 khấu.

      Hai xứ Trung Đoạn (中段), Hạ Đoạn (下段): ruộng 24 mẫu 1 sào; thổ 37 mẫu 8 sào 5 miếng.

      Xứ Nội Điền (内田): ruộng: 7 mẫu 6 sào 7 thước 3 khấu; thổ: 50 mẫu 5 khấu.

      Xứ Một Trăm (𤾓): ruộng: 11 mẫu 13 thước; thổ: 16 mẫu 1 sào 2 thước 1 khấu.

      Xứ Sài Hạ (柴下) : ruộng 11 mẫu 2 sào 12 thước 6 khấu.

      Xứ Mỗi Khê (每溪): thổ 8 mẫu 7 sào 5 thước.

      Xứ Sài Tứ (柴四): ruộng: 16 mẫu 6 sào 3 thước.

      Xứ Sài Tam (柴三): ruộng: 2 mẫu 3 sào.

      Xứ Tân Trưng (新徴): ruộng: 11 mẫu 4 sào.

 

       CÁC XỨ RUỘNG ĐẤT XÃ TA.

 

      Đây là căn cứ theo chú thích cụ thể khi phân giao ruộng đất cho Trại Nam Điền và các thôn chia nhận ruộng đất để cày cấy, nộp thuế. Xóm Lạc Đạo (樂道) thôn Đoài do thôn Trung chia cấp ruộng đất, xóm Trí Trung (致中) do thôn Bắc chia cấp, xóm Nam Cường (南彊) do thôn Đông chịu trách nhiệm chia cấp.

       Ruộng xứ Tân Biến (津變): Đông cận ruộng xã Vạn Lộc (萬祿), Tây cận ruộng xã Thuỷ Nhai (水涯), Nam cận ruộng xã Hoành Quán (橫舘) liền ruộng xã Vạn Lộc (萬祿). (Thôn Bắc cày cấy).

      Ruộng xứ Đoạn Đồng (段同): Đông cận sông, Tây cận ruộng xã Hoành Quán, Nam cận xứ Khẩu Tam, ruộng các xã Hoành Quán, Vạn Lộc; Bắc cận ruộng xã Hoành Quán. (Thôn Bắc cày cấy).

      Ruộng xứ Khẩu Tam (口三): Đông cận sông; Tây cận ruộng xã Vạn Lộc; Nam cận thổ xứ Khẩu Tam và sông; Bắc cận xứ Đoạn Đồng.  (Thôn Bắc cày cấy).

     Một khu ruộng : Đông cận thổ xứ Khẩu Tam và ruộng riêng; Tây cận sông và ruộng riêng; Nam cận thổ xứ Khẩu Tam và liền với xứ Đô Trạo; Bắc cận  sông và thổ xứ Khẩu Tam. (Thôn Bắc cày cấy).

       Một khu ruộng - Ruộng riêng: Đông cận thổ xứ Khẩu Tam và ruộng công; Tây cận sông và ruộng công; Nam cận thổ xứ Khẩu Tam; Bắc cận thổ xứ Khẩu Tam và ruộng công.  (Thôn Bắc cày cấy).

      Ruộng xứ Đô Trạo (都棹): Đông cận sông và thổ xứ Đô Trạo; Tây cận sông và ruộng riêng; Nam cận sông và thổ xứ Đô Trạo; Bắc cận ruộng riêng.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Một khu ruộng – Ruộng riêng: Đông cận sông liền với ruộng chung và thổ xứ Đô Trạo; Tây cận sông và ruộng chung; Nam cận thổ xứ Đô Trạo và ruộng chung; Bắc cận sông và xứ Khẩu Tam.  (Thôn Bắc cày cấy).

              Ruộng xứ Khẩu Nhị (口二): Đông cận sông và thổ xứ Khẩu Nhị; Tây cận sông lớn va thổ xứ Khẩu Nhị; Nam cận ruộng riêng và thổ xứ Khẩu Nhị; Bắc cận ruộng riêng và thổ xứ Khẩu Nhị.  (Thôn Bắc cày cấy).

Một khu ruộng – Ruộng riêng: Đông cận thổ xứ Khẩu Nhị; Tây cận đường lớn; Nam cận ruộng xã An Cư (安居); Bắc cận thổ xứ Khẩu Nhị và sông.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Một khu ruộng – Ruộng riêng: Đông cận sông và thổ xứ Khẩu Nhị; Tây cận sông lớn và thổ xứ Khẩu Nhị; Nam cận thổ xứ Khẩu Nhị và công điền; Bắc cận thổ xứ Khẩu Nhị và địa phận các xã Hoành Quán, Vạn Lộc.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Ruộng xứ Đường Nhất (堂一): Đông cận ruộng xã Vạn Lộc và thổ xứ Đường Nhất; Tây cận sông và thổ xứ Đường Nhất; Nam cận bãi tha ma liền với các xứ Cựu Cốt (舊骨), Đường Nhị (堂二) và thổ xứ Đường Nhất; Bắc cận thổ xứ Đường Nhất và ruộng xã Vạn Lộc.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Một khu ruộng – Ruộng riêng: Đông cận thổ xứ Đường Nhất và bãi tha ma; Tây cận thổ xứ Đường Nhất và sông; Nam cận thổ xứ Đường Nhất và sông liền với ruộng chung  và xứ Cựu Cốt; Bắc cận thổ xứ Đường Nhất liền với ruộng chung và ruộng xã Vạn Lộc.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Ruộng xứ Đường Nhị (堂二): Một khu ruộng: Đông cận ruộng xã Vạn Lộc; Tây cận ruộng xã Vạn Lộc; Nam cận sông và xứ Đường Tam (堂三); Bắc cận ruộng xứ Đường Nhất.  (Thôn Trung cày cấy).

       Một khu ruộng: Đông cận ruộng xã Trà Khê (茶溪); Tây cận ruộng xã Vạn Lộc; Nam cận xứ Đường Tam; Bắc cận ruộng các xã Vạn Lộc (萬祿), Thọ Vực (壽域).  (Thôn Trung cày cấy).

       Ruộng xứ Đường Tam (堂三): Đông cận ruộng các xã Vạn Lộc, Thiên Thiện (遷善); Tây cận sông và ruộng xã Vạn Lộc; Nam cận bãi tha ma xứ Thái Bằng (太憑); Bắc cận sông và xứ Đường Nhị (堂二).  (Thôn Đông cày cấy).

       Ruộng xứThái Bằng (太憑): Đông cận ruộng xã Thiên Thiện (遷善); Tây cận bãi tha ma; Nam cận ruộng xã Thọ Vực (壽域); Bắc cận bãi tha ma và xứ Đường Tam (堂三).  (Thôn Trung,thôn Bắc, thôn Đông cày cấy).

       Ruộng xứ Cựu Cốt (舊骨): Đông cận sông; Tây cận ruộng riêng xứ Cựu Cốt; Nam cận thổ xứ Cựu Cốt; Bắc cận Đền Thần và ruộng riêng xứ Cựu Cốt.  (Thôn Trung, thôn Đông cày cấy).

       Một khu ruộng riêng: Đông cận ruộng chung xứ Cựu Cốt; Tây cận sông; Nam cận thổ xứ Cựu Cốt và sông; Bắc cận bãi tha ma và ruộng xứ Đường Nhất.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Ruộng xứ Hà Khẩu (河口): Một khu ruộng: Đông cận sông và thổ xứ Hà Khẩu; Tây cận ruộng xã An Cư; Nam cận sông và thổ xứ Hà Khẩu; Bắc cận sông.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Một khu ruộng: Đông cận ruộng xã An Cư (安居); Tây cận sông lớn; Nam cận ruộng xã An Cư; Bắc cận sông.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Một khu ruộng riêng: Đông cận thổ xứ Hà Khẩu; Tây cận sông lớn; Nam cận thổ xứ Hà Khẩu; Bắc cận ruộng xã An Cư và thổ xứ Hà Khẩu.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Một khu ruộng Trung Đoạn (中段): Đông cận thổ xứ Trung Đoạn; Tây cận thổ xứ Trung Đoạn; Nam cận ruộng xã Phú Nhai (富涯); Bắc cận sông.  (Thôn Trung cày cấy).

       Ruộng xứ Sài Nội (柴内): Đông cận bãi tha ma và xứ Lăng Nội (陵内); Tây cận bãi tha ma và sông lớn; Nam cận thổ xứ Sài Nội và bãi tha ma; Bắc cận ruộng các xã An Cư (富涯), Phú Nhai (富涯), Xuân Hy (春熙).  (Thôn Trung cày cấy).

       Ruộng xứ Lăng Nội (陵内): Đông cận sông; Tây cận thổ xứ Lăng Nội (陵内) và xứ Sài Nội (柴内); Nam cận thổ xứ Lăng Nội; Bắc cận thổ xứ Lăng Nội và địa phận xã Phú Nhai (富涯).  (Thôn Trung cày cấy).

       Ruộng xứ Lăng Ngoại (陵外): Đông cận sông và ruộng xã Lạc Nghiệp (樂業); Tây cận sông liền thổ xứ Lăng Ngoại và ruộng xã An Cư; Nam cận sông liền với ruộng xã An Cư; Bắc cận sông và thổ xứ Lăng Ngoại.  (Thôn Trung cày cấy).

       Ruộng xứ Bà Lão (婆老): Đông cận ruộng xã An Cư (安居); Tây cận sông và thố xứ Bà Lão; Nam cận sông lớn; Bắc cận sông và thổ xứ Bà Lão.  (Thôn Trung cày cấy).

      Ruộng xứ Sài Nhị (柴二): Đông cận xứ Lục Lăng (六陵); Tây cận địa phận xã An Cư; Nam cận xứ Sài Tam; Bắc cận sông lớn.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Ruộng xứ Sài Tam (柴三): Đông cận xứ Chấp Chài (执䊷); Tây cận địa phận xã An Cư; Nam cận sông và xã Nam Điền; Bắc cận xứ Sài Nhị (柴二).  (Thôn Bắc cày cấy).

      Ruộng xứ Sài Hạ (柴下): Đông cận ruộng xã Nam Điền (南田); Tây cận ruộng xã An Cư (安居); Nam cận xứ Sài Tứ (柴四); Bắc cận sông.  (Thôn Trung cày cấy).

      Ruộng xứ Sài Tứ (柴四): Đông cận sông và ruộng xã Nam Điền; Tây cận ruộng cac xã Xuân Bảng (春榜), An Cư (安居); Nam cận xứ Nội Điền (内田); Bắc cận xứ Sài Hạ (柴下).  (Thôn Trung cày cấy).

       Ruộng xứ Lục Lăng (六陵): Đông cận xứ Lăng Hạ (陵下); Tây cận các xứ Sài Nhị (柴二), Chấp Chài (执䊷); Nam cận các xứ Thất Mẫu (七畝), Chấp Chài (执䊷); Bắc cận sông lớn.  (Các thôn Trung, Bắc, Đông luân phiên cày cấy).

      Ruộng xứ Lăng Hạ (陵下): Một khu ruộng: Đông cận địa phận xã Nam Điền (南田) và xứ Một Trăm (𤾓); Tây cận xứ Chấp Chài (执䊷); Nam cận sông; Bắc cận xứ Thất Mẫu (七畝).  (Thôn Bắc cày cấy).

       Một khu ruộng: Đông cận các xứ Một Trăm (𤾓), Ba Mươi (𠀧𨑮) và sông; Tây cận xứ Lục Lăng (六陵); Nam cận xứ Thất Mẫu (七畝); Bắc cận sông lớn.  (Thôn Bắc cày cấy).

       Một khu ruộng: Đông cận sông lớn; Tây cận sông; Nam cận xứ Ba Mươi (𠀧𨑮); Bắc cận sông lớn.  (Thôn Trung, thôn Bắc cày cấy).

       Ruộng xứ Ba Mươi (𠀧𨑮): Đông cận sông lớn; Tây cận xứ Lăng Hạ (陵下); Nam cận xứ Một Trăm (𤾓); Bắc cận xứ Lăng Hạ (陵下).  (Thôn Trung, thôn Bắc, thôn Đông cày cấy).

       Ruộng xứ Chấp Chài (执䊷): Đông cận các xứ Lăng Hạ (陵下), Thất Mẫu (七畝), Lục Lăng (六陵); Tây cận xứ Sài Tam (柴三); Nam cận sông; Bắc cận xứ Lục Lăng (六陵).  (Thôn Bắc cày cấy).

       Ruộng xứThất Mẫu (七畝): Đông cận xứ Một Trăm (𤾓); Tây cận xứ Chấp Chài (执䊷); Nam cận xứ Lăng Hạ (陵下); Bắc cận các xứ Lục Lăng (錄陵), Lăng Hạ (陵下).  (Thôn Bắc cày cấy).

      Ruộng xứ Một Trăm (𤾓): Đông cận sông và địa phận xã Nam Điền (南田); Tây cận các xứ Lăng Hạ (陵下), Thất Mẫu (七畝); Nam cận sông và địa phận xã Nam Điền; Bắc cận xứ Ba Mươi (𠀧𨑮).  (Thôn Đông cày cấy).

      Ruộng xứ Trung Đoạn (中段): Đông cận đê cũ Thất đỗi và xứ Tân Trưng (新徴); Tây cận xứ Nội Điền (内田) và địa phận xã Nam Điền (南田); Nam cận xứ Hạ Đoạn (下段) và địa phận xã Nam Điền (南田); Bắc cận sông.  (Thôn Trung cày cấy).

       Ruộng xứ Hạ Đoạn (下段): Đông cận địa phận xã Nam Điền (南田); Tây cận xứ Nội Điền (内田); Nam cận xứ Mỗi Khê (每溪) (ở đỗi 1) và địa phận xã Nam Điền (南田); Bắc cận các xứ Nội Điền (内田) (ở đỗi 1), Trung Đoạn (中段).  (Thôn Trung cày cấy).

       Ruộng xứ Nội Điền (内田): Đông cận các xứ Hạ Đoạn (下段) (ở đỗi 5), Trung Đoạn (中段); Tây cận địa phận xã Xuân Bảng (春榜); Nam cận địa phận xã Nam Điền và xứ Hạ Đoạn (下段); Bắc cận xứ Sài Tứ (柴四) và ruộng xã Nam Điền (南田).  (Thôn Trung cày cấy).

       Ruộng xứ Mỗi Khê (每溪): Đông cận sông; Tây cận địa phận xã Nam Điền; Nam cận sông; Bắc cận xứ Hạ Đoạn (下段).  (Thôn Trung cày cấy).

       Ruộng xứ Tân Trưng (新徴): Đông cận sông lớn Ngô Đồng (梧桐江); Tây cận đê cũ (cựu đê = 舊堤); Nam cận ruộng xã Tự Lạc (自樂); Bắc cận đê.  (Thôn Trung, thôn Bắc, thôn Đông cày cấy).

       Thổ xứ Cựu Cốt (舊骨): Đông cận sông; Tây cận sông; Nam cận sông và địa phận xã Phú Nhai (富涯); Bắc cận các xứ Tiền Trì (前池), Đường Nhất (堂一), và ruộng xứ Cựu Cốt (舊骨).

      Thổ xứ Tiền Trì (前池): Đông cận xứ Cựu Cốt; Tây cận xứ Cựu Cốt; Nam cận xứ Cựu Cốt; Bắc cận ruộng xứ Tiền Trì.  (Thuộc thôn Bắc).

       Thổ xứ Đường Nhất (堂一): Đông cận ruộng xã Vạn Lộc và ruộng xứ Đường Nhất; Tây cận sông và ruộng xứ Đường Nhất; Nam cận sông, ruộng xứ Đường Nhất và xứ Cựu Cốt (舊骨); Bắc cận ruộng xứ Đường Nhất (堂一) và ruộng xã Vạn Lộc (萬祿).  (thuộc thôn Bắc).

      Thổ xứ Khẩu Tam (口三): Đông cận sông; Tây cận sông và ruộng xứ Khẩu Tam; Nam cận ruộng xứ Khẩu Tam và xứ Đô Trạo (都棹); Bắc cận ruộng xứ Khẩu Tam.  (thuộc thôn Bắc).

      Thổ xứ Đô Trạo (都棹): Đông cận sông; Tây cận sông lớn; Nam cận sông và xứ Hà Khẩu (河口); Bắc cận ruộng xứ Đô Trạo.  (thuộc thôn Bắc).

      Thổ xứ Khẩu Nhị (口二): Một khu thổ: Đông cận sông; Tây cận sông lớn; Nam cận ruộng xứ Khẩu Nhị và bãi tha ma, ruộng xã An Cư (安居); Bắc cận ruộng xứ Khẩu Nhị và sông.  (thuộc thôn Bắc).

      Một khu thổ: Đông cận sông; Tây cận ruộng xứ Khẩu Nhị; Nam cận sông; Bắc cận địa phận các xã Hoành Quán (橫舘), Vạn Lộc ().  (thuộc thôn Bắc).

      Thổ xứ Hà Khẩu (河口): Đông cận sông và địa phận xã Phú Nhai (富涯); Tây cận sông lớn; Nam cận địa phận các xã An Cư (安居). Phú Nhai (富涯); Bắc cận sông và ruộng xứ Hà Khẩu.  (thuộc thônTrung, thôn Bắc).

      Thổ xứ Đường Tam (堂三): Đông cận sông; Tây cận sông; Nam cận bãi tha ma xứ Thái Bằng (太憑); Bắc cận ruộng xứ Đường Tam.  (thuộc thôn Đông).

      Thổ xứ Côn Thượng (昆上): Đông cận địa phận xã Thọ Vực (壽域); Tây cận địa phận xã Phú Nhai (富涯); Nam cận xứ Côn Hạ (昆下); Bắc cận bãi tha ma xứ Thái Bằng (太憑).  (thuộc thôn Đông).

      Thổ xứ Côn Hạ (昆下): Đông cận ruộng cac xã Lạc Nghiệp (樂業), Thọ Vực (壽域); Tây cận xứ Lăng Nội (陵内); Nam cận sông; Bắc cận xứ Côn Thượng (昆上).  (thuộc thôn Trung, thôn Đông).

      Thổ xứ Lăng Nội (陵内): Đông cận xứ Côn Hạ (昆下); Tây cận xứ Sài Nội (柴内); Nam cận sông; Bắc cận bãi tha ma và ruộng xứ Lăng Nội (陵内).  (thuộc Thôn Trung).

       Thổ xứ Sài Nội (柴内): Đông cận xứ Lăng Nội (陵内); Tây cận sông lớn; Nam cận xứ Ông Thượng (翁上); Bắc cận bãi tha ma và ruộng xứ Sài Nội (柴内).  (thuộc Thôn Trung).

      Thổ xứ Ông Thượng (翁上): Đông cận sông; Tây cận ruộng xã Lạc Nghiệp (樂業); Nam cận xứ Bà Lão (妑老); Bắc cận sông.  (thuộc Thôn Trung).

      Thổ xứ Bà Lão (妑老): Đông cận ruộng xứ Bà Lão và sông; Tây cận ruộng xã Lạc Nghiệp (樂業);; Nam cận sông lớn; Bắc cận xứ Ông Thượng (翁上).  (thuộc Thôn Trung).

      Thổ xứ Lăng Ngoại (陵外): Đông cận ruộng xứ Lăng Ngoại; Tây cận bãi tha ma; Nam cận ruộng xứ Lăng Ngoại; Bắc cận sông.  (thuộc Thôn Trung).

 

       RANH GIỚI ĐẤT ĐAI(11)

      

       PHÍA ĐÔNG :

       - Một đoạn, tại xứ Tân Bến (𣷷), gần xã Vạn Lộc (萬祿), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

       - Một đoạn, tại xứ Đoạn Đồng (段同), gần xã Vạn Lộc (萬祿), lấy giữa sông nhỏ làm ranh giới.

- Ba đoạn,  tại các xứ Đường Nhất (堂一), Đường Nhị (堂二), Đường Tam (堂三), gần xã Vạn Lộc, cùng lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại Đường Nhị (堂二), Đường Tam (堂三), Thái Bằng (太憑), gần hai xã Trà Khê (茶溪), Thiên Thiện (遷善), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Côn Thượng (昆上), gần xã Thọ Vực (壽域), lấy giữa bờ ruộng và đường ngách ven luỹ xã ta làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Côn Hạ (昆下), gàn xã Lạc Nghiệp (樂業), lấyđường ngách ven luỹ xã ta làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Lăng Ngoại (陵外), gần xã Lạc Nghiệp (樂業), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Mỗi Khê (每溪) gần xã Lạc Nghiệp (樂業), lấy giữa sông nhỏ làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Lăng Hạ (陵下), gần xã Nam Điền (南田), lấy đường bờ bao xã này và giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Một Trăm (𤾓), gần xã Nam Điền (南田), giáp đường bờ bao xã này, lấy giữa sông nhỏ và giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Tân Trưng (新徴) gần sông Ngô Đồng (梧桐), bên kia sông là địa phận xã Hoành Nha (橫衙), lấy giữa sông làm ranh giới.

 

       PHÍA TÂY:

- Một đoạn, tại xứ Tân Bến (𣷷), gần xã Thuỷ Nhai (水涯), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Đoạn Đồng (段同), gần xã Hoành Quán (橫舘), lấy giữa sông và giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Khẩu Nhị (口二), gần xã Hoành Quán (橫舘), lấy bờ bao ven luỹ làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Khẩu Tam (口三) gần xã Vạn Lộc (萬祿), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại các xứ Đường Nhị (堂二), Đường Tam (堂三), gần xã Vạn Lộc (萬祿), đều lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Côn Thượng (昆上), gần xã Phú Nhai (富涯), lấy đường nhỏ xã ta làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Hà Khẩu (河口), gần xã An Cư (安居), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Khẩu Nhị (口二), gần xã An Cư (安居), lấy giữa sông làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Lăng Ngoại (陵外), gần xã An Cư (安居), lấy đường đi bộ xã này làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Sài Nhị (柴二), gần xã An Cư (安居), lấy đường đi bộ xã này làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Sài Tam (柴三), gần xã An Cư (安居), lấy đường đi bộ xã này làm ranh giới.

- Một đoạn, tạicác xứ Sài Hạ (柴下), Sài Tứ (柴四), gần các xã An Cư (安居), Xuân Bảng (春榜), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại các xứ Hà Khẩu (河口), Sài Nội (柴内), gần các xã An Cư (安居), Xuân Bảng (春榜), lấy giữa sông làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Nội Điền (内田), gần xã Xuân Bảng (春榜), lấy giữa bờ ruộng và đường bao xã Xuân Bảng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Bà Lão (妑老), gần xã Lạc Nghiệp (樂業), lấy đường bao xã này và giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Trung Đoạn (中段), gần xã Nam Điền (南田), lấy giữa bờ ruông làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Tân Trưng (新徴), gần xã Nam Điền (南田), lấy đê cũ xã này làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Mỗi Khê (每溪), gần xã Nam Điền (南田), lấy sông xã này và giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Một Trăm (𤾓), gần xã Nam Điền (南田), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

 

PHÍA NAM:

- Một đoạn, tại xứ Tân Bến (𣷷), gần hai xã Hoành Quán (橫舘), Vạn Lộc (萬祿), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Đoạn Đồng (段同), gần hai xã Hoành Quán (橫舘), Vạn Lộc (萬祿), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Đường Nhất (堂一), gần xã Vạn Lộc (萬祿), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Thái Bằng (太憑), gần xã Thọ Vực (壽域), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Hà Khẩu (河口), gần xã An Cư (安居), lấy giữa bờ ruộng và sông xã này làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Khẩu Nhị (口二), gần xã An Cư (安居), lấy đường nhỏ xã này và bãi tha ma làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Lăng Ngoại (陵外), gần xã An Cư (安居), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Hà Khẩu (河口), gần xã Phú Nhai (富涯), lấy đường nhỏ xã này làm ranh giới.

- Lại một đoạn, tại xứ Hà Khẩu (河口), gần xã Phú Nhai (富涯), lấy giữa đường nhỏ xã này làm ranh giới.

- Lại một đoạn, tại xứ Hà Khẩu (河口), gần xã Phú Nhai (富涯), lấy đường bao xã này làm ranh giới.

- Lại một đoạn, tại xứ Cựu Cốt (舊骨), gần xã Phú Nhai (富涯), bên kia sông chảy qua xã, lấybờ ruộng xã này và đường luỹ bao làm ranh giới.

- Lại một đoạn, tại xứ Cựu Cốt (舊骨), gần xã Phú Nhai (富涯), lấy đường đi bộ xã này làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Côn Hạ (昆下), gần xã Lạc Nghiệp (樂業), lấy sông xã này làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Mỗi Khê (每溪), gần xã Lạc Nghiệp (樂業), lấy giữa sông nhỏ làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Sài Nội (柴内), Ông Thượng (翁尚), gần hai xã Lạc Nghiệp (樂業), An Cư (安居),  lấy sông và giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Tân Trưng (新徴), gần ấp Tự Lạc (自樂), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Ba Mươi (𠀧𨑮), gần xã Nam Điền (南佃), lấy đường bờ bao xã này làm ranh giới.

- Hai đoạn, tại xứ Một Trăm (𤾓), gần xã Nam Điền (南田), lấy sông xã này và giữa đường bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại các xứ Lăng Hạ (陵下), Chấp Chài (执䊷), Sài Tam (柴三), gần xã Nam Điền (南田), lấy giữa sông nhỏ làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Trung Đoạn (中段), gần xã Nam Điền (南田), lấy đường bao xã này làm ranh giới.

- Một đoạn, tại các xứ Nội Điền (内田), Hạ Đoạn (下段), gần xã Nam Điền (南田), cũng lấy đường bao xã này làm ranh giới.

 

PHÍA BẮC:

- Một đoạn, tại xứ Tân Bến (𣷷), gần hai xã Thọ Vực (壽域), Thuỷ Nhai (水涯), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Đường Nhị (堂二), gần hai xã Thọ Vực (壽域), Vạn Lộc (萬祿),cùng lấy giữa bở ruộng làm ranh giới.  

- Một đoạn, tại xứ Đường Nhất (堂一), gần xã Vạn Lộc (萬祿), lấy đường nhỏ bao xã này làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Khẩu Nhị (口二), gần xã Vạn Lộc (萬祿), lấy đường bao xã này làm ranh giới.   

- Hai đoạn, tạicác xứ Cựu Cốt (舊骨), Thái Bằng (太憑) gần xã Vạn Lộc (), cùng lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Đoạn Đồng(段同), gần xã Hoành Quán (橫舘), lấy giữa bờ ruộng và bãi tha ma xã ta làm ranh giới.      

- Một đoạn, tại xứ Khẩu Nhị (口二), gần xã Hoành Quán (橫舘), lấy đường nhỏ bao xã ta làm ranh giới.      

- Một đoạn, tại xứ Lăng Nội (陵内), gần xã Phú Nhai (富涯), lấy đường nhỏ bao luỹ xã ta làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Sài Nội (柴内), gần các xã Phú Nhai (富涯), An Cư (安居), Xuân Hy (春熙), cùng lấy giữa bờ ruộng và bãi tha ma xã ta làm ranh giới.     

- Một đoạn, tại xứ Lục Lăng (錄陵), gần xã An Cư (安居), lấy giữa sông lớn làm ranh giới.  

- Một đoạn, tại xứ Khẩu Nhị (口二), gần xã Xuân Hy (春熙), lấy giữa sông lớn làm ranh giới.   

- Một đoạn, tại xứ Trung Đoạn (中段), gần xã Nam Điền (南田), lấy giữa sông nhỏ làm ranh giới.

- Một đoạn, tại xứ Nội Điền (内田), gần xã Nam Điền (南田), lấy giữa bờ ruộng làm ranh giới.   

- Một đoạn, tại xứ Tân Trưng (新徴), gần xã Nam Điền (南田), lấy đê cũ xã này làm ranh giới.  

 

       MẠCH ĐẤT(13b)

 

      Mạch đất chính là từ Càn Hợi (Đông Bắc), ven theo sông Cát Giang (葛江) mà lại.Đến chỗ ruộng xã Thiên Thiện (遷善), đột ngột nổi cao lên thành một cái gò lớn, tục gọi là Mả Màn (𡏢). Đó là gốc đầu tiên. Liền đó lại nổi lên thành bãi bằng, hai bên như hai cái mái chèo giống như hoa thược dược. Đó là xứ Thái Bằng (太憑). Lại bung rộng ra hơn một dặm. Đó là khu vực thổ cư Cựu Cốt (舊骨). Lại thêm những đồi, gò cao là xứ Đường Nhất (堂一). Toàn bộ khu vực đó chính là thân Rồng.

       Một mạch đất từ gốc đầu tiêntách ra, qua các xứ Vạn Lộc (萬祿), Thượng Tiến (上進), khi đến chỗ xứ Đường Nhị (堂二), đỗi thứ 5, ruộng 6, 7 thì bỗng nổi lên ba gò lớn. Qua sông thì nổi lên liên tục các gò đất xứ Đường Nhị (堂二), mà khi đến xứ Đường Nhất (堂一), thì dừng lại. Tạo thành cách cục “Phượng Hoàng ẩm thuỷ” (Chim Phượng uống nước), lấy làm bảo vệ cho thân Rồng. Có câu hát rằng “Trà Lũ có Rồng cuộn án ngữ” (茶縷蟠龍化案 = Trà Lũ bàn long hoá án). Lại có bài ca:

膠水茶繼。Giao Thuỷ Trà Kế.

奇形異勢。Kỳ hình dị thế.

龍蟠虎迴。Long bàn hổ hồi.

左顧右視。Tả cố hữu thị.

案托龍山。Án thác long sơn.

堂猪虎水。Đường trư hổ thuỷ.

垂餘若栽。Thuỳ dư nhược tài.

名科世美。Danh khoa thế mỹ.

財水過來。Tài thuỷ quá lai.

仕中有止。Sĩ trung hữu chỉ.

Ý nghĩa bài ca phong thuỷ này nói rằng: “Xã Trà Lũ huyện Giao Thuỷ có thế đất đẹp kỳ lạ. Thế đất Rồng cuộn Hổ ngồi. Lưng dựa vào núi Rồng, nhìn trái ngó phải, lợn đầy nhà, Hổ uống nước. Người Trà Lũ sẽ học hành tấn tới, đỗ đạt cao, tiền của nhiều, làm quan lớn”.

Một mạch đất phân nhánh từ xứ Thái Bằng (太憑), tạo lên các xứ Côn Thượng (昆上), Côn Hạ (昆下). Phía Tây có một mạch chạy từ Tân Bến (𣷷), Đoạn Đồng (段同), phân tách ra làm Khẩu Nhị (口二), Khẩu Tam (口三), Đô Trạo (都棹), Hà Khẩu (河口) và địa phận xã Phú Nhai (富涯). Lại phân tách một mạch đất qua sông, qua ruộng đồng các xã Xuân Hy (春熙), An Cư (安居), Phú Nhai (富涯), lại đột ngột nổi lên gò đồi chính là bãi tha ma xứ Sài Nội (柴内). Lại tạo lên các xứ dân cư Ông Thượng (翁尚), Bà Lão (妑老). Từ Hà Khẩu (河口) tách một nhánh qua  ruộng xã Phú Nhai (富涯), tạo lên các xứ Lăng Nội (陵内), Lăng Ngoại (陵外). Mạch đất này khi qua sông lại đột ngột nổi cao tạo lên các xứ Lục Lăng (錄陵), Lăng Hạ (陵下), Ba Mươi (𠀧𨑮), Một Trăm (𤾓), Nội Điền (内田) và địa phận xã Nam Điền (南田).

Mạch đất xã ta đại khái chạy như thế.

 

SÔNG LẠCH (14)

   

      - Một nhánh sông, bắt nguồn từ xứ Đường Tam (堂三), chảy qua khu ruộng xã Vạn Lộc (萬祿), gấp khúc uốn lượn, đến đỗi thứ 7 cánh ruộng này thì hợp lưu với sông xứ Đường Nhị (堂二)(tục gọi là sông Long Râu = 滝妯 = Râu Rồng), chảy tới đỗi 13 xứ Đường Nhất (堂一) (tục gọi là Mỏ Phượng = 㖼鳳).

       - Một nhánh sông, bắt đầu từ ruộng 8, đỗi 8, giáp xứ Đường Tam (堂三), chảy qua xứ Thượng Tiến (上進), đến đỗi 5 xứ Đường Nhị (堂二) thì hợp lưu. Nay sông này cạn tắc.

       - Một nhánh sông, chảy từ đỗi 1 xứ Đường Nhất (堂一), giáp với cánh ruộng xã Vạn Lộc (), chảy đến đỗi 6 xứ Đường Tam (堂三), tục gọi là sông Đàm Kính (潭涇).

       - Một nhánh sông, ở xứ Đường Nhất, đầu là từ đỗi 1 xứ Đường Nhất, cuối là Phượng Chuỷ (鳳觜 = Mỏ Phượng = 㖼鳳), tục gọi là sông Long Đôi. (龍堆).

       - Một nhánh sông, chảy từ Chùa Cổ (古寺), tục gọi là sông Long Tu (龍鬚 = Râu Rồng), quanh co chín khúc,  chỗ như gương, chỗ như bầu rượu, tục gọi là sông Long Hinh Bàn (龍馨蟠), nước chảy về Phượng Chuỷ (鳳觜= Mỏ Phượng), tạo thành thế nước chảy 4 phương.

       - Một nhánh sông, chảy từ gò chợ thôn Đông, liền với hai xứ Thái Bằng (太憑), Cựu Cốt (舊骨). Tương truyền  đời trước không biết, vô tình làm đứt long mạch ở đây. Nay sông này vẫn chảy tới các xứ Đường Nhất (堂一), Đường Nhị (堂二), Đường Tam (堂三).

       - Một nhánh sông, chảy từ đỗi 1 xứ Đường Nhất (堂一), uốn lượn thông sang xã Vạn Lộc (萬祿), xứ Tiền Đồng (前同). Lại có một nhánh sông chảy từ ruộng 3, đỗi 3 xứ Đường Nhị (堂二), rẽ nhánh ngang qua đỗi 2, đỗi 1 xứ Vạn Lộc (萬祿), Nguyễn Hãn (阮捍), thông với sông Đỗi 7 xứ Đường Nhất (堂一). Nay đều cạn, tắc.

       - Một nhánh sông, phát nguồn từ Thọ Vực (壽域), Thanh Trà (清茶), chảy qua xã Vạn Lộc (萬祿), gặp cánh đồng Đoạn Đồng (段同), qua các xứ  Khẩu Tam (口三), Cựu Cốt (舊骨), hợp với sông Phú Nhai, chảy ra xứ Lăng Nội, tới cầu chợ Trung thì phân nhánh, một chảy về đông hợp với sông Cát Giang (葛江), một chảy về tây, hợp với sông hai xứ Bà Lão (妑老), Ông Thượng ().

       - Một nhánh sông, chảy từ ruộng đỗi 1 xứ Đoạn Đồng (段同), qua ruộng xã Vạn Lộc (萬祿) và các xứ Khẩu Tam (口三), Khẩu Nhị (口二), rồi chảy ra Hà Khẩu (河口).

       - Một nhánh sông, ở xứ Côn Thượng (昆上), quanh co vòng vèo, phía bắc thì hợp với sông Thái Bằng (太憑), phía tây thì hợp với sông Trung (中溪), phía đông thì thông ra sông Cát Giang (葛江).

       - Một nhánh sông, ở xứ Côn Hạ (昆下), từ sông Trung phân lưu, loanh quanh vòng vèo, chảy qua các khu ruộng  xứ Đinh Nội (丁内) xã Lạc Nghiệp (樂業) rồi thông ra sông Cát Giang (葛江).

       - Một nhánh sông, chảy từ sông Hà Khẩu (河口) lại, qua ruộng các xã An Cư (安居), Phú Nhai (富涯), phía nam thì chảy tới xứ Sài Nội (柴内), hợp với nhánh sông, lại hợp với sông ngang thuộc các xứ Ông Thượng (), Lăng Nội (陵内), chảy qua hai xứ Lăng Ngoại (陵外), Bà Lão (妑老) rồi thông ra sông Trung (中江). Nay đoạn sông giáp xã Phú Nhai (富涯) cạn tắc.

       - Một số nhánh sông, ở các xứ Thất Mẫu (七畝), Chấp Chài (), Lục Lăng (錄陵), Sài Nhị (柴二), Sài Tam (柴三), tục gọi là Dục Chính (育正).

       - Một nhánh sông, chảy từ ruộng 6 đỗi 4 xứ Lăng Hạ (陵下), thông qua xứ Ba Mươi (𠀧𨑮), Một Trăm (𤾓), tục gọi là sông Dục Cạnh (育竸).

       - Một nhánh sông, giáp các xứ Sài Nhị (柴二), Lục Lăng (錄陵), Chấp Chài (), Sài Tam (柴三). Sông này mới được đào thời Thành Thái.(1889 – 1907).

       - Một nhánh sông, chảy từ đỗi 5 xứ Sài Tam (柴三), chảy ra ruộng 13 đỗi 1 xứ Chấp Chài (), thường gọi là nhánh lạch  Hà Lạn (河爛).

       - Một nhánh sông, chảy từ ruộng 1 đỗi 5 xứ Sài Tam (柴三), đến các nhánh sông xứ Sài Hạ (柴下), Sài Tứ (柴四), thường gọi là sông Hạch Lai ().

       - Một nhánh sông, phân nhánh chảy từ xứ Cấp Tứ (給賜), ven theo xứ Nội Điền (内田), qua các xứ Hạ Đoạn (下段), Mỗi Khê (每溪), chảy ra địa phận xã Lạc Nghiệp (樂業).

       - Một nhánh sông, ở xứ Nội Điền (内田), đầu cuối đều giáp địa phận xã Xuân Bảng (春榜), thường gọi là sông Mặt Nguyệt (𩈘)

       - Một nhánh sông, phân nhánh chảy từ xứ Nội Điền (内田), qua các xứ Tân Điền (新田), Trung Đoạn (中段), chảy ra xứ Hạ Đoạn (下段) và địa phận xã Lạc Nghiệp (樂業).

      - Một nhánh sông, chảy từ ruộng 12 đỗi 2 xứ Lăng Ngoại (陵外), tới ruộng 5 đỗi 10 xứ Cấp Tứ (給賜), thường gọi là sông Hạch Đa (核多).

      - Một nhánh sông, ở phía tây xứ Tân Bến (𣷷), ngày trước rộng 20 trượng, chảy từ ruộng xã Thuỷ Nhai (水涯) tới, qua các xứ Tân Bến (𣷷), Đoạn Đồng (段同), vòng quấn quanh địa phận xã Hoành Quán (橫舘), hợp lưu với sông Trung (中江). Nay đầu nguồn sông này cạn tắc.

      - Một nhánh sông Trung (Trung Giang = 中江), ở xứ Khẩu Nhị (口二), chảy qua bãi tha ma Khẩu Nhị (口二), tục gọi là Cổ Bồng (古蓬), qua các xứ Hà Khẩu (河口), Sài Nội (柴内), chảy tới xã An Cư thì chia dòng, một thông với Tung Giang (潀江), một chảy ra cửa cống xứ Cấp Tứ (給賜). Sông này, thượng nguồn là từ sông Hồng Hà chảy vào, thế nước rất mạnh mẽ, dân xã Lục Thuỷ (綠水) sợ sạt lở mất ruộng vườn nên đắp kè đê ngăn nước, nhưng thế nước quá mạnh, tổng Thuỷ Nhai thường bị ngập. Cho nên cửa cống con sông này là cực kỳ quan trọng trong việc ngăn nước lụt.

      - Sông Cát Giang (葛江) thời trước, khi chảy qua các xứ Đinh Ngoại (丁外), Lôi Côn (雷昆) xã Lạc Nghiệp (樂業) thì hợp với sông Trung ở cuối ruộng đỗi 5 xứ Lăng Ngoại (陵外), nay cạn tắc ở xứ Lôi Côn (雷昆), nên nước chảy mạnh về phía đông. Xã ta tuy không thuộc địa phận sông Cát Giang (葛江), nhưng thế nước sông này lợi hại, các xã trong huyện đều phải tham gia khai đào chống tắc.

      - Sông Ngô Đồng (梧桐江), ngày nay tuy hẹp, nông cạn nhưng nước biển hay chảy ngược lên, lúa mạ cày cấy bị hư hại. Đê ngăn nước mặn ở xứ Tân Trưng (新徴) rất lớn, xã ta cũng được phân việc đào đắp. Việc đào đắp đê này ở huyện ta là bắt đầu từ thời Thành Thái (1889 - 1907).

 

CẦU ĐƯỜNG. (16)

 

      Xã ta sông ngòi như lưới dệt, cầu rất nhiều. Đông khách vãng lai qua lại nhất là các Cầu chợ Trung (巿橋), Cầu chợ Bắc (巿橋), Cầu chợ Đông (巿橋), Cầu sông Hà Khẩu (河口江橋), Cầu xứ Cấp Tứ (給賜橋).

       Đường đi trong xã như bàn cờ.

       - Một con đường, từ xóm Khẩu Nhị (口二), tới chùa thôn Bắc, theo hướng nam tới xứ Hà Khẩu (河口), qua địa phận xã Phú Nhai (富涯), tới cầu chợ Trung (巿), ven theo các xứ Lăng Ngoại (陵外), Cấp Tứ (給賜), tới Cống Ngô Đồng (梧桐). Đây là đường cái quan, được đắp năm thứ 16 (1904) triều Thành Thái (1889 - 1907), đầu là từ phủ lỵ huyện Xuân Trường (春長), cuối là thông ra tới các tổng Hoành Nha (橫衙), Hoành Thu (橫秋), người, xe đi lại rất thuận tiện. Từ xứ Hà Khẩu (河口), phân ra nhánh thứ 2, theo phía tây qua cầu sông Khẩu Đoài (口兌), thông sang các xã thuộc tổng Thuỷ Nhai (水涯).

       - Một con đường, từ cầu chợ Bắc (巿橋), ven xứ Cựu Cốt (舊骨) chạy về phía đông, qua cầu chợ Đông (巿橋), ven theo xứ Thái Bằng (太憑), thông ra các xã Thiên Thiện (遷善), Lạc Nghiệp (樂業).

       - Một con đường, từ Cầu chợ Bắc (巿橋), theo hướng bắc ven theo các xứ Đô Trạo (都棹), Khẩu Tam (口三), Đoạn Đồng (段同), qua sông, thông sang các xã Vạn Lộc (萬祿), Thọ Vực (壽域).

       - Một con đường, từ đường cái quan chỗ Phú Nhai (富涯), theo hướng nam tới các xứ dân cư Sài Nội (柴内), Bà Lão (妑老), thông ra xã An Cư (安居).

      - Một con đường, từ Cầu chợ Trung (巿橋) thông với 5 xóm phía đông (Đông Nhuệ (), Đông Kiều (東橋), Đông Hào (東豪), Đông Phú (東富), Đông Thọ (東壽)) và ven chợ về phía tây ra các xóm Nam Long (南龍) và các xóm thôn Đoài (兌村).

      - Một con đường, từ Cầu chợ Bắc (巿橋), theo hướng bắc thông tới các xóm Đường Nhất Nội (堂一内), Đường Nhất Ngoại (堂一外).

      - Một con đường, từ xứ Thái Bằng đi về phía nam, qua cầu xứ Côn Thượng (昆上), chia ra làm hai nhánh thông tới các xóm của thôn Trung (中村), thôn Đông (東村).

      - Một con đường, ven theo các xứ Sài Nhị (柴二), Lục Lăng (錄陵), Lăng Hạ (陵下), Ba Mươi (𠀧𨑮), thông ra các xã An Cư (安居), Nam Điền (南田).

    

CHỢ (16b)

 

      Ba thôn xã ta đều có chợ. Chợ đều họp ở bến sông, hàng hoá chở bằng thuyền bè đến họp theo các phiên. Chợ Trung phiên họp vào các ngày 4, 8, 14, 18, 24, 28 hàng tháng, Chợ Bắc phiên họp vào các ngày 3, 9, 13, 19, 23, 29 hàng tháng. Các ngày khác thì buổi chiều chợ Trung đều họp. Hàng hoá thì chủ yếu do dân thôn Đoài mua. Gần đây chỉ còn Chợ Trung, Chợ Bắc.

       Năm đầu thời Thành Thái (1889), bắt đầu thu thuế chợ, giao cho xã sở tại thu và nộp lên trên. Chợ Bắc chịu thuế hạng nhất, Chợ Trung chịu thuế hạng 2. Mà người nhận thu thuế thì thu rất nặng nên gần đây quy theo số đinh để chịu khoản thuế này.

 

      NGHỀ NGHIỆP.(17)

 

Xã ta phần đông làm nghề buôn bán. Chồng gánh vợ bán, đi khắp các chợ. Các bến chợ ở tỉnh Thanh Hoá (清化), và xứ Bắc Kỳ (北圻) đều là những chợ quen của dân xã ta.

Có phường buôn bằng thuyền nan, có phường buôn bằng thuyền gỗ, lại có cả phường buôn chở bằng bè mảng tre gỗ. Nhiều phường buôn lớn lắm. Hàng hoá buôn bán nhiều nhất là chiếu cói. Chiếu chở bằng thuyền to bản, tục gọi là “thuyền chiếu” (船炤). Thời Tự Đức (嗣德1848 - 1883) còn dùng loại thuyền này để làm quan dịch (chở hàng hoá phục vụ nhà nước).

Ngày xưa xã có cả trăm lò chuyên nấu rượu, việc làm ăn cũng dễ dàng, nay không còn được như vậy.

Nghề thợ thì phần nhiều là thợ mộc, thợ đào đắp.

Nông nghiệp thì chủ yếu là trồng cấy lúa. Phá thổ khẩn hoang, đắp đập be bờ, dựng nhà cửa ở mà thành xóm làng.

Chân trời góc bể, đâu đâu cũng gặp người Trà Lũ. Tại huyện Tiền Hải (錢海), ba người có 1 người gốc Trà Lũ, tại huyện Kim Sơn (金山), cứ 3 người thì có 2 người gốc Trà Lũ. Đó chính là vì đinh số đông quá mà buộc phải phân tán chia dân đi quê mới vậy.

 

BINH LÍNH TRÁNG ĐINH(17)

 

Không thể khảo được số binh lính thời Lê (黎朝). Quang Trung (光中) năm thứ hai, thôn Trung chịu 71 suất lính, thôn Bắc 48 suất, thôn Đông 19 suất.

Thời Gia Long (嘉隆), thôn Trung chịu 42 suất lính, thôn Bắc 39 suất, thôn Đông 12 suất. Sau tuyển chọn thêm 10 người nữa.

Thời Tự Đức (嗣德), thôn Trung và trại Nam Điền chịu 48 suất lính, thôn Bắc 43 suất, thôn Đông 13 suất.

Từ thời Đồng Khánh (同慶) đến nay, nhà nước tuyển mộ lính tập. Số lượng chưa định rõ. Đương triều tuyển mộ binh theo tỷ lệ cứ 7 trai tráng thì lấy 1 lính. Tuy số trai tráng xã ta nhiều mà chỉ tuyển mộ được 103 lính. Số trai đinh tăng mà số lính không tăng. Mỗi lần thay quân, đuổi bắt dân đi lính còn hơn cả đuổi bắt chim sẻ. Bất kể khoẻ yếu, cố bắt lính cho đủ số. Mỗi người lính được cấp 100 quan tiền để chi dụng nhu yếu và mua may trang phục. Tiền ấy chia bổ đều cho dân xã chịu. Ruộng cấp cho mỗi người lính là 7 mẫu, 5 sào mà khi nhập ngũ chi dùng vẫn thiếu thốn, không có dư ra chút nào. Gần đây khi tuyển mộ binh lính, cấp chung thân cho mỗi suất đi lính là 3 mẫu ruộng. Nhiều người muốn đi lính. Thật là một tệ nạn.

Số lính chỉ có tăng, không có giảm. Theo danh bạ năm 30 thời Tự Đức (嗣德) (1877), trai đinh toàn xã, trại kể cả hạng già, hạng tráng là 1.496 người. Thời đó kiểm duyệt nghiêm nhưng dân xã ẩn giấu rất nhiều, khai hộ tịch nửa thật nửa hư, đúng họ sai tên, đúng tên sai tuổi. Ở trong một xã mà khó biết cho đúng. Nhiều người trong xã đi tứ phương, có người làm điều phi pháp, nhà chức trách truy tìm về nguyên quán thì thấy nhiều người cùng họ cùng tên, làm liên luỵ đến những người mà lý dịch biết chắc chắn họ là người lương thiện. Mà rồi không biết thu tiền của ai để bồi thường chi phí tróc nã, truy tìm can phạm. Thành ra một tệ nạn kéo dài mãi đến ngày nay. Năm thứ 3 thời Đồng Khánh (同慶) (1891), tăng số đinh lên tới 700 người. Làng xã có đơn khiếu nại, được giảm trừ.

Năm thứ hai triều Thành Thái (成泰) (1890), toàn xã, trại chịu số đinh hạng nhất, hạng nhì là 1.569 người. Năm thứ ba triều Thành Thái (1891), trại Nam Điền tách lập bạ riêng, nhận số đinh 336 người. Bốn thôn cũng tách lập bạ riêng. Từ thời Duy Tân (維新)(1906) đến nay, Nhà nước yêu cầu mỗi năm phải bổ sung, sửa chữa bạ thuế, đồng thời cấp giấy tờ tuỳ thân cho tráng đinh. Giấy này hàng năm có thay đổi màu. Trên dòng tên ghi rõ tên, họ, tuổi, nghề nghiệp cùng số thuế phải nộp của đương sự. Lý trưởng áp triện lên giấy tờ đó. Dân không có giấy này không dám đi xa. Và cứ làm như thế cho đến năm Duy Tân 9 (1914).

Theo chỉ bài hiện nay:

- Thôn Trung đinh hạng nhất 363 người, đinh hạng hai 940 người;

- Thôn Bắc: đinh hạng nhất 511 người, đinh hạng hai 586 người;

- Thôn Đông: đinh hạng nhất 117 người, đinh hạng hai 144 người;

- Thôn Đoài: đinh hạng nhất 226 người, đinh hạng hai 542 người.

- Toàn xã: đinh hạng nhất, đinh hạng hai tổng cộng là 3.429 người.

- Các chức sắc được miễn trừ xếp hạng đinh là gần 500 người.

 

THUẾ KHOÁ. (18b)

 

      Theo ngạch thuế cũ, dân đinh phải nộp thuế. Hạng đinh tráng (khoẻ) mỗi người chịu thuế 1 quan 8 mạch (hào), cước gạo 3 hào. Đàn ông từ 18 tuổi được tính là dân đinh, 54 tuổi gọi là thuộc hạng đinh già (lão hạng = 老項), chịu một nửa suất thuế, 60 tuổi thì gọi là lão nhiêu (老饒), được miễn nộp thuế.

       Cấy ruộng thì phải nộp thóc thuế, cũng có thời gian nộp bằng gạo. Ruộng hạng nhất, hạng nhì, hạng ba tính chung mỗi mẫu phải nộp 1 hộc () thóc. Mỗi hộc bằng 2 phương (). Mỗi phương (), là một hộp hình lục lăng vuông 1 thước ( = xích = 40 cm. Đ.H.T). Xã ta phần nhiều ruộng cấp cho binh lính, ruộng cấp cho dân đinh cày cấy mỗi người chỉ có 1 sào 5, 6 thước. Thuế ruộng nhà binh và ruộng đền chùa đều quy cho dân đinh phải chịu. Ruộng được phân cấy có 1 mẫu mà phải chịu thuế 10 mẫu, mà khó trốn tránh. Đến nỗi nhiều người phải bán cả nhà đất thổ cư đi để lấy tiền nộp thuế.

       Năm đầu thời Thành Thái (1889), thuế ruộng hạng nhất là 1 đồng 3 hào 5 xu, hạng 2 là 1 đồng 4 xu, hạng 3 là 7 hào. Dân đinh chính thức mỗi người chịu thuế 4 hào. Dân đinh ngoài mỗi người chịu thuế 2 hào. Thời gian này, toàn xã, trại chịu thuế cả năm là 1.972 đồng. Từ đó về sau thu thuế bằng tiền, số tiền thuế phải nộp mỗi năm một tăng thêm. Gần đây, mỗi suất đinh chính thức chịu thuế 3 đồng; thuế chợ, thuế đò 2 hào 1 xu rưỡi. Dân đinh ngoài mỗi người chịu thuế 5 hào, thuế đò, thuế chợ giống đinh chính thức. Ruộng hạng nhất chịu thuế 1 đồng 5 hào, ruộng hạng nhì chịu thuế 1 đồng 1 hào, ruộng hạng ba chịu thuế 8 hào. Đất ở hạng nhì mỗi mẫu chịu thuế 5 hào, đất ở hạng 3 chịu thuế mỗi mẫu 3 hào. Mỗi mẫu đất ở chịu thuế đò, thuế chợ như một suất dân đinh.

       Năm thứ 9 thời Duy Tân (1915), tổng thuế 4 thôn phải nộp là 9.361 đồng.

 

       ĐỀN MIẾU. (19)

 

      Ba thôn thần miếu đều riêng biệt. Thôn Trung thờ Đương Cảnh Thành hoàng Phạn tôn thần (當境城隍梵尊神). Thôn Bắc thờ Đương Cảnh Thành hoàng Huệ Chân công chúa (當境城隍惠真公主尊神) tôn thần. Thôn Đông thờ Đương Cảnh Thành hoàng Hinh Long (當境城隍馨龍尊神) tôn thần.

      Thời Lê, thời Tây Sơn đều có sắc phong Đại Vương cho các vị Đương Cảnh Thành Hoàng nhưng nay không còn giữ được.

      Thời gian triều Nguyễn Gia Long, Minh Mạng các thần có sự tích rõ ràng đều được chuẩn phong.

      Năm thứ 4 triều Tự Đức ân phong bản xã ba đạo sắc.

      Một đạo ban thưởng ĐƯƠNG CẢNH THÀNH HOÀNG chi THẦN tặng BẢO AN TRẤN TĨNH CHÍNH TRỰC ĐÔN NGƯNG chi THẦN.

      Một đạo ban thưởng ĐẠI PHẠN chi THẦN TẶNG LINH THÔNG XUNG TUỆ VIÊN TỊNH ĐOAN TÚC chi THẦN.

      Một đạo ban thưởng ĐƯƠNG CẢNH THÀNH HOÀNG CHI THẦN TẶNG NGƯNG HẬU chi THẦN.

      Thôn Bắc phụng ngênh đạo sắc Đương cảnh thành hoàng tặng Ngưng Hậu chi thần.

      Thôn Trung phụng nghênh hai đạo (trong đó có 1 đạo xin sửa đến năm thứ 8 thời Tự Đức mới cấp xuất). Từ đó thôn Trung thờ hai thần hiệu.

      Thôn Đông thời Tự Đức chưa được phong tặng, đến năm thứ 2 thời Thành Thái được ban tặng cùng với thổ thần đều là Linh Phù chi thần.

      Thời Thiệu Trị (1841 – 1847), sư chùa thôn Trung bàn tính cùng hương mục xây miếu ở đông và tây chùa. Bên Đông thờ Đại Giác thiền sư Không Lộ tôn thần (大覺禪師空路尊神). Bên Tây thờ Đế Thích Tiên Đình Liễu Hạnh Công Chúa tôn thần (帝釋仙庭柳杏公主尊神).

      Năm Ất Dậu (1897) thời Đồng Khánh thân hào trong phủ lập Hội Chi Lan (芝蘭會) thờ Hưng Đạo Đại Vương triều Trần, xây miếu ở phía đông xứ Cựu Cốt (舊骨).

      Năm Canh Tý (1900) thời Thành Thái Bảo An hội (保安會) thôn Bắc lập đền ở Xóm Cốt Nam (骨南隣).

      Năm Ất Tỵ, Quế Hương hội (桂香會) thôn Trung lập đền ở xóm Nam Long (南隆), thờ Hưng Đạo đại Vương. Các đền miếu này đều có sắc phong.

      Thôn Bắc, thôn Đông đều lập miếu thờ Liễu Hạnh Công Chúa ở bên hữu chùa. Thôn Đông  thờ bản sắc phong này.

      Năm đầu thời Duy Tân (1907), sức khai các thần chưa được phong tặng. Thôn Bắc khai: Bố Lộ tôn thần, Ngộ Phúc tôn thần, Trung Thần tôn thần, Phúc Chính tôn thần, Chính Tâm tôn thần, Cương Nghị tôn thần. Bản Thổ tôn thần Xóm Khẩu Nhị. Nhà Vua sắc phong như đề nghị.

      Thời Gia Long  (1802 – 1819), lệnh cho dân xã được lập Khổng miếu (). Ba thôn mới bắt đầu có Văn Miếu (). Thôn Trung Văn Miếu ở xứ Lăng Nội, thôn Bắc Văn Miếu lúc đầu xây dựng ở xứ Hà Khẩu, sau chuyển tới xứ Cựu Cốt. Năm Tân Tỵ thời Tự Đức (1881), cải xây Miếu Võ tại phía nam đền thờ Thần. Riêng bên hữu dựng Đền thờ hương hiền.

      Đền thôn Đông ở xứ Thái Bằng. Năm thứ 20 thời Tự Đức (1867), binh lính ba thôn lập Võ Chỉ (武址) tại xứ Cựu Cốt. Miếu Phò Mã (附馬) ở ven xóm Khẩu Trung (口中) thờ cúng theo sự tích hôn ám (xấu, không rõ ràng minh bạch). Các miếu ở các xóm trong xã lập nên rất nhiều, phần lớn đều thờ thần thổ địa. Chùa Xóm Cốt Nam (骨南) thờ có tượng Phật. Các xóm Đông Nhuệ (), Đông Kiều (東橋), Đường Nhất Nội (堂一内) đều thờ âm thần.

      Miếu Thiên Quan thôn Bắc ở phía bên phải chùa. Thời Tự Đức (1848 – 1883), sư Ngọc Bích (玉碧) xây dựng để thờ âm hồn. Ở gian trước, ông cựu Cai tổng Lê Như Lâm bàn thờ Thiên Quan ở chính vị (giữa), hai bên thờ Thổ Thần và Âm Hồn. Nay vẫn theo vậy.

      Thôn Trung Miếu Âm Hồn ở xứ Lăng Ngoại (陵外), trung tâm thờ Thiên Quan. Miếu này do hai ông Cựu lý trưởng Trần Tường, Phạm Thái xây dựng, sau hai ông Cựu Phó lý Phạm Trì, Trần Ngọc có tu sửa thêm vào. Thôn Đông miếu Âm Hồn cũng ở bên phải chùa, do sư trụ trì xây dựng vào thời Tự Đức (1848 – 1883).

 

HỌ TỘC. (20b)

 

      Thôn Trung bốn họ, thôn Bắc sáu họ, đã có từ lâu.

      Thôn Trung đầu tiên là họ Trần, thứ đến họ Phạm, họ Hoàng, họ Lưu.

      Thôn Bắc đầu tiên là họ Bùi, thứ đến họ Đỗ, họ Vũ, họ Nguyễn, họ Lê, họ Mai. Họ Trần đến sau cùng, bắt đầu từ năm Duy Tân - Kỷ Dậu (1909).

      Thôn Đông đầu tiên là họ Phan, thứ đến họ Lê, họ Hoàng, họ Đỗ, họ Bùi. Họ Khổng đến sau cùng.

      Khi mới tới lập ấp, do người không phải từ cùng một xứ, chuyển đến không cùng một lúc nên xắp xếp thứ bậc các họ thì hoặc lấy đến trước, đến sau làm anh em, hoặc lấy họ to, họ nhỏ làm trên dưới, không phải theo sự sắp đặt của người đời sau này.

      Họ TRẦN sơ tổ mộ có hai ngôi, đều táng ở phía nam xứ Thái Bằng (太憑). Từ đường tại xứ Lăng Nội (陵内), phía bên phải đình chợ. Con cháu đông đúc, phồn thịnh, xứng đáng họ lớn, họ đứng đầu như câu ngạn ngữ “Hoành Nha họ Vũ, Trà Lũ họ Trần”. Con cháu theo nhau đi lập ấp đông nhất là ở Kim Sơn (金山), mà hương hào văn vũ đẹp đẽ sánh ngang với cố hương, từ xa xưa đã thế.

      (21) Họ PHẠM mộ tổ tại phía nam xứ Thái Bằng. Từ đường nguyên ở xứ Cựu Cốt (舊骨), sau xem bói xây dựng lại ở xứ Lăng Nội (陵内). Họ có kỳ bài tiến sĩ, không ghi tên họ. Sau tra cứu rõ ra là tiến sĩ Phạm công Thuần (范公淳), đồng tiến sĩ triều Lê, người Phu Hải Đông (夫海東). Đó là do con cháu của ông thiên cư đến xã ta, truy thờ tiên tổ.

      Họ HOÀNG mộ tổ tại xứ Thái Bằng. Từ đường cũng ở xứ Lăng Nội.

      Họ LƯU sơ tổ ba vị. Mộ tại xã Thiên Thiện (遷善). Từ đường tại xứ Hà Khẩu (河口). Nguyên trước hướng nam, năm Duy Tân thứ 9 (1915) xem bói, xây lại theo hướng đông.

      Thôn Bắc họ BÙI, họ VŨ từ đường tại xứ Đô Trạo (都棹), họ ĐỖ, họ NGUYỄN từ đường ở xứ Hà Khẩu (河口), họ LÊ, họ MAI từ đường ở xứ Cựu Cốt (舊骨). Họ TRẦN từ năm Canh Tuất thời vua Duy Tân (1910) mới bắt đầu xây từ đường ở xứ Tiền Trì (前池).

      Năm họ xây lăng mộ tổ ở phía đông bắc đền thờ thần. Trong lăng có cốt (xương) hay không thì không thể kiểm chứng, có người nói là có trường hợp lập thẻ bằng đồng, bỏ vào tiểu quan mà chôn. Khoảng thời Tự Đức (1847 - 1883) các họ xây lăng bằng gạch, đào lên thấy mộ chí lập tức dừng ngay, không dám khảo nghiệm hư thực.

       Họ BÙI có lăng khác ở xứ Khẩu Tam (口三). Họ ĐỖ có lăng khác ở các xứ Đường Nhất (堂一), Đô Trạo (都棹). (21b) Họ NGUYỄN có lăng khác ở khu đất chùa Cảnh Linh. Họ TRẦN có lăng khác tại xứ Đoạn Đồng (段同), truyền ngôn rằng cụ Tổ họ Trần đi sứ, mất ở dọc đường, hỏa táng đem tro cốt về chôn. Các họ đều không có lăng cụ Tổ bà, phả chỉ thấy ghi tên, hiệu, ngày mất.

         Họ VŨ Trà Lũ cùng với hai họ Vũ Hoành Nha (橫衙), Vũ An Cư (安居) đều là từ Mộ Trạch (慕澤) di cư tới. Thám hoa Vũ Công Thịnh nói lại như vậy.

      Họ PHAN lăng tổ tại xã Thiên Thiện (遷善), xứ Mả Màn (𡏢), từ đường tại xứ Côn Thượng (昆上).

      Họ HOÀNG lăng tổ tại cánh ruộng Thập Đỗi (十隊), xứ Đường Tam (堂三). Từ đường ở xứ Thái Bằng.

      Họ LÊ lăng tổ tại xứ Thái Bằng, từ đường tại xứ Côn Thượng (昆上).

      Họ PHẠM lăng tổ tại xứ Thái Bằng, từ đường tại xứ Đường Tam (堂三).

      Họ ĐỖ, họ BÙI, họ KHỔNG lăng tổ đều ở xứ Thái Bằng. Từ đường đều ở xứ Côn Thượng (昆上).

      Họ TRẦN 7 chi, đều bắt nguồn từ Thủy tổ Trần Chính Niệm (陳正念).

      1 chi tiên tổ Trần công tự Chính Giác (正覺). Mộ chuyển táng tại xứ Thái Bằng (太憑). Con cháu 9 nhánh. Từ đường tại xóm Nam Long (南龍). 4 nhánh phụng sự, thờ cúng.

      1 chi tiên tổ Trần công tự Phúc Thái, hậu duệ là tú tài Trần Văn Độ, Trần Châu, Trần Bảng, Trần Thiệp, Trần Hòe, Trần Dật.

      1 chi tiên tổ Trần công tự Phúc Tể, hậu duệ là Trần Tiếp, Trần Mạc.

      1 chi tiên tổ Trần công tự Phúc Hiền, (22a) hậu duệ là Trần Vi, Trần Trạch.

      1 chi tiên tổ Trần Nguyễn tam lang tự Chính Trung, hậu duệ là Phó lý Trần Châu, Trần Phương, Trần Nhâm. Trần quý công tự Quan Cố, hậu duệ là Trần Vịnh, Trần Chuẩn. Đều ở xóm Đông Kiều (東橋).

      1 chi tiên tổ Trần công tự Phúc Hiền, hậu duệ là Trần Điền, Trần Tiềm.

      1 chi tiên tổ Trần công tự Phúc Thượng, hậu duệ là Trần Oanh, Trần Oánh.

      1 chi ở Cựu Cốt (舊骨), tiên tổ Trần công tự Cương Dũng hầu, hậu duệ là Trần Tố, Trần Dực.

      1 chi tổ Trần tam lang tự Phúc Tín, hậu duệ là Trần Long, Trần Dĩnh.

      Lại có 1 chi ở xóm Đông Nhuệ (), tiên tổ Trần công tự Phúc Tín, hậu duệ xa là Trần Trạc, Trần Thuyết.

      1 chi tiên tổ Trần công tự Chính Lãm (正攬), cháu 4 đời là An Ninh hầu, đề lĩnh 4 thành. Sinh 4 nam. Con trưởng là An Khánh hầu, từ đường tại xóm Đông Hào (東豪), nay hậu duệ Trần Thuyên, Trần Như, Trần Quang, Trần Diệp di cư tới ấp Kiên Hành (堅行), hậu duệ là bá hộ Trần Thiêm, hương hào Trần Điềm, Trần Mậu. Con thứ là Khánh Lộc hầu, Tráng Tiết tướng quân là cao tổ, từ đường tại xóm Đông Phú (東富), nay hậu duệ là Trần Bang, Trần Thụ, Trần Cảnh, Trần Luân. Ở xóm Đoài Dũng (兌勇), tiên tổ Trần công tự Phúc Nghiệm, hậu duệ là Trần Tích, Trần Thuật, Trần Tiếp, Trần Quyền, Trần Thuyết, Trần Đình.

      (22b) 1 chi tiên tổ Trần công tự Phúc Minh. Từ đường ở xóm Đoài Ninh (), hậu duệ là Phó tổng Trần Văn Sự, Phó lý Trần Tề, Trần Mại, Trần Khoan, Trần Bình.

      Lại có riêng một từ đường ở xóm Nam Phượng (南鳳) do cựu Cai tổng Trần Điền xây dựng, hậu duệ nay là lý trưởng Trần Nghị, Trần Giảng, Trần Cường, Trần Uông.

      Một phân chi ở Cựu Cốt, tổ là Trần Phúc Trà, phả tộc ghi thọ 110 tuổi. Hậu duệ là Trần Thế, Trần Túc.

      1 chi ở xóm Đoài Dũng (兌勇), theo Thiên Chúa giáo, có hậu duệ là Trần Viết Long sinh 7 nam, đến nay là 5 đời với trên 110 đinh. Trần Phát, Trần Thanh, Trần Trân kế tiếp nhau làm phó lý trưởng, con cháu đề huề, gần đây tốt đẹp.

      1 chi tiên tổ Trần công tự Phúc Huệ, một mộ tại xứ Lăng Ngoại (陵外), một mộ tại xứ Sài Nội (柴内). Từ đường ở xóm Đông Kiều (東橋), nay hậu duệ là Hương hào Trần Xuân, Trần Châu, Trần Thiều, Trần Khang di cư sang tổng Lạc Thiện (樂善), có chánh tổng Trần Viết Giới, lý trưởng Trần Chuân, Trần Tháo là con cháu.

      1 chi tiên tổ Trần công tự Vô Vi. Từ đường tại xóm Trung Mỹ (中美). Hậu duệ là Trần Lễ, Trần Tinh, Trần Húc, Trần Giới, Trần Phán, Trần Đạt.

      1 chi tiên tổ Trần công, đạo hiệu Huyền Tiên, mộ tại xứ Đường Nhất (堂一), từ đường ở xóm Trung Thiện (中善), hậu duệ là Phó lý Trần Kham, Trần Khải.

      (23a) 1 chi tiên tổ Trần công tự Chính Tín, hậu duệ là Trần Đĩnh, Trần Sâm, Trần Sứ, Trần Thùy. Trần Sâm, Trần Sứ phối hợp lập từ đường ở xứ Cựu Cốt (舊骨). Trần Sâm chi tổ Trần công tự Phúc Thiều, Trần Sứ chi tổ Trần công tự Phúc Giai. Đến nay là 8 đời.

     Lại 1 chi họ Trần, tiên tổ Trần công tự Huệ Tính, đỗ Hương cống triều nhà Lê, thụ phong chức quan văn “nhập nội”. Mộ tại xứ Thái Bằng (太憑), về phía tây mộ sơ tổ họ Phạm. Từ đường tại xứ Sài Nội (柴内), xóm Đoài Ninh (). Cháu 8 đời là Trần Bích ăn ở trung thực, con cháu đề huề, đông đúc. Trần Kính, Trần Trân là cháu 9 đời. Hai chi sống ở Kim Sơn, Trần Đạt, Trần Định đều là hào trưởng.

      Lại một chi họ Trần, tiên tổ Trần Nhất lang tự Phúc Thực, sống ở xóm Nam Phượng (南鳳), cháu 4, 5 đời làm suất đội, lý phó trưởng. Hậu duệ nay là Phó lý Trần Khuê, Trần Ngọc, Trần Nghị.

      Họ PHẠM 5 chi, trước chưa có gì hiển đạt. 1 chi ở xóm Thái Bằng, đến Phạm công húy Lực làm hương trưởng. Họ con một, có người làm làm phó tổng, có người làm hiệp quản, làm huyện đoàn….1 chi ở xóm Trung Thiện (中善), cháu là Phạm Đức Uy đỗ tú tài, là khai khoa của dòng họ. 1 chi có từ đường riêng tại xóm Đoài Dũng (兌勇),  hậu duệ là hương hào Phạm Khang.

    (23b) Họ HOÀNG 6 chi, xưa chưa phát đạt lắm. Gần đây Hoàng phủ quân húy Nhu ở xóm Đông Nhuệ sinh hạ hai dòng. Cháu Hoàng Viết Triện làm Cai tổng, cháu Hoàng Đức Trạch bát phẩm đội trưởng, chắt Hoàng Xuân Quyến được thưởng hàm Chánh tổng. Con cháu có người làm hương hào, làm phó lý. Lại có một chi di cư sang huyện Kim Sơn (金山), có Hoàng Công Thưởng trúng Cử nhân thời Tự Đức, anh em Chấp trúng tú tài. Con nuôi Hoàng Xuân cũng đỗ Cử nhân, làm quan Huấn đạo. Mà lăng mộ tiên tổ ở bản xã, há chẳng phải là đất lành tất sinh điều tốt đẹp sao?

      Họ LƯU 3 chi. 4,5 đời tiếp nối sơ tổ đều không có ghi chép rõ ràng. Chi trưởng 6 đời là Lưu Công Khương, 7 đời là Lưu Công Vũ, 8 đời là Lưu Đăng Toại, Lưu Đăng Đạo. Sống ở xóm Đông Biên (東邊). Hậu duệ là lý trưởng Lưu Đức Lệnh, Lưu Dụ, Lưu Hoàng. 1 chi 7 đời là Lưu Công Thanh, Lưu Công Tùy sống ở xóm Bắc Hà có hậu duệ là hương hào Lưu Trụ, phó lý Lưu Khỏa. Chi út 5 đời là Lưu Công Cao, cháu 10 đời là Lưu Trọng Xiêm, Lưu Khắc Vạn đều ở xóm Bắc Hà (北河) có hậu duệ là Lưu Ngũ, Lưu Kỳ. Đến nay đã 13, 14 đời.

      Họ BÙI 1 chi, sống ở xóm Đường Nhất nội. Ghi chép từ tiên tổ Bùi công húy Độ đến đời thứ 4 Bùi công húy Tuân sinh 5 dòng. (24a) Trưởng húy Bùi Vĩnh, lấy người con gái họ Đỗ 13 tuổi đã sinh con cũng là một sự kỳ lạ, cháu 6 đời Bùi công húy Phái trúng tú tài, anh em, con cháu đỗ nhất trường, nhị trường, lấy sách vở học hành làm nghề. Nay hậu duệ là Phó lý Bùi Uông, Nhị trường Bùi Trạm, Nhất trường Bùi Túc, Bùi Hợp.

      Họ ĐỖ có chi lớn ở xóm Khẩu Nhị. Từ tiên tổ Đỗ Công Nhân Chính đến tằng tôn (chắt) là Đỗ công húy Miện sinh hạ 3 dòng.

      Trưởng là Đỗ Oanh, hậu duệ là Đỗ Cửu, Đỗ Uẩn, Đỗ Khiêm, Đỗ Mô, Đỗ Hiệt.

      Thứ là Đỗ Cải, hậu duệ là Đỗ Tâm, Đỗ Trợ, Đỗ Luận.

      Út là Đỗ Lộc, hậu duệ là Đỗ Thâm, Đỗ Trữ, Đỗ Hỷ, Đỗ Điểu, Đỗ Chinh.

      Họ Đỗ có Đỗ công húy Tuyên làm “cơ binh thiên hộ”, ở xóm Khẩu Trung (口中). Từ đường họ Đỗ do ông chủ trì xây dựng. Ông còn soạn diễn ca sự tích họ Đỗ bằng quốc âm. Nay suất đội Đỗ Quang, Đỗ Hậu là cháu 5, 6 đời.

      Họ NGUYỄN chi lớn, tiên tổ tự Mộ Hạnh sinh 4 nam. Con trưởng, con thứ 2 đi nơi khác làm ăn sinh sống. Con thứ 3 và con út ở xóm Khẩu Nhị. Cháu 4 đời là Trạch Nghĩa Bá sinh 3 nam. Cháu 5 đời là Nguyễn Lộc Dạng sinh 7 nam. Con cháu đề huề, gia tộc phồn thịnh. Nguyễn Mưu, Nguyễn Đạt, Nguyễn Luật, Nguyễn Thuộc ở xóm Khẩu Nhị, Nguyễn Bái (), Nguyễn Dương, Nguyễn Tất Tiên, phó quản Nguyễn Hãn ở xóm Khẩu Tam đều có nguồn gốc từ đây.

(24b) Họ NGUYỄN lại có 1 chi ở xóm Cựu Cốt. Ghi từ tiên tổ Nguyễn công húy Trực Chính, cháu 4 đời Nguyễn công húy Du làm hương cán, cháu 5 đời Nguyễn công húy Kì làm cán trương thôn Trà Lũ Bắc. Cháu 6 đời Nguyễn Tiến được thực phong Đội trưởng, quyền khắc suất đội. Nguyễn Huy Tỏa làm hương trưởng, Cháu 7 đời là hương hào Nguyễn Hàng, Nguyễn Huy Tỏa, Nguyễn Uyển. Đến Nguyễn Vực, phó lý Nguyễn Dụng, Nguyễn Cơ, Nguyễn Kiến, Nguyễn Nghĩa, Nguyễn Khôi là cháu 8, 9 đời.

      1 chi họ NGUYỄN ở Đường Nhất nội. Từ tiên tổ Nguyễn công húy Tín đến cháu 7 đời Nguyễn Hoan được thưởng lục phẩm suất đội, Nguyễn Đỉnh làm hương trưởng. Nay hậu duệ là hương hào Nguyễn Uông, Nguyễn Đậu, Nguyễn Dự, Nguyễn Hồi.

      Họ LÊ chia ở 2 xóm Đông Biên, Tiền Trì. Một chi tính từ Lê Phúc Thiện sinh 3 nam. Trưởng là Lê Luận, thứ là Lê Thiệu, út là Lê Nhạc. Dòng thứ ít đinh. Riêng dòng trưởng và út sinh ra đến nay lương giáo hơn 200 người. giàu sang phú quý. Chánh tổng hội viên Lê Văn Thuần, lý trưởng Lê Mạnh Xuyên, chánh tổng Lê Dụng, phó lý Lê Sĩ Khoa, Lê Thôn đều là cháu 8 đời. Lê Chấn, Lê Hàm, Lê Bản, Lê Trọng, Lê Hợi là cháu 9 đời.

      1 chi ghi từ Lê Phúc Sinh đến Lê Văn Nhưng là 9 đời. Ở thôn Đoài Lê Bính là 10 đời, ở Lạc Nam Lê Chẩm là 12 đời.

      (25a) Chi họ Lê ở xóm Khẩu Nhị ghi từ Lê Phúc Hải đến phó lý Lê Trừng, Lê Cương là 8 đời.

      Chi họ Lê ở xóm Khẩu Tam ghi từ Lê Vô Vi đến Lê Chuyên, Lê Vĩ cũng là 8 đời.

      Kế tiếp sơ tổ đến các đời 4,5,6 đều không được ghi rõ ràng.

      Họ VŨ tại thôn Trà Lũ Bắc thực phồn thịnh, mà chi họ Vũ ở xóm Đường Nhất Ngoại cực xứng đáng là chi đa đinh. Có Vũ phủ quân húy Nhâm sinh 5 nam, trải 4 đời đinh số đã vượt quá 100. Hậu duệ là hương hào Vũ Mân, phó lý Vũ Ngạn, Vũ Kỳ, Vũ Khả.

      Họ PHAN từ sơ tổ đến cháu 6 đời Phan Triều Thắng sinh trai, gái 13 người. Con cháu phát cả về văn lẫn về võ. Phó bảng Phan Viết Cân, phó lý Phan Duyệt, Phan Cộng là cháu 13 đời. Phó lý Phan Ngạnh, Phan Di là cháu 14 đời. Phan Cư, Phan Điềm, Phan Thập là cháu 15, 16 đời.

     Lại có Phan công tự Phúc Lành (là thúc tổ của Phan Triều Thắng) sinh hạ 2 chi, hậu duệ là đội trưởng Phan Ân, Phan Đế ở ấp Kiến Thái, huyện Kim Sơn, suất đội Phan Luận, tú tài Phan Khắc Nhượng.

      Họ Phan lại có một chi riêng, tiên tổ là Phan công tự Đức Hậu. Từ đường cũng ở xứ Côn Thượng. Trước có người xã Hạ Miêu (下苗) họ Nguyễn, tên Phúc Trung đến (25b) thôn Trà Lũ Đông dạy học, lấy vợ người họ Hoàng. Con là Đức Hậu và Phúc Hài lấy Phan làm họ. Phan Đức Hậu sinh Phan Diệp, cháu Phan Lập, Phan Tố kế nhau làm hương trưởng. Nay phó lý Phan Nho, Phan Liên là cháu 5 đời. Suất đội Phan Trưng cháu 6 đời. Phúc Hài sinh Phan Pháp Thông, nay Phan Mang là cháu 5 đời.

      Ở thôn Trà Lũ Đông, họ LÊ từ sơ tổ đến 5, 6 đời đều không biết rõ. Từ Lê Phúc Tín sinh hạ 6 con trai đến cháu 5 đời Lê Mai được phong chánh suất đội, Lê Kinh làm lý trưởng, cháu 6 đời Lê Hào, Lê Cảnh, Lê Sinh nối tiếp nhau làm phó lý trưởng. Cháu 7 đời là phó lý Lê Bát, Lê Khôi. Cháu 8 đời là Phó lý Lê Cương, Lê Bất, Lê Đôn.

     Họ BÙI ở Trà Lũ Bắc có 1 chi ở giáp Chí Trung, thôn Đoài. Nay Bùi Phương làm Phó tổng, Bùi Thuần do buôn bán mà giàu có nhất làng.

      Họ Bùi lại có một chi ở xã Nam Điền, từ tiên tổ Bùi công húy Mãnh Lực đến cháu 6 đời Bùi Xuân được thưởng Bá hộ, cháu 7 đời Bùi Văn làm Phó tổng, cháu 8 đời Bùi Tiên giàu sang nối đời.

      (26a) Thôn Trà Lũ Trung, họ NGUYỄN trước là người làng Đông Hồ (東湖), tỉnh Bắc Ninh () - Nguyễn Kính, cưới 2 vợ. Bà cả sinh 1 nam, 2 nữ. Bà hai người Hoàng Mai (黄梅), ông Kính đến đó ở. Bà cả bất bình dẫn con chuyển về sống ở thôn Trung. Sau ông Kính cùng bà hai về ở thôn Bắc làm nghề nấu rượu và lập riêng từ đường ở thôn Bắc. Sống cùng làng Trà Lũ, chỉ khác thôn mà 2,3 đời không biết nhau là vốn cùng một nhà. Trải 4,5 đời nhân khẩu ngày càng đông, đến năm Duy Tân thứ 8 (1914), tình cờ anh em họ Nguyễn ở thôn Bắc hỏi han  anh em họ Nguyễn thôn Trung, xem gia phả thấy trùng khớp nhiều điểm về tiên tổ, gốc tích, ngày giỗ, mồ mả…bèn nhận nhau là chung một gốc Nguyễn Kính. Nguyễn thôn Trung có Nguyễn Thể, Nguyễn Dụng, Nguyễn Giác, Nguyễn Cường, Nguyễn Thiện. Nguyễn thôn Bắc có Nguyễn Phổ, Nguyễn Giao.

      Họ NGUYỄN thôn Bắc có 1 chi tiên tổ là Nguyễn Phúc Toản người Hoàng Mai, đến ở xóm Cốt Nam làm nghề nấu rượu. Nghề nấu rượu của người thôn Bắc thực là có bắt đầu từ đó. Cháu 4 đời húy Hựu sinh 7 con. Đến nay ít đinh, chỉ có hơn 30 người. Nguyễn Mỹ, Nguyễn Ấm, Nguyễn Chí là cháu 6 đời.

      Thôn Đông có họ NGUYỄN, con cháu phần nhiều theo đạo Thiên chúa. Người bên lương còn ít, chưa đủ số để có thể lập từ đường.

      Thôn Trung, họ ĐINH tiên tổ tự Phúc Tín, từ đường tại xứ Sài Nội. Truyền ngôn rằng là người Phú Nhai di cư đến Đoài Nghĩa. Nay Đinh Tinh, Đinh Dinh, Đinh Chư là cháu (26b) 7 đời. Đinh Chí, Đinh Khiêm là cháu 8 đời. Ở xã Lạc Thiện, huyện Kim Sơn, lý trưởng Đinh Tề, định hướng Đinh Hạ ấp Trà Lũ, hương trưởng Đinh Châu, chánh tổng bá hộ Đinh Liên đều cũng là cháu 8 đời. Con cháu đề huề, thực là nhờ phúc ấm vậy.

      Họ Đinh thôn Đông cũng là từ Phú Nhai đến ở, tổ bà là con gái Phan Triều Thắng, đến nay đã 8, 9 đời.

      Thôn Bắc, họ ĐINH tách ra từ Trừng Hải (澄海), Trực Ninh (). Họ Đinh, từ Đinh Lý di cư đến xã An Cư, đến cháu Đinh Hảo, chắt Đinh Huyên (), Đinh Triều, Đinh Liêu, Đinh Huynh, Đinh Bình, Đinh An theo nhau đến ở xóm Khẩu Đoài (口兌). Đinh Huyên lấy vợ họ Mai, theo vào họ Mai, có hậu duệ là Mai Khải, Mai Nghiêm, Mai Liễn, Mai Thể, Mai Nghi. Đinh Triều, Đinh Huynh giữ nguyên họ, hậu duệ là Đinh Phức, Đinh Chúc, Đinh Giới, Đinh Khái, Đinh Hưng. Hai họ mà một nguồn, mở mang phát triển, đến nay qua 4, 5 đời, đinh số gần 100.

      Thôn Trung nguyên có một chi họ ĐOÀN, đã chuyển cư xã Nam Điền, con cháu đông đúc. Họ Đoàn ở bản xã ít đinh.

      Thôn Bắc xưa có họ LẠI, còn một nhánh chuyển sống ở xã Nam Điền, sau di cư qua ấp Trung Quy (中規), huyện Kim Sơn. Có Lại Đức Hiệp (賴德洽) trúng tú tài thời Tự Đức, là người mở khoa khoán cho huyện, sau con cháu cũng kém.

      Thôn Bắc lại có người họ CAO () sống ở xóm Đông Biên, nay theo Thiên chúa giáo.

      Lại có họ PHẠM sống ở xóm Đô Trạo, chỉ có mấy đinh.

      Lại có họ CAO () sống ở Đường Nhất Ngoại, nay theo vào họ Bùi.

      Thôn Đông còn có họ VŨ, cả lương giáo hơn chục người.

 

VIỆC TẾ LỄ. (27)

 

      Ba thôn đều có Đền thờ Thần. Hàng năm, vào các tháng 2, 3 tế thần cầu phúc (kỳ phước = 祈福) đã thành lệ thường. Ngày trước, các thôn rước Thần giá, bát hương tập trung ở một đình để tế lễ, nay thấy việc đó phiền phức quá nên đã bỏ đi không làm thế nữa.

      Đại tiết ba năm một khoá, vào ngày xuân lành các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, toàn thôn tổ chức tế lễ lớn ở đình làng, thiết lập các sới đấu vật, đấu cờ người, bên ven sông thì dựng cột đèn, kéo cờ lễ hội. Rước Thần giá (kiệu Thánh) và liệt Tổ ra Đình. Ngày hôm sau mời hai thôn kia rước hương án cùng hội, thi đấu vật, ca hát, đua thuyền (bơi chải), chơi các trò vui. Từ năm Giáp Ngọ thời Thành Thái (1894), bàn định thống nhất là chỉ làm một lễ tế chung, văn tế đứng tên toàn xã, đồ lễ thì hoặc là trâu hoặc là dê do thôn sở tại sắm, chia lộc thì chủ nhường khách. Ba thôn luân phiên nhau làm chủ, khách. Đó là một tục lệ đẹp đẽ vậy.

      Theo lễ cổ thì chỉ tế lễ ông thuỷ Tổ, không xây dựng từ đường riêng thờ các ông Tổ khác (hàng dưới). Các họ ở xã ta đều xây dựng từ đường, gian giữa thờ cụ Tổ về lập ấp, gian bên trái và gian bên phải thì thờ các Tổ hàng dưới (chiêu, mục), và sắm đầy đủ trang phục tế lễ, đồ thờ cúng và có ruộng hương hoả, lễ giỗ hàng năm.

      Ba năm một lần, đến đại tiết hội làng, rước liệt Tổ theo Thần giá (kiệu Thần) ra Đình, tế chung 3 đến 5 ngày, không phiền phức mà cũng không sơ sài. Đó là những việc làm ý nghĩa tốt đẹp vậy. Các chi họ cũng có xây dựng từ đường riêng để thờ tiên tổ chi ngành mình, tổ chức tế lễ vào mùa Xuân cũng giống như ở họ lớn vậy.

 

TỤC LỆ. (27b)

 

      Ba thôn đều có Đình làng. Sổ hương ẩm (ghi việc ăn cỗ ở Đình làng) có phân biệt vị thứ rõ ràng. Có cỗ 1, cỗ 2, cỗ 3, cỗ 4.

      - Có chức hàm, đỗ đạt khoa bảng, Cai tổng, Phó Tổng thì ngồi cỗ 1.

      - Có bằng cấp Nhất, Nhị trường, hương hào, hương mục ngồi cỗ 2.

      - Binh lính, phần dịch ngồi cỗ 3.

      - Khán thủ ngồi cỗ 4.

      Người mới gia nhập Sổ danh bạ này phải có lễ cáo yết Thần. Lễ to thì trâu, bánh. Lễ nhỏ hơn thì lợn, xôi và nộp tiền vọng đình 12 quan. Lễ tế Thần xong, lấy lộc chiếu theo số mâm mà làm cỗ: biếu người hưởng cỗ 1 một mâm, biếu người hưởng cỗ 2 nửa mâm; thủ lợn (trâu) biếu Tiên chỉ,  lọng biếu Thứ chỉ, (nếu có 2, 3 thứ chỉ thì biếu mỗi người bằng 1 miếng thịt lợn), lầm lợn thì biếu chủ tế, lòng lợn biếu các vị hành lễ, đuôi, chân giò biếu đương thứ, lý dịch và thủ bạ (thư ký giữ sổ).

      Theo lệ xưa, phàm người đã có tên trong bạ làng, gặp tang ma tứ thân phụ mẫu đều phải biếu làng. Người có danh vọng có khi làm 10 bữa cỗ, tốn kém đến 5, 6 trăm quan tiền. Gần đây lệ này đã giản lược đi nhiều, hoặc biếu bằng thịt lợn, bánh trái, hoặc thay thế bằng tiền 12, 10, 8 quan tuỳ hoàn cảnh. Người nhà đám mời Văn hội bản thôn giúp tế 1 lượt, 2 lượt, hoặc mời thân khách tán xướng tuỳ ý. Lệ cũ ở thôn ta, người giàu làm bánh chưng, bánh dày, đóng mâm gỗ, bên trên đặt nguyên cả con lợn, bốn bên treo chùm nem, có cả thịt sâm cầm (một loài chim quý, thịt ngon) sấy khô, phí tổn tới 2, 3 trăm quan tiền. Người kém hơn thì đãi thịt lợn, bánh trái. Gần đây đã giản lược đi nhiều, chỉ còn đãi làng bằng thịt lợn, bánh hoặc thay thế bằng tiền tuỳ tâm.

      Có biếu chung và biếu riêng. Cả họ hiếu biếu gọi là biếu chung. Con trai, con gái, con rể biếu gọi là biếu riêng. Trước là biếu chung, sau mới đến biếu riêng. Đối lại, thôn sắm lễ vật phúng viếng, đến tế 1 lượt và cử 1 người đi đánh trống đưa tang.

      Xóm có công quán, có đồ nghi thức tang lễ, có xe đòn để đưa tang chôn cất. Mỗi xóm đều có bầu người đứng đầu, có sổ ghi chép vị thứ giản lược giống như ở làng. Lại có biện dịch, câu đương 2 người. Có xóm 1 người kiêm vị trí Hương ẩm và Công khoá (việc công) ở làng, có xóm phân tách riêng một người là Hương ẩm, một người làm Công khoá ở làng.

      Phàm về thuế má, tạp dịch thì hội họp, phân bổ ở Đình làng, chia ra cho từng xóm. Xóm chia thu đầy đủ rồi đến Đình làng giao nộp cho Lý trưởng, nhận lãnh biên lai.

       Xóm nào có nhà có tang thì trình báo với Hương trưởng (xóm trưởng), anh em bà con xóm ngõ, rồi chiếu theo lệ làng mà biếu xóm. Biếu chung và biếu riêng. Nhà có lực thì biếu 1 con lợn, 1 thúng gạo (hoặc một thúng xôi to). Kém hơn thì biếu tiền 15, 12, 10, 6, 3, 1 quan 2 hào….chẳng cứ. Dịch phu nhiều hay ít tuỳ tang gia mời. Mỗi dịch phu biếu vải trắng 1 thước 5 tấc để làm mũ đưa tang, 1 hoặc 2 bát gạo; 6 hoặc 3 hào làm tiền lương ăn; 2, 3 đến 5 xu làm tiền đồ dùng thuốc, nước. Xóm cử 2 người cầm cờ, 1 người chấp hiệu để hướng dẫn dịch phu. Biếu riêng người chấp hiệu 1 cái áo; gạo, tiền thì biếu như dịch phu. Chôn cất xong thì về công quán chia tiền rồi về nhà, không phiền tang gia phải đãi cơm rượu như trước.

      Xưa thì phiền hà lắm: sửa soạn phòng tang – biếu, giữa đường đưa tang – biếu, đêm tiễn biệt người quá cố - có mời cỗ, mỗi lễ tế lại đều có đãi cơm rượu. Nay những việc đó đều giản lược đi hết.

      Các họ đều có sổ ghi tên tuổi, vị thứ người trong họ như sổ Hương ẩm của làng. Chỉ tộc phả là ít còn truyền lại nên con cháu không biết lối mà lập nên. Nay hầu hết các tộc đều thế cả.

 

DI TÍCH CŨ.(29)

 

       Ở xã ta, đền miếu, từ đường đều lợp mái rạ. Gặp nạn binh hoả Đinh Hợi (năm 1827), bị cháy hết. Nghe các cụ phụ lão kể lại thì sau khi diệt Ba Vành, chiêu an dân xã hồi hương, chỉ thấy còn Đền thôn Trung, Đền thôn Bắc, Từ đường họ Lê, vài ngôi nhà thôn Khẩu Trung (口中). Đồ thờ cúng thì chỉ còn lư hương Đền thôn Trung, kiệu long đình Đền thôn Bắc, ngai thờ họ Lê và khám thờ Đền thôn Trung.

Kiệu Thần thôn Trung cóđòn khiêng, khung vòm, thùng xe, chấn song…sơn son thiếp vàng, con tiện lan can dùng ngà voi chế ra. Truyện rằng, kiệu này do Trịnh Vương (Chúa Trịnh) đặt làm, nhưng không ưng ý, cứ để ở ngoài phủ. Thời ấy, xã ta có nhiều đô lực sĩ làm việc kéo xe vua, chúa trong cung, thấy vậy bèn họp nhau góp tiền xin mua lại, mang về cúng vào Đền Thần. Nhiều thợ giỏi đã bắt chước mẫu kiệu này để chế ra bộ khác mà phần nhiều là không giống.

       Chùa thờ Phật ba thôn đều có chính điện, tiền đường, hành lang, gác chuông. Gác chuông cũ chùa Cảnh Linh dựng 3 tầng, cao hơn 2 trượng, cột liền bằng gỗ tứ thiết. Cơn bão lớn năm Quý Mão thời Thành Thái (1903), gác chuông đổ, hư hỏng hết. Nay đổi xây lại bằng gạch.

      Rìa phía bắc xứ Cựu Cốt (舊骨) có chùa cổ. Trong chùa có một toà tượng đồng. Chùa này xưa là chùa chung của cả xã, long thần rất linh thiêng.

      Chùa Linh Quang (靈光寺) thôn Trung có giếng đá, bốn bề thành giếng quây xếp bằng cối đá. Nước trong giếng luôn lên lên xuống xuống. Có người nói đó là do xưa người Tàu chặn yểm mạch đất, chưa biết ra sao. Chỉ biết rằng, xưa chỗ này là bờ biển, nước mặn, nên phải đào giếng để lấy nước ngọt dùng vậy.

      Phía Tây xóm Khẩu Nhị (口二), ven bờ sông lớn, thời xưa mục đồng tắm sông gặp được một pho tượng đá, bèn đắp bệ đất để thờ. Thấy linh thiêng, người xóm bèn xây dựng Đền thờ. Năm binh hoả Đinh Hợi (1827), may mà còn được tượng là do đem bỏ vào hòm đưa đi cất giấu. Lại chế ra bài vị bằng đá để thờ cúng, cầu đảo rất là linh ứng. Nay Đền này đã được nhà nước sắc phong.

 

ĐẤT PHÚC. (29b)

 

Ba vị Tổ đầu họ Lê hợp táng chung một ngôi mộ ở xứ Đường Nhất.(thế đất“Bàn long, chuyển Càn Hợi, bát thủ thổ tinh điếu giác, minh đường thâm tụ, sơn thuỷ hoàn loan”.).Năm Tự Đức 25 - 1872, họp bàn xây dựng lăng mộ, không rõ phương hướng, muốn xem cụ thể, bèn đào mộ lên, thấy 3 cỗ tiểu, trái phải đều lùi hoặc tiến 6 tấc, gỗ còn như mới, tơ hồng đan kết phủ kín. Qua vài trăm năm chung đúc linh khí mà nên như vậy.

Mộ ông Phan Chính Tín ở xứ Đường Tam (thế đất “mạch tự Mão lai, Phụ Bật Văn Khúc, hành long đáo đầu, khởi huyệt tinh cao, đại bàng xuất nhất, chi đông kết viên phụ, tả biên kiếm bút, tiền diện ấn phù, đường thuỷ giao hội”). Họ Phan có nhiều ngôi mộ được đất tốt. Đây là 1.

Mộ Tổ chi họ Trần - Trần Phúc Minh ở xứ Đường Nhất (thế đất “Điểu Đô phụ chi nam, bàn long chuyển Nhâm, chuyển Hợi, nhập đầu bình dương, thuỳ đảm sơn chỉ thuỷ, giao hữu phát diệu, sa Càn Tốn Tỵ, bút ấn la liệt”). Con của ông là Đô Lai táng mộ tại xứ Sài Nội (“huyệt tinh như Khuê như Ấn”), hình thế đất rất đẹp. Chi họ này sinh ra lắm thân hào là do vậy.

Bá tước - Sử Đắc Bá - Trần Đăng (còn có tên là Đắc), là cháu 4 đời của Hầu tước - Khánh Lộc Hầu – Trần Phúc Thành, bình sinh luôn làm việc thiện, cả đời không mắng mỏ người, không sát sinh. Khi mất, mới khâm liệm quàn tại nhà. Ông có người em gái nhỏ, ngủ trong phòng riêng, hôm ấy trời đã sáng muộn mà chưa thấy dậy. Người nhà gõ cửa, thấy cửa khoá trái, đánh tiếng gọi hoài mà không thấy thưa, bèn phá vách vào, thì thấy cô vẫn còn đang ngủ say. Lát sau, cô tỉnh dậy, nói: “Tôi mơ, đi qua Nội Thái Bằng, gặp 2 ông Thần mặc áo xanh, đội mũ vàng, ngồi trên một chiếc thuyền nhỏ, gọi tôi lại, chỉ cho chỗ đất chôn, nói rõ phương hướng đầu đuôi, lại còn lấy rạ để đánh dấu đấy. Có thể qua đấy tìm, tôi vẫn còn nhớ nguyên.”. Rồi cô dẫn người nhà sang xứ Thái Bằng, lội qua ba lạch sâu thì đến một cái gò lớn, nói :”Chỗ các ông lão chỉ đấy !”. Mộ Trần Đăng chôn ở đó, nay xem xét kỹ thì thấy (thế đất “cán long lạc mạch, chuyển Mão nhi lai, chúng đê độc cao, chúng tiểu độc đại, huyệt thể huyền lăng, thản oa tượng mã củng triều, kỳ cổ la liệt, khê loan nhi thuỷ tụ. Tả biên hữu trường phụ, như ngư hình, kiếm hình, nãi thuỷ mộc lô tiên cách”), thực là đất tốt.

Cháu 5 đời của ông là Trần Soạn, mơ thấy mình đi vào xứ Thái Bằng, gặp một ông lão, trong túi có cái la bàn, trên mặt có 8 chữ đỏ, bày la bàn ra phía nam gò mà lẩm bẩm: “đất này “mộc nhập mộc – Mão long mộc tinh kết huyệt” – con cháu đỗ đạt nhiều, lại có phương Càn Hợi nổi cao, hậu duệ sống rất thọ”. Bèn di táng mộ Tổ bà họ Trần vào đó.

Một họ nhỏ, hai phen nhờ mộng mơ mà có được 2 huyệt đất kết phát, thực hiếm thay.

Mộ ông Trần Phúc Chính (bố của ông bá tước - Tuấn Đức Bá), táng tại xứ Sài Nội, mạch đất từ bến sông Hà Khẩu tới, qua ruộng xã Phú Nhai, đến đó thì liền nổi lên thành gò rồi lại gặp bến sông, kết thành huyệt đất đẹp “huyệt tinh như xuất hoa, Canh Dậu quý sa, Giáp Mão bút ứng, chúng thuỷ giao hội ư tiền”. Họ Trần phát văn, phát võ chính có nguyên do như vậy.

Mộ bà họ Vũ - Chính thất Tổ họ Nguyễn, chi bá tước Trạch Nghĩa Bá – táng tại xứ Đường Nhất, được thế đất “Phượng Chuỷ, Mão Long tả tuyền, chuyển Canh nhập nhĩ, toạ Càn hướng Tốn, đại phụ tàng hình, hình như thượng thuỷ ngư, thiền dực sa loan, hà tu thuỷ bão, thành cát cục dã”. Họ Nguyễn phát phú hào (giàu có) và phát võ thực đúng vậy.

Mộ Tổ chi họ Lê Phúc Thiện táng tại xứ Đường Nhất, cùng mạch huyệt sao với Tổ họ Nguyễn, họ Nguyễn ở gốc mà họ Lê ở cành, thế đất “toạ Tý hướng Ngọ kiêm Nhâm Bính ngoại đường tam kỳ, nội thuỷ nghênh chú.” Mộ Tổ bà táng tại gò lớn Đinh Long, gặp thế đất “kiềm huyệt toạ Dậu hướng Mão, hồ lô thuỷ nhiễu, hổ bão long tuyền”. Các đời sau táng thêm nhiều vào đó, nay khó nhận ra. Chi họ này nhiều đời phát hào phú là do vậy.

Mộ cụ tằng Tổ của ông Trần Thủ ở phía bắc Nội Thái Bằng, được huyệt đất “Cán long quải kết, huyệt tinh thuỳ châu, toạ Khôn hướng Cấn, bút ấn tiền liệt, nghênh thuỷ tụ đường, sở hiềm giả quỷ khứ sa phi, sở thị giả hồi long cục nhĩ.” Họ Trần không biết, lỡ cải táng, khi đào lên thấy gần quan tài khí bốc lên như mây mù, sợ hãi quá mà đắp điếm lại. Về sau có Khách Tàu xem cho bảo rằng: “Huyệt bị mở thoát mất khí tiết, làm cho việc phát phúc bị lùi chậm lại 30 năm”. Lúc đào đắp đó ông Trần Thủ mới 2 tuổi, đến khi 31 tuổi quả là ông thi đậu Cử nhân.

Mộ Tổ bà của Nhĩ Khê (Cử nhân Lê Văn Nhưng) táng tại xứ Đường Tam, đỗi 11, gặp huyệt “Tự Thái Bằng cán long lạc mạch, chuyển Bính Đinh nhập thủ ly hình, kiềm huyệt toạ Khôn hướng Cấn, tả thuỳ tú diệu, hữu ủng quý nhân, Tốn Cấn Đinh Tân, bút ứng minh đường, bình khoáng sơn thuỷ”. Thầy phong thuỷ địa lý thời trước đều nói rằng đất đó phát văn, tiếc là gặp phải kiểu “ rồng hổ răng nhọn dài quá cổ”, không được bền lâu.

 

VÕ CÔNG. (31b)

 

      Trần Bá Khoản là con trưởng của Sử Đắc Bá, sức khoẻ hơn người, tinh thông võ nghệ. Thời Lê Ý Tông, giặc cướp nổi lên như ong. Xứ Đông thì có Nguyễn Hữu Cầu (gọi là giặc Hiểu – He) chiếm cứ Đồ Sơn, Xứ Tây thì có Nguyễn Hữu Phương (gọi là giặc Quy) chiếm cứ Tam Đảo, Xứ Nam có Vũ Đình Dung (gọi là giặc Gia). Vũ Đình Dung người xã Ngân Già (銀笳) huyện Tây Chân (西真) (nay đổi là Gia Hoà (加禾) huyện Nam Trực (南直)). Đồ đảng của Dung hung hãn, dữ tợn, quan quân triều đình không sao đánh dẹp được. Cảnh Hưng năm đầu thời vua Lê Ý Tông, chúa Trịnh Doanh thân đốc binh đánh dẹp. Đi đến Vị Hoàng, Chúa cho chiêu mộ nghĩa dũng tham gia quân tiễu phạt, Trần Bá Khoản tòng quân, có công lớn, được phong đến chức Đô chỉ huy, đồng tri cai Hãn Tả Hùng Hữu Đằng Trung Tiệp, sau được phong Cơ Đội Thuyền Tráng Tiết Tướng Quân Khoản Trung Hầu. Đó là hàm võ quan tứ phẩm triều nhà Lê, như chức chỉ huy bốn đội thuỷ binh vậy. Truyền rằng, Ông rất giỏi dụng đao, đao của ông to bản như tàu lá chuối, cán lưỡi liền nhau, đều dùng thép luyện đúc thành, mỗi khi đi ra phải hai người khiêng mang theo. Sau ông nghỉ hưu về quê, gia tư rất giàu có. Có câu “Thứ nhất Chiêm Kỳ, thứ Nhì Hãn Tả” là để nói về những người cực giàu có lúc bấy giờ. Cuối thời Lê, kho phủ trống rỗng, phải đi quyên góp dân các xã, xã Trà Lũ phải đóng góp 3.000 quan, Ông bỏ tiền nhà ra nộp giúp dân. Dân xã cảm cái ơn đức ấy, sau giành ruộng để giỗ kỵ ông. Đến nay thôn Trung vẫn thờ cúng Ông. Con trai ông là Trần Đình Trạc làm Tham Đốc Vũ Huân Tướng Quân Trọng Nghĩa Hầu, cháu ông là Trần Đình Lãm được phong Đô chỉ huy sứ, chắt là Trần Nhuệ làm Cai Tổng. Chút Trần Tốn Chí, Trần Khắc Khuyến đều đỗ Tú tài.

      Thiện Tiểu Hầu Trần Trọng Khoát là con thứ của Sử Đắc Bá, cũng theo binh nghiệp. Con cháu Thiện Tiểu Hầu sống ở Xóm Đoài Dũng, xây dựng từ đường riêng, cháu 4 đời Trần Công làm Xã trưởng, (nay là Lý trưởng), hơn hai chục năm. Nay Nhị trường Trần Quang Xán, Trần Viết Khánh đều là cháu 7 đời.

      Trần Tuấn là hậu duệ của Trần Chính Giác, sống ở xóm Nam Long. Lúc đầu làm Tổng trưởng, thanh liêm mẫn cán nổi tiếng, sau tham gia tiễu phỉ (gọi là giặc BƯỚM) được phong Hoài Viễn Tướng Quân, Tuấn Đức Bá. Rồi lại được phong Trung Nghĩa Hầu, kiêm quản Lục Hoành Tổng Binh. Con trai lớn tên là Hổ được kế nhiệm Tổng trưởng, khi có người em nuôi(?) tên Văn theo giặc Vành, dẫn giặc về làng, ông dẫn trai tráng trong làng phá cầu chặn giặc, giặc ở bên kia sông bắn sang, ông ưỡn ngực thách chúng bắn, cuối cùng giặc không dám bắn mà bình tĩnh nói rõ sự tình. Việc yên, quan phủ giao văn bằng cho ông về quê chiêu an và vẫn được giữ nguyên chức. Con trai Trần Hiệu làm Hương trưởng. Các cháu Trần Bính, Trần Văn Độ đều trúng Tú tài.

      Nguyễn Chính Tín – Trạch Nghĩa Bá là Lực sĩ hầu cận triều nhà Lê. Ông sinh ba người con trai: Con trưởng là Nguyễn Dạng Lộc, con thứ là Di Hoàng Bá, con út là Hoa Dung Bá. Con trưởng của Hoa Dung Bá làm Suất đội thiên hộ, con thứ là Lệ Vũ Bá Đội trưởng, con út là Bồi Thọ Bá Đội trưởng thiên hộ. Con trưởng của Di Hoàng Bá là Nguyễn Đình Đán cũng làm Hiển Thọ Bá Thiên hộ. Con trưởng của Nguyễn Dạng Lộc tên tự là Khiêm Nhượng làm Đội trưởng Trung Dũng quân doanh (dạng đặc biệt tinh nhuệ ngày nay – Đ.H.T). Con trai thứ 6 Nguyễn Tuỳ (Tạo) Rằm tháng Giêng năm Bính Tuất được phong Tả Khuông cơ thiên hộ. Tạo Vũ Bá (Nguyễn Tạo = Nguyễn Tuỳ) sức khoẻ hơn người, khi cải táng mộ ông, thấy xương sống ông các đốt dính liền nhau, dựng lên đứng như cây cột. Con trai thứ 7 – Nguyễn Luận (cũng có tên là Nhuệ) – làm Đội trưởng thiêm Tổng tri quan hầu che DÙ. Nhuệ Vũ Bá (Nguyễn Nhuệ - Nguyễn Luận) ở ngôi Tiên chỉ thôn Bắc hơn hai chục năm, thọ 84 tuổi (Sinh năm Canh Dần thời Hậu Lê - 1710, mất năm Quý Sửu thời Tây Sơn - 1793). Con trưởng của Tạo Vũ Bá – Nguyễn Tạo là Nguyễn Trọng Siêu làm Phó Trung uý. Con thứ của Khâm Vũ Bá là Nguyễn Hữu Triêm làm Đội trưởng. Chắt của Triêm Vũ Bá – Nguyễn Hữu Triêm là Nguyễn Bỉnh làm Đội trưởng, hàm Thất phẩm. Con trai trưởng của Nhuệ Vũ Bá (Nguyễn Nhuệ - Nguyễn Luận) tên là Nguyễn Liễn làm Tổng tri, con trai thứ tên Nguyễn Dực làm Thiên hộ, con út là Nguyễn Đồng làm Trương huyện, được đề cử lĩnh ngôi Tiên chỉ thôn, cháu Nguyễn Huy Nhật làm Chánh Tổng trưởng, Nguyễn Huy Hoàng làm Hương trưởng. Đến nay chi họ này còn phát võ với nhiều suất đội, quản cơ.

      Đỗ Hào (杜豪) giỏi nghề sông nước, can đảm dũng cảm. Thường ngồi trên thuyền quân, thuyền ra cách xa bờ hơn trượng, có thể đặt cây sào tre làm cầu, nhún mình nhảy phắt lên bờ. Gia Long năm đầu (1802), ông tòng quân, được phong làm Phó Đội Hào Kiệt Hầu (trong sắc Vua ban có các chữ “nghi bính hướng minh ân thôi lục dụng = 儀炳向明恩推錄用, tạm dịch là “mai sau sẽ trọng dụng”), giao cho đóng quân đồn trú ở Đồn Liêu Đông (遼東) trong huyện (nay là thôn Liêu Đông – Xã Xuân Tân – Huyện Xuân Trường – Đ.H.T). Thời kỳ đó, ven biển Nam Định - Thái Bình giặc cướp rất nhiều, Tổng trấn Đạo Sơn Nam là Lê Mậu Cúc (黎茂菊) thống lĩnh thuỷ quân tiễu phạt, lấy Đỗ Hào làm tiền quân tiên phong. Giặc cướp (chính là quân Phan Bá Vành) ẩn phục trong bãi lau sậy rậm rạp, đợi cho thuyền đạo quân tiên phong của Đỗ Hào đi qua, toàn bộ quân chủ lực của Thống chế Cúc đi vào giữa đầm lầy, mới bơi thuyền nhỏ vây chặt bốn mặt mà đánh chém. Lê Mậu Cúc bị giết, người nhà Lê Mậu Cúc tố Đỗ Hào thông đồng với giặc. Trong đám quân giặc lại có những kẻ trước đó đã từng bị Đỗ Hào bắt giam, nay oán hận mà làm chứng gian vu tội cho ông. Thành thử, Thành Hà Nội xét án và kết tội chém ông ngay lập tức. Đến khi có chiếu chỉ của triều đình ngưng án để phúc tra thì không còn kịp nữa. Giấy tờ, văn bằng của Đỗ Hào cũng không bị thu. Các cụ già làng đều nói rằng: Nếu Đỗ Hào không bị cái hoạ giặc Vành, thì đường công danh của ông không biết còn đi xa đến đâu nữa. Nhà ông trước ở thôn Khẩu Nhị (口二), con cháu lập từ đường thờ ông trên nền nhà cũ. Đỗ Khản, Đỗ Chính, Đỗ Trực đều là chắt của Ông.

 

       THI CỬ ĐỖ ĐẠT. (33b)

 

      Họ Phan là họ sang. Thời Lê có Phan Chính Tín phát khoa đỗ tứ trường (tức Hương cống – Cử nhân). Cháu 3 đời của ông là Phan Đình Tuấn cũng đỗ Cử nhân, được phong tước Tả hiệu uý An Sơn hầu. Thời Tây Sơn Quang Trung, ông Phan Đăng Đệ (còn có tên là Hương) đỗ thủ khoa, làm Tri phủ Thiên Phú (nay là Phú Xuyên). Thời Tự Đức có ông Phan Viết Cân khai khoa thi võ. Ông vốn tên là Hân (), vào thi Hội trúng cách (đỗ), khi báo tên ghi chữ bị thiếu nét, nhà vua bèn tặng cho tên là Cân (). Ông trúng Phó Bảng võ.

      Ông Đỗ Hinh, nhà ở xóm Hà Khẩu, đỗ Cử nhân thời Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786). Thường ngồi xem chỉ thấy khi ký giấy tờ ông hay đề hai chữ “Giám sinh” - “Đỗ Vũ Hinh” mà không biết ông làm chức quan gì.

      Xã ta đỗ đạt nhiều nhất là người họ Trần. Dưới triều Nguyễn, đỗ đạt đầu tiên là ông Trần Điều (còn có tên là Đức) đỗ Cử nhân khoa Quý Dậu thời Gia Long (1813), làm Tri huyện huyện Việt Yên (Bắc Giang). Ông anh trai tên là Đường cũng trúng Sinh Đồ, sinh hai con trai về sau tuyệt tự.

      Ông Trần Thưởng là hậu duệ của Trần Phúc Huệ, nhà ở xóm Đông Nhuệ (), ba lần đỗ Tú tài vào các khoa thi thời Gia Long, Minh Mạng (1802 - 1840), sau làm quan đến chức Giáo thụ, thường thấy giấy tờ ông để lại viết chữ rất đẹp. Con ông là Trần Hinh 21 tuổi trúng Tú tài khoa thi Nhâm Dần (1842) thời Thiệu Trị (1841 - 1847).

      Ông Trần Nghị là hậu duệ ông Trần Chính Giác, nhà ở xóm Đông Nhuệ (), trúng Tú tài khoa thi Canh Thìn (1820) thời Minh Mệnh (1820 – 1840).

      Ông Trần Nguyên (còn có tên là Nghiễm) là hậu duệ ông Trần Phúc Minh, trúng Sinh đồ (tức là Tú tài) thời Minh Mệnh (1820 – 1840), làm quan Tri huyện Vĩnh Tuy (永綏) và mất ở đó.

      Ông Trần Bính là chắt của Trung Nghĩa Hầu, trúng Tú tài khoa thi Tân Dậu (1861) thời Tự Đức (1848 – 1883).

      Ông Trần Ngọc Liên tên chữ là Chu Ái (周愛), hiệu là Tịnh Khê Tử (浄溪子); là hậu duệ của ông Trần Phúc Minh, nhà ở xóm Đoài Dũng (兌勇), ba lần trúng Tú tài thời Tự Đức (1848 - 1883), trúng Cử nhân khoa Giáp Thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc (Vua Hàm Nghi), không ra làm quan. Ông học tập nghiên cứu sâu sắc, làm văn giản dị, dễ hiểu. Anh cả, anh thứ của ông di cư sang huyện Kim Sơn, mình ông ở lại nhà cũ đọc sách, dạy học. Học trò của ông nhiều người thành đạt. Ông mất lấy con nuôi là Trần Mại lập tự. Con nuôi tên Trần Tố cũng trúng Tú tài.(hiện sống ở ấp Lưu Hương, huyện Kim Sơn).

      Trần Tốn, trước ghi là con cả của ông Văn Cung Cư Sĩ Trần Soạn, là chắt của Tráng Tiết Tướng Quân, trúng Tú tài khoa thi Mậu Thìn (1868) thời Tự Đức (1848 - 1883). Em trai là Trần Khắc Khuyến trúng Tú tài khoa Giáp Thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc (Vua Hàm Nghi) và khoa Mậu Tuất (1888) niên hiệu Đồng Khánh, ngồi ngôi Tiên chỉ thôn Trung.

      Trần Văn Độ là con trưởng của Trần Quyền, con nuôi của Tú tài Trần Bính. Cả ba khoa Đinh Dậu (1897), Quý Mão (1903), Bính Ngọ (1906) thời Thành Thái, đi thi đều trúng Tú tài.

      Ông Trần Lộc, là hậu duệ của ông Trần Chính Giác, trúng Cử nhân Võ khoa thi Canh Ngọ (1870) thời Tự Đức.

      Ông Trần Tảo (còn có tên là Dũng), nguyên là con cháu họ Trần thôn Trung, chuyển cư ra Nam Điền (南田), trúng Cử nhân khoa thi Giáp Ngọ (1894) thời Thành Thái.

      Ông Phạm Đại (còn có tên là Ngạn, đổi tên do phạm quốc huý), mới đầu trúng Tú tài, đến khoa thi Nhâm Dần (1842) thời Thiệu Trị trúng Cử nhân, làm quan Đồng Tri phủ Vĩnh Tường (永翔). Ông làm quan thanh liêm, giản dị, không tơ hào một chút gì của dân. Có lần, một người dân trong xã mang đến biếu ông một thúng gạo tám thơm, ông từ chối mời về, bà vợ gọi ông vào trong nhà, khẽ nói: nhà hết gạo rồi, ông mới gọi người ấy quay lại, xin nhận mấy bơ. Trời rét, ông trải ổ rơm ngồi làm việc, sau ông mất khi đương việc quan. Ông rất hay thơ, thuật sơ vài câu:

      Bài “Bố y khởi binh - 布衣起兵, câu thứ 5, thứ 6 :

       Nhị Thế hữu phù phong chỉ đạo.

       Trọng Đồng vô cẩm y Giang Đông

二世有符封軹道

重瞳無錦衣江東

      Bài “Tần cung phụ nữ - 秦宮婦女 câu 3, câu 4:

Ngũ lâu thập các phồn hoa địa

Bá mị thiên kiều phấn đại thân

五楼十閣繁花地

百媚千嬌粉黛身

      Bài “Thí trung ngô đồng nguyệt - 試中梧桐月:

Quỷ phách tà xuyên khuê diệp lãng

Phượng chi ám dữ quế hoè huân

鬼魄斜穿圭葉朗

鳳枝暗與桂槐薫

      Xét thế phả, tiền nhân của ông là từ quê của Tiến sĩ Phạm Nghị (范誼), đến sống ở thôn Trung 2 đời mới sinh ra ông. Nay con cháu cũng theo đến ở trong làng cả. Người họ Phạm đỗ đạt ngày trước có ông, nay có Phạm Đức Uy trúng Tú tài khoa Đinh Dậu (1897) thời Thành Thái.

       Họ Bùi thôn Bắc trước chưa có người đỗ đạt. Gần đây, có Bùi Phái trúng Tú tài khoa thi Tân Dậu (1861) thời Tự Đức, Bùi Tiền trúng Cử nhân võ khoa thi Giáp Tuất (1874) thời Tự Đức, làm quan đến chức Suất đội.

       Họ Lê thời trước cũng chưa có người đỗ đạt. Từ thời Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786), năm Tân Mão (1771) có ông Lê Phi Hiển đỗ Sinh đồ, mãi đến năm Nhâm Tý (1876) thời Tự Đức (tức là hơn 100 năm sau) mới có Lê Văn Nhưng đỗ Cử nhân. Người đỗ đạt đầu tiên của họ Lê là Lê Phi Hiển, hiệu Giai Mô tiên sinh, nhà ở khu Đông Biên (東邊), con cháu phồn thịnh, mới qua 4 đời mà đã có 68 đinh; Bá hộ Lê Văn, Phó lý Lê Sĩ Ngạc đều là chắt.

    Trần Trác, tên chữ là Hán Chương, là con của Bát phẩm thư lại Trần Thuận. Trước khi sinh ông, cụ Bát phẩm Trần Thuận ngủ mơ thấy một anh học trò xưng tên là “Thường Sơn Cư Sĩ” (常山居士) đến xin thuê nhà ở để đọc sách, nên khi sinh ra ông đã đặt tên là Thường (), về sau mới đổi tên là Trác (). Trần Trác đỗ Cử nhân khoa Bính Tuất (丙戌), thời Đồng Khánh (同慶), làm quan thanh liêm, được thăng đến chức Tri phủ Ứng Hoà (應和). Tôi và ông Trần Trác là người cùng xóm, cùng sinh năm Bính Thìn (1856), tôi thì đỗ khoa Bính Tý (1876), ông thì 10 năm sau, đỗ khoa Bính Tuất (1886), khi ông thi đỗ, tôi có làm tặng ông đôi câu đối như sau:

亦奇哉中之陳北之陳同邑連科陳氏譜

私喜者我於丙君於丙十年两解丙辰人

Diệc kỳ tai, Trung chi Trần, Bắc chi Trần, đồng ấp liên khoa Trần thị phả

Tư hỷ giả, ngã ư Bính, quân ư Bính, thập niên lưỡng giải Bính Thìn nhân.

       Ý nghĩa:

       Lạ nhỉ! họ Trần thôn Trung, họ Trần thôn Bắc, cùng làng người họ Trần đỗ liền hai khoa.

       Vui thay! Tôi đỗ năm Bính Tý, ông đỗ năm Bính Tuất, hai người tuổi Bính Thìn đỗ cách nhau mười năm.

       (Khoa thi năm Giáp Thân (1884) ông Trần Liên – chi họ Trần thôn Trung trúng Cử nhân, liền ngay sau đó, khoa thi năm Bính Tuất (1886) ông Trần Trác – chi họ Trần thôn Bắc đỗ Cử nhân).

      Khi ông Trần Trác mất, tôi có làm đối viếng ông như sau:

   鄉鄰風誼孤苦少相符科甲有緣題两丙

出處殊途死生今永訣主賓無暇敘同庚

Hương lân phong nghị, cô khổ thiếu tương phù, khoa giáp hữu duyên đề lưỡng Bính.

Xuất xử thù đồ, tử sinh kim vĩnh quyết, chủ tân vô hạ tự đồng Canh.

      Ý nghĩa:

      Tôi với ông cùng quê, lại cùng mồ côi từ nhỏ, duyên phận xui nên hai chúng ta cùng đỗ đạt.

      Ông ra làm quan, tôi ẩn dật, ông mất, tôi còn sống, từ nay âm dương đôi ngả, cùng một tuổi Bính Thìn chẳng ai thanh nhàn cả.

      (Ông Trần Trác và tôi đều mồ côi sớm).

      Xét theo gia phả, Trần Trác là thế hệ thứ 8 của họ Trần ở đất Trà Lũ Bắc. Sau khi đỗ đạt, làm quan, ông xuất tiền bổng lộc ra tu bổ từ đường, mua sắm đồ tế khí, góp phần tạo gây thanh thế lớn cả về nhân tài vật lực của chi Tộc Trần Trà Lũ Bắc, để có thể hàng 3 năm rước Tổ ra Đình tham gia Hội làng như các Tộc khác.

      Con cả của Trần Trác tên là Trần Mạnh Nguyên thi đậu ấm sinh. Con thứ 3 là Trần Thúc Nhuận đỗ Tú tài tân học. Học hành của con cháu ông còn phát đạt.

      Theo phả các tộc, thời Lê khi đi thi vào đến vòng 3, vòng 4 thì được gọi là sinh đồ. Những năm thời Lê trung hưng còn có quy định thí sinh nộp 3 quan tiền là có thể vào vòng 4, nên có nhiều sinh đồ là do nộp tiền mà có tên đỗ đạt vậy.

 

NHỮNG CON NGƯỜI HÀO HIỆP.(35b)

 

       Ông Phan Triều Thắng, tên tự là Như Trụ, làm Tổng trưởng, có tiếng tử tế. Thời ấy đinh điền xã ta lộn xộn, thuế má thiên vị bên nặng bên nhẹ, ông lấy lý lẽ phân chia có lý có tình, làm cho những kẻ điêu hoạt cay cú. Chúng bí mật tụ họp, bàn mưu rủ ông tới họp rồi sát hại ông. Có người đánh cá đêm đó gặp mưa, trú ở sau vách nhà, nghe được mưu ấy, bèn báo cho ông biết, ông không tới họp nên âm mưu của chúng không thực hiện được. Rồi việc phân bổ thuế má cũng thành: toàn xã chia làm 5 phần: thôn Trung 2 phần, thôn Bắc 2 phần, thôn Đông 1 phần. Đến thời Cảnh Hưng mới bắt đầu chia thành 7 phần: thôn Trung và thôn Bắc 6 phần, thôn Đông 1 phần; riêng tạp dịch thì vẫn chia thành 5 phần như cũ.Về sau, khi ông mất, người trong họ dựng từ đường để thờ cúng có thờ người đánh cá ở bên cạnh theo đúng lời dặn dò của ông trước khi mất. Dân thôn Đông nhớ ơn đức của ông vẫn giữ lệ cúng giỗ đều đặn. Khoảng năm cuối thời Tự Đức, trước nhà thờ ông có cây cau già nảy ra 2 ngọn, rồi sau đó nhà thờ bị cháy, âu cũng là điềm báo xấu vậy. Chắt ông là Phan Tế làm Chưởng huyện cũng theo nết nhà xin giảm thuế má cho dân, nên thôn Đông vẫn nhớ ơn, giành ruộng để cúng giỗ.

       Ông Lê Đình Chuẩn, là cháu thứ của ông Lê Phúc Thiện. Do làm ăn buôn bán mà giàu có, thường làm việc thiện, cứu tế chẩn bần cho những người nghèo khó. Có lần một băng cướp hơn trăm tên đến làng cướp bóc, bắt dân chúng cống nộp tiền, thóc, ông lấy của nhà ra nộp giúp dân. Dân ơn cái đức ấy, suy cử ông là hương hậu. Con trai ông tên là Năng, thường gọi là Bách Năng cũng nối được nghiệp ông. Con thứ ba của ông Bách Năng tên là Ba, làm Cai Tổng, sinh 7 con trai, 2 con gái. Con trai trưởng tên là Uyên tự Như Lâm, làm Phó Cai Tổng, sau bổ làm Cai Tổng, ngồi ngôi Tiên chỉ thôn Bắc 30 năm. Ông giàu có, giao thiệp rộng rãi. Thời Tự Đức, gặp năm mất mùa, ông bỏ của nhà ra để cứu tế chẩn bần. Quan tỉnh biết việc, kê tấu triều đình, Vua Tự Đức ban cho 4 chữ “MỸ TỤC KHẢ PHONG”, làm bảng treo ở Đình làng. Ngày ông mất, các bậc quan lại, khoa bảng, quyền quý trong vùng hầu hết đều có đối viếng.

Các em: Lê Văn Định, Lê Văn Đĩnh, Lê Văn Thuỳ, các con: Lê Văn Hoan, Lê Văn Oánh, Lê Văn Hoà, các cháu (chú, bác): Lê Hữu Chương, Lê Văn Đàn, các cháu: Lê Văn Thuần, Lê Trọng Nhự, Lê Văn Dụng đều làm Chánh phó Tổng, Tổng tuần. Lê Văn Oánh được thưởng Cửu phẩm Văn Giai kiêm Huyện giám, Lê Văn Thuần được thưởng Tòng Cửu phẩm Văn Giai kiêm làm Dân viện nghị viên, đều nối tiếp nhau làm hương biểu. Cháu thứ Lê Văn Trạc được thưởng hàm Cửu phẩm. Con, cháu luôn có tên trong danh sách Lý trưởng, Phó lý. Thực là một thế gia vọng tộc trong làng vậy.

 

       SỨC KHOẺ. (36b)

 

      Đấu vật là kỹ xáo ôm bốc, trì níu, quăng ném…đối thủ. Triều Lê lấy đấu vật để tuyển chọn lực sĩ. Lực sĩ đeo bao đới (tục gọi là “khố”) vẽ rồng uy nghi, người người nhìn không dám thi đấu. Món này xã ta khét tiếng Bắc Kỳ, các thời trước có nhiều lực sĩ.

      Xưa kể, có ông Trần Hỗ, là con trai thứ của Tuấn Đức Bá, tính tình hào sảng, thường ngồi thuyền, mang theo ca kỹ, ngao du khắp nơi. Lúc ấy, ở một xã của tỉnh Bắc Ninh có mở hội một tháng. Người trong xã rất thích đấu vật, bất kể giàu nghèo đều có gom góp tài vật để xã làm giải thưởng. Giải thưởng có giải Nhất, giải Nhì, giải Ba. Lúc trước đó đã có đại lực sĩ, tên Cấp luôn giành giữ giải Nhất. Cấp là người phong lưu, ngồi một mình trên giường cao, có vợ, thiếp hầu hạ. Người bốn phương đến thi đấu, trước hết Cấp cho đàn em ra vật, nếu không thắng nổi thì Cấp mới tự mình ra tay. Hôm ấy đã là ngày cuối của Hội. Ông nghe tin, đậu thuyền, một mình đến Hội, xin xã cho vào tranh giải Nhất. Người trong xã trọng thị, mời ông ngồi đối diện với đô Cấp. Đô Cấp bắt một con rận, đặt lên bàn, lấy móng tay dí chết. Ông thấy lá rụng đầy chiếu, khẽ hé môi thổi bay tung đám lá. Hàm ý phô trương khí lực mạnh mẽ, đấu võ với nhau. Đô Cấp cử đồ đệ ra đấu, Ông không đồng ý, nhưng người xem trong hội hò hét ép buộc, ông đành phải đấu. Nhàn nhã thong dong như mãnh hổ vờn chó, trong nháy mắt ông bốc quẳng đối thủ ra ngoài sới. Đô Cấp giận lắm, giật phăng đứt tung cái áo trăm khuy, huơ tay sừng sộ. Người xã nói: Hãy khoan ! Xã chúng tôi tổ chức lễ hội vui, mà hai ông đấu vật trong nỗi điên giận như vậy, lỡ có mệnh hệ nào, ai là người chịu tội ? Hay là, trước hãy lập tờ giấy cam đoan giao kết rồi hãy đấu. Ông nói: Hắn có người nhà, còn tôi chỉ có mỗi thân này, nếu chẳng may thi đấu mà hắn chết, lấy ai là người bảo vệ cho tôi? Người xã nói: Anh em trong xã chúng tôi quyết sẽ bảo vệ ông, có được không!? Ông nói: Vậy được! Hãy lập biên bản cam đoan, giao kết, ký xác nhận! Xong, hai người định thần, vào sới. Một bên Đông, một bên Tây. Đầu tiên là múa ra ràng, vỗ mông, chống nạnh. Rồi ra các miếng võ như cú đứng, ưng nhìn, trâu húc, ngựa lồng, tóm tay, ngoặc chân, thoắt buông, thoắt bắt. Lâu lắm, đô Cấp tự lượng thấy mình khó thắng, nhìn thấy ven sới có cây mộc miên (cây gạo), Cấp nằm rạp ra đất để cho Ông ôm, lê lết dần ra phía đó, dẫn Ông theo. Đến gần cây mộc miên, Cấp làm ra thế phủ phục, hai tay níu chặt lấy gốc rễ cây, mượn sức bám chắc của cây vào đất mà ngăn ông bốc ném mình khỏi sới. Ông thử ôm Cấp, lay chuyển vài lần thấy khó, rồi bỗng Ông gầm to lên một tiếng, nắm khố (đới căn) lôi thốc Cấp lên khỏi mặt đất, kéo theo cả gốc rễ cây mộc miên, đem quẳng ra ngoài sới vật, thắng !. Đô Cấp hận Ông lắm, dự mưu phục binh để giết Ông. Người trong xã biết vậy, báo tin cho ông hay. Ông nói: Tôi đây có thể thắng hắn, vậy có thể sợ hắn sao? Xin làng hãy cho tôi một đoạn cây cau già để làm vũ khí và cho người khiêng giải của tôi ra thuyền, sẽ không có quan ngại gì cả. Người xã đáp ứng, cho phu khiêng vác giải đi trước, Ông vác gậy đi sau. Phục binh thấy vậy, bỏ, không dám làm gì nữa.

      Bố tôi kể: Lúc trẻ, thường thấy Ông chở thuyền lớn (thuyền bụng to chuyên chở cát) ngoài sông, bến huyện Nam Xương. Có lần gặp một chiếc thuyền chở khách bị mắc cạn (khê), thuỷ thủ và hành khách đi thuyền hơn ba chục người mà không làm cho thuyền khỏi mắc cạn được. Gặp, Ông nói: để tôi giúp một tay!  Mọi người cứ giả vờ như lay đẩy thuyền nhưng không hề dùng sức, để xem xem ông làm thế nào!? Ông ghé vai vào mạn thuyền, thoắt cái, vác đẩy cả thuyền ra khỏi chỗ mắc cạn. Thế mới biết sức của Ông hơn cả sức của hàng chục người khác !

      Trần Đình Ngạn giữ chức Thị nội vệ Tráng Tiết Tướng Quân Chỉ huy phó sứ, là người tài ba, lại giỏi đấu vật.Thời Gia Long, có người Tàu đến trấn Sơn Nam. Người này vật rất giỏi, võ nghệ tuyệt luân. Quan trấn thủ hỏi khách: có thích đấu vật không? Khách đáp: Tôi rất thích, dám cá là sẽ vật thắng tất cả mọi người Tàu cũng như Việt Nam! Quan trấn thủ đem chuyện này giao cho Đình Ngạn, nói: cố giữ lấy thể diện cho ta ! và mỉm cười. Đình Ngạn xin ba ngày sau sẽ phân thắng phụ. Khách Tàu nhận lời. Đình Ngạn kiếm tìm thêm 2 lực sĩ để phối hợp cùng mình lần lượt đấu với khách. Ngày thứ nhất, một lực sĩ giao đấu chỉ chuyên đánh vào tay phải của khách. Ngày thứ hai, một lực sĩ giao đấu chỉ chuyên đánh vào tay trái của khách. (Qua hai ngày, hai tay khách đã mỏi nhừ, vô lực). Đến ngày thứ ba, Đình Ngạn giao đấu, thừa thế bốc cẳng quật ngã đối thủ. Quan trấn thủ vui mừng, bèn thưởng cho ông rất hậu.

       Phan Mã, Phan Tượng là hai anh em. Phan Tượng vốn tên là Ba, nhưng thấy người to lớn, khoẻ mạnh nên mọi người gọi là Phan Tượng. Tham gia giải vật, Tượng nhường anh là Phan Mã giữ giải nhất, còn từ giải nhì trở xuống đến các giải phụ thì Tượng giành hết (vơ tất). Về sau có bọn người độc ác đầu độc chết hai anh em.

      Vũ Trân rất khoẻ. Đứng trông như trái núi, ngồi xổm trông như con hổ. Thường hai vai kiệu 4 người mà đi. Vật rất giỏi. Người ta nghe danh thường chẳng dám giao đấu. Vũ Trân thường chiếm giải Nhất trong các hội vật. Thời Tự Đức, tỉnh Nam Định có viên Thống Chế tên Nhật, một bữa có thể ăn hết 2 mâm xôi, thịt, múa thương thì không có đối  thủ. Quan tỉnh hỏi Thống Chế: Đại nhân có thích đấu vật không? Thống Chế đáp: OK! Quá thích! Quan tỉnh bèn cho gọi Vũ Trân đến công đường và lệnh cho Vũ Trân đấu vật với Thống Chế. Sau vài hiệp, Vũ Trân nhấc bổng Thống Chế lên, đưa vào đặt trong bể nước trước công đường, như “bế đứa trẻ khẽ đặt vào trong nôi”, rồi chắp tay, cúi đầu vái Thống Chế đang ngồi nghệt ra như Phật Di Lặc trong bể.

      Cháu xa họ Phan có người tên là Phan Khánh. Ông tòng quân làm đến chức Đội trưởng, sau mãn hạn hồi hương. Năm Đinh Hợi, biến giặc Vành, ông bị ép buộc theo. Lâm trận, quân triều đình đưa voi xung trận, quân giặc Vành khiếp hãi bỏ chạy hết, chỉ còn mình ông múa song kiếm lăn xả vào đầu voi mà chém, voi chiến co vòi tháo chạy. Giặc chuyển bại thành thắng.

 

TRÍ THỨC ẨN DẬT – XỬ SĨ (NGƯỜI CÓ HỌC THỨC KHÔNG RA LÀM QUAN) (38b)

 

      Ông Vũ Đình Gia, nhà ở xóm Cựu Cốt Hậu, nhận dạy rất nhiều học trò. Lễ kỳ phước của thôn Bắc sớ trạng đều do ông soạn và được ông Nguyễn Lý nhuận sắc, bổ sung.

      Ông Trần Quốc Quân, văn chương uẩn súc, ngang ngửa với ông Phan Đăng Đệ. Ông Phan Đăng Đệ trúng Giải nguyên thời Quang Trung mà ông Quân không chịu đi thi. Gia Long năm thứ 2, thứ ba, (1803, 1804) ông Quân đều đỗ khảo hạch thường niên. Đến năm Đinh Mão (1807) mở khoa thi chính thức thì ông đã mất. Khi ông mất, mới có ngoài ba mươi tuổi, ai nấy đều tiếc cho tài học của ông.

      Ông Trần Quốc Bảo là chú họ của Cử nhân Trần Ngọc Liên. Rất giỏi thơ văn. Mọi người xem Ông là một trong “Giao Thuỷ tứ kiệt” (4 người tài giỏi của huyện Giao Thuỷ).

- Về “Người anh hùng kiêu dũng”, có thơ:

Tây nhập tam phân Tần vũ trụ

Đông lai bách bại Hán quân thần.

- Về “Kính Đức giỏi múa giáo”, có thơ:

Tu Du tam đoạt kinh Nguyên Cát

Thương tốt trùng vi xuất nhị lang.

- Về “Phụ nữ cung nhà Tần”, có thơ:

Hàng vương không lệ xa trung tổ

Du tử khinh phao bích thượng tần.

       Dụng ý rất sâu !

      Ông Lưu Duy Hiền, người xóm Bắc Hà. Trúng Nhị trường khoa thi Gia Long, Quý Dậu (1813). Ông viết phả Lưu tộc, có nói đại lược về việc lập làng và các nhân vật xã ta.

      Ông Trần Quốc Nghi và Ông Lưu Đức Hồng ở xóm Đông Biên, ngõ Trung Cát. Lưu Đức Hồng dạy học. Trần Quốc Nghị đọc sách, đốt hương thay đèn, mi mắt đỏ loét ra. Về già thi cử không đỗ đạt gì đã mất.

      Tiên sinh Bùi Thiện, em Tú tài Bùi Phái, là thầy dạy học ban đầu của Lê Văn Nhưng. Ông đi thi đỗ Minh Kinh mấy lần, đến Khoa thi Bính Tý (1876 - năm Lê Văn Nhưng đỗ Cử nhân), vào kỳ tam trường thì mất. Cùng thời lứa với ông có Trần Mạo (anh của Tú tài Trần Công Nghị), Trần Bát, Đỗ Lân, Phạm Tranh đều đỗ Nhị trường, có tổ chức khao vọng.

      Ông Nguyễn Huyên, hay chữ mà lại rất giỏi xem số Tử Vi. Khi tôi 16, 17 tuổi, Ông có xem văn và kỳ vọng tôi đỗ cao. Khi ông mất, tôi làm viếng đôi câu đối:

魂其知其無知除却贅疣歸混沌

士有幸有不幸惟餘副眼感交遊

Hồn kì tri, kì vô tri, trừ khước chuế vưu quy hỗn độn,

Sĩ hữu hạnh, hữu bất hạnh, duy dư phó nhãn cảm giao du.

      (Câu đối này có người dịch là:

     Hồn biết hay không biết, bỏ đa sự về chốn hư không.

Trò may lại chẳng may, còn cặp mắt cảm tình qua lại”.)

      Các con Nguyễn Xuân Thành, Nguyễn Quang Chiến cũng chăm chỉ học hành, thi đỗ Nhị trường, cũng hận là không thoả được chí cha.

      Lê Hữu Huấn, Đỗ Văn Định đều là bạn vong niên của tôi, Lê Hữu Huấn chăm chỉ đọc sách suốt ngày, tay không rời bút. Đỗ Văn Định văn đơn giản mà khoáng đạt. Hai ông đều đỗ Nhị trường và dậy rất nhiều học trò. Đỗ Văn Định nay ngoài bảy mươi mà vẫn dạy trò không biết mệt mỏi, Lê Hữu Huấn tuổi ngoài 60, mắc bệnh nói lắp, thi cử nhiều mà không đỗ đạt, nhưng con cháu đề huề đông đúc, cũng là do đã để lại phúc đức vậy.

      Ông Phạm Đức Nhuận lúc nhỏ học tập chuyên cần. Lớn lên, người thân thúc ép mới ra làm Huyện đoàn, về sau dự thi “liên tiệp thông kinh”.

 

THẦY DẠY HỌC. (39b)

 

Ông Nguyễn Lý, người làng Nghi Tàm- Hà Nội. Thời Quang Trung (1788 – 1802) ông tới xã ta, ở chỗ khu chợ. Gặp khi xã ta tổ chức khảo thí học trò, ông gà bài cho một số, giám khảo xem xong thấy hay quá, mời ông ngồi lên hàng trên, ông từ chối. Ông Trần Ban người xóm Hà Khẩu mời ông dạy học cho con, hai con trai (trưởng là Đường, thứ là Đức) đều đỗ đạt. Có ông cử nhân người Thượng Nông tên là Chấn đến dạy học ở thôn Trung thường đi lại chơi bời trò truyện với ông mới biết ông từng đỗ thủ khoa thời nhà Lê, sau vì tránh loạn Tây Sơn mà về Trà Lũ ẩn cư, dạy học. Khi vua Gia Long lên ngôi có triệu ông Nguyễn Lý ra làm quan, làm đến chức đốc học tỉnh Đông (Hải Dương - Hải Phòng hiện nay). Sau ông nghỉ hưu.

      Ông lấy vợ kế người xóm Khẩu Trung (xóm 10 ngày nay) và sống ở đó. Con cả tên Nguyễn Hùng đỗ cử nhân thời Gia Long (1802- 1820), làm tri huyện. Con thứ là Nguyễn Viên có cháu chắt ở xã ta, con út tên Nguyễn Đĩnh cũng dạy học ở Trà Lũ Bắc.

      Ông rất giỏi về nghề thuốc, luôn tìm hiểu tính năng của các vị thuốc. Lại làm thơ phú, câu đối rất nhiều. Xin lược thuật một vài bài như sau:

      Sách hỏi: Biết nhà Chu không thể phục hưng, sao Trọng Liên không chịu hàng vua Tần ?, biết nước Tề không thể xây lại, sao Điền Hoành không chịu quy phục tướng nhà Hán? Câu mở đầu bài văn trả lời không rõ là như thế nào, chỉ tóm thuật ý chính:

       Là con dân của nước Chu, lòng Liên  biết rằng nhà Chu mất rồi thì kinh đô,  thóc lúa nhà Chu chắc  sẽ mất hết vậy, mối hận mất nhà Chu không thể nguôi; tuy không thể dùng ba tấc lưỡi mà tiêu diệt binh khoẻ giáp mạnh của quân Tần, nhưng  không nỡ đem danh khí của tiên vương giao phó cho bề tôi hèn yếu ở Khanh thành, cũng không thể vì nhà Chu không có cơ hội phục hưng mà đi làm tôi tớ cho kẻ thù.

       Là con cháu của vua Tề, lòng Hoành biết rằng nước Tề mất rồi thì xã tắc, gò đồi nước Tề sẽ bị san bằng,  mối thù của nước Tề sẽ phải báo; tuy không thể dùng năm trăm tráng sĩ chiến thắng ngựa sắt thương vàng của quân Hán, nhưng không thể để tấm lòng tận trung báo quốc tiêu tan nơi hải đảo, cũng không thể vì nước Tề không thể tái tạo mà đi làm vương hầu của quân địch.

      Ông bị điếc, có làm đôi câu đối tự thuật:

人間樂事棋詩酒。

帝世良臣目股肱。

Nhân gian lạc sự kì thi tửu,

Đế thế lương thần mục cổ quăng,

Tạm dịch:

Trò vui nhân thế: cờ, thơ, rượu.

Tớ giỏi thân ta: mắt, cẳng, tay.

(Ý đối trào phúng rất hóm: Vui trò của nhân gian có: đánh cờ, uống rượu, đọc thơ. Bề tôi hiền của thân ta còn: mắt, chân, tay – Đ.H.T).

       Có một người, hầu ông đã lâu, khi bố sắp mất, có xin ông nghĩ sẵn cho đôi câu đối con khóc bố, ông nghe, tặng đôi câu đối:

一息尚存孫謀猶未已

千秋永別子道更何如

Nhất tức thượng tồn tôn mưu do vị dĩ,

Thiên thu vĩnh biệt tử đạo cánh hà như

(Ý đôi câu đối: Còn 1 hơi thở, Cha vẫn lo cho con cháu, nay ngàn thu vĩnh biệt, con biết làm sao đây ! – Đ.H.T)

Ông Nguyễn Túc, ông Vũ Mỗ là người xã Phương Để (Trực Ninh), đỗ Cử nhân thời Gia Long (1802 – 1820). Ông Nguyễn Túc làm quan đến chức Tham tri, ông Vũ Mỗ làm quan đến chức Đốc học. Ông Nguyễn Túc hạy học ở Trà Lũ Bắc. Ông Vũ Mỗ dạy học ở Trà Lũ Trung. Các ông tú tài Trần Đức Hinh, Trần Viết Bính, Bùi Viết Phái… đều là học trò.

Hầu tước Đặng Đức Địch, tự Cửu Tuân, người làng Hành Thiện, trúng Phó bảng thời Tự Đức (1848 - 1883), thường tụ tập văn nhân đất Trà Lũ Bắc sáng tác thơ văn ở đình làng. Sau ông Cai Tổng Lê Như Lâm mời ông về Trà Lũ Bắc dạy học. Sau nhà vua phong ông làm quan đốc học tỉnh Nam Định, rồi vào kinh đô làm đếnLễ bộ thượng thư (Bộ trưởng thời nay) rồi về hưu. Cử nhân Lê Văn Nhưng, tú tài Trần Khắc Cần, Chánh tổng Lê Văn Oánh….đều là học trò. Khi Lê Văn Nhưng đỗ cử nhân, thầy Đặng Đức Địch tặng đôi câu đối:

“Khoa danh tảo tuế tiêu môn đệ

Tưởng khuyến hà niên uý chủ nhân

科名早歲標門弟

獎勸何年慰主人

(Vui lòng thay, học trò giỏi của ta tuổi trẻ đã đỗ đạt).

Văn bia đình, miếu ở làng Trà Lũ Bắc đều do ông viết. Ông thọ 80 tuổi, giỗ ngày 04 tháng 8.

Đinh Công Giám (sau đổi tên là Đinh Văn Nhã), người xã Trừng Hải, huyện Trực Ninh, trúng Cử Nhân khoa thi năm Mậu Ngọ thời Tự Đức (1858), làm quan đến Án sát sứ tỉnh Ninh Bình, sau về hưu. Thời trẻ ở nhà ông Lê Như Lâm dạy học, các ông Lê Văn Hoan, Lê Văn Oánh đều là học trò, văn bia từ đường Lê Tộc do ông soạn. Khi làm quan ở Ninh Bình, có đối viếng ông Lê Như Lâm mất như sau :

       “Văn phó nga kinh thiên lý ngoại

Truyền kinh hốt ức thập niên tiền”

聞訃俄驚千里外

傳經忽憶十年前

Nghe tin ông mất giật mình ở nơi xa xôi ngàn dặm

Bỗng nhớ về ngày dạy học cách nay  đã 10 năm

Ông Nguyễn Đàm, ẩn sĩ người Hà Nội, dạy học ở Trà Lũ Bắc nhiều năm. Học trò của ông trước sau các lớp tính ra vài trăm người. Ghi nhớ công trạng lớn lao của ông, khi ông mất, làng rước ông vào thờ trong Đền hương hiền.

 

       THIÊN CHÚA GIÁO. (41)

 

      Theo lịch sử, Thiên chúa giáo vào nước ta đầu tiên là ở Ninh Cường (huyện Chân Ninh – nay là Trực Ninh) và Trà Lũ (huyện Giao Thuỷ - nay là Xuân Trường). Đó là năm đầu niên hiệu Nguyên Hoà thời vua Lê Trang Tông (1.533). Xét ở xã ta thì xóm Bắc Tỉnh xứng đáng là đất Tổ đầu của Thiên chúa giáo vậy. Thời trước, các giám mục đều về xóm này trước, sau rồi mới tới Phú Nhai là xã “toàn tòng” (dân theo đạo Thiên chúa giáo cả). Đến nay khi tổ chức kỷ niệm Thiên chúa (thường họi là “Lễ Quan Thầy”) đều tụ tập lễ bái ở đây.

      Sử Đông Dương chép rằng: Năm Thiên Chúa giáng sinh 1.596 (tức là năm 1.596 dương lịch), giáo sĩ Tây Ban Nha (西班牙 = tức Y Pha Nho = 伊坡儒) đến Nam Kỳ (南圻), ngụ ở Phố Hiến (Hiến phố = 憲浦) – nay là tỉnh Hưng Yên, so với năm đầu niên hiệu Nguyên hoà (1.533) thì lui về sau 64 năm. 

 

TĂNG NI. (41b)

 

      Đào Canh hiệu Vô Vi, người Đa Cốc, 8 tuổi đi tu, 14 tuổi lấy vợ, sinh con là Đào Phú. Vợ mất lại đi tu. Vào kinh đô lập đàn được cấp  văn bằng độ điệp, về tu ở chùa Thôn Trung. Năm Gia Long thứ 14, đại tu chùa chiền bằng gạch, gỗ hoành tráng. Thọ 85 tuổi, có tạc tượng thờ tại chùa. Đào Phú tuổi trẻ xuống tóc đi tu, theo thầy đến Hà Nội thi khoa tăng, trúng cách, được ban phong vào “Tăng lục ty”, với tên là “chính phú thọ nam” (?) (Tăng lục ty như là một dạng danh sách những nhà sư đỗ đạt một bằng cấp nhất định). Sau lấy vợ là người thuộc đạo tràng trong chùa ( theo học khóa tu tại chùa), sinh con là  Kế. Kế theo họ Trần (có lẽ là họ người mẹ - là vợ của sư Đào Phú – Đ.H.T), nửa đời xuất gia lấy hiệu là Phổ Liên, trước ở chùa Liêu Đông, mãi sau này về tu ở chùa thôn Trung. Cực kỳ thông tuệ, ghi danh tính nhà người ta cả trăm mà nhớ không quên một. Lễ Nhương tinh, Thượng nguyên (15 tháng Giêng) phần nhiều các lá sớ, các sao ghi trên lịch… đều do ông đọc thuộc lòng chi tiết. Thọ 70 tuổi, có vẽ chân dung để lại. Con cháu ông ở thôn Trung đều là sư hoặc đạo sĩ.  Nay chắt là sư Trần Quyết hiện đang trụ trì chùa thôn Trung.

      Ni Quang Tuệ, người Cát Chử, khi còn nhỏ theo thầy Phổ Liên, học được tâm quyết, về tu ở chùa thôn Trung. Tô vẽ tượng, sửa gác chuông, phòng ốc rất to đẹp, khiến người theo lễ chùa rất đông. Thọ hơn 70 tuổi, là một bậc chân tu.

      Sư tên húy là Bích, hiệu là Như Thường, người xã Ngọc Cục. Từ nhỏ đã quy y. Đời vua Minh Mệnh cho vời các sư về kinh lập đàn cúng, sư tấu ba lượt trống thượng đường, xếp loại đạt, được cấp văn bằng độ điệp. Tu ở chùa thôn Bắc. Phần nhiều tượng là do sư tô vẽ, lại ở nhà ngang lấy vỏ trai vỏ sò làm động rất khéo. Tự coi thanh cao, chén trà ấm trà đều là đồ xưa nhã đẹp, phướn rước lọng báu thuần dùng gấm vóc chế nên. Thích làm thơ văn, thường cùng văn nhân xướng họa. Trong làng có người vợ góa họ Nguyễn, nhà có núi giả (hòn non bộ), sư nhờ người xin, họ Nguyễn tiến cúng. Sư tặng câu đối rằng:  “gắng chí tam tòng, lòng trinh không phải đá; lưu danh tứ đức, coi trọng tựa núi non”

勵志三從貞匪石

留名四德重於山.

Lệ chí tam tòng trinh phỉ thạch

Lưu danh tứ đức trọng ư sơn.

      Khi sư viên tịch dặn lại thiêu xác (hỏa hóa). Giữ xá lợi ở tháp.   

      Sư Quang Minh họ Đỗ, người thôn Bắc, là học trò và cũng là cháu của nhà sư Như Thường. Tuổi trẻ quy y, chuyên tâm tu trì, không màng ăn ngon, không ham vật chất. Tính tình hiền từ, không bao giờ thấy nổi giận, được gọi là Phật sống. Trước ở chùa Hoành Nha, sau về chùa thôn Bắc. Gác chuông hỏng bàn với hương mục trong xã sửa theo mẫu cổng Văn Miếu ở Hà Nội, theo cách thức đổi gỗ làm bằng gạch cuốn, tô vẽ tam quan, chính điện cũng như hậu tự rất đẹp, khiến người theo lễ chùa rất đông.

     Đỗ Hiệt hiệu Tâm Tín, người xóm Khẩu Nhị, còn nhỏ xuất gia, thụ giới Thông Quang thiền sư (Sư chùa Trà Khê). Học được tâm quyết, về tu ở chùa Thọ Vực. Xây hành lang chùa, gác chuông rất to đẹp. Lại xây từ đường ở quê nhà để truy thờ tiên linh. Thôn Bắc sửa gác chuông, cúng 60 quan tiền xanh, lại cúng Đền thôn Bắc một đĩa cổ lớn, đường kính rộng một thước 6 tấc (64 cm). Xuất gia mà không quên gốc, thực là một bậc cao cả trong giới tu hành vậy.

 

       THẦY THUỐC GIỎI. (42b)

 

Trần Viết Độ người thôn Trung, nghiên cứu sâu sắc y học nhưng ở quê không mấy người biết tiếng. Thời Tự Đức, có vào kinh đô, gặp người phụ nữ họ Nguyễn bị tật nặng ở tay nhờ chữa, ông chữa cho khỏi nên bà rất quý trọng ông. Người phụ nữ này là Công chúa, cháu gái yêu của Quận Công Nguyễn Nhân Xuyên. Vì thế, ông được tiến dẫn vào Y viện của triều đình, làm quan đến chức Tả Viện Phán.

Phan Báo, người thôn Đông, tinh thông y thuật. Có người sau khi bị thổ tả, người lúc nóng lúc lạnh, thân thể suy nhược trầm trọng. Ông đến xem mạch, bèn dùng thang lục hoà thêm nhiều xạ hương, nói, uống thuốc này vào tất bệnh sẽ phát nặng. Quả nhiên sau khi uống, người bệnh mắt đỏ sọc, phát cuồng lên, xé áo quần rồi nằm vật ra. Uống tiếp một cốc thêm 5 phân xạ hương,bệnh khỏi dứt. Các thầy thuốc khác hỏi, Ông nói, cái nhiệt đã dịu nhẹ, như lửa cháy âm ỉ ở bên trong, giội nước bên ngoài thì không có ích gì.Bài thuốc này của tôi như là khiến cho lửa cháy to lên rồi dội nước dập lửa, tất sẽ được.

Lại có một bà lão, bụng đau như cắt, Ông xem mạch, nói, đây là do trong ruột có nhọt, rồi cho đơn thuốc, nói, uống 50 chén. Bà uống đến 48 chén thì nhọt trong bụng vỡ, mủ theo đường đại tiện mà ra, bà khỏi bệnh.

       Đinh Công, người xã Phú Nhai, cũng là thầy thuốc giỏi. Học trò là các ông Đinh Hối, Đinh Khánh rất nổi tiếng. Ở xã ta, Trần Thiết cũng được truyền thụ rất nhiều về nghề thuốc, lại truyền tiếp nghề rất rộng. Đỗ Viết Nguyệt, Đỗ Viết Ngọc đều là đệ tử của ông. Đỗ Viết Nguyệt tinh thông nghề thuốc, lấy việc cứu người làm đầu, không từ cả việc chữa bệnh hủi.

       Đỗ Hữu Thanh người xóm Đoài Trung, tuổi trẻ ham học, sưu tầm được nhiều sách thuốc, giữ gìn vệ sinh rất kỹ, nay ngoài 70 tuổi mà gân cốt vững chắc như người tuổi trẻ. Ông đọc sách thuốc rất rộng, khảo cứu sâu sắc chi tiết, có soạn ra các quyển “Ngũ vận chủ khách lục khí đồ”, “Nhân thân kinh lạc đồ”, “Xích bộ mệnh môn luận”, dạy học trò rất nhiều bài thuốc chữa bệnh cứu người. Lược thuật một vài việc. Có một người đang rất khoẻ mạnh, bỗng phát chứng điên cuồng, qua hơn hai tháng bỏ ăn, quên ngủ, Tiên sinh tới, trong lúc thời tiết đại hàn mà người ấy ngồi xổm trên bàn, nói năng chửi bới bậy bạ. Tiên sinh bèn nói vài lời nhẹ nhàng vui vẻ, người ấy lắng dịu lại, tiên sinh lại gần xem mạch thấy các mạch đều chìm, nhỏ, thầm nghĩ rằng người bình thường không thể có mạch như thế, chắc đây là do quá lo buồn uất ức, bèn nói  dùng thang thuốc thăng dương tán hoả, 1 thang thì giảm bệnh, đến 2 thang thì khỏi.

       Lại có một người, đau đầu kèm với nóng lạnh như sốt rét. Tiên sinh tới, thấy người bệnh nằm, giơ tay trái lên thì buông tay phải xuống, giơ chân phải lên thì đập chân trái xuống, thường nhờ người nhà giữ hai bên thái dương mà vả. Tiên sinh hỏi: đau thế nào? Người bệnh trả lời: đau như trong ngực có cả chục con chó cắn xé. Xem mạch thì thấy mạch nhanh, xem sắc mặt thấy chắc gan khô, bèn nói: đây là chứng âm cực hư, thận thuỷ kiệt, cần khẩn trương bồi bổ cho thận. Rồi bèn dùng bài thuốc bổ thận, tăng thêm “khương hoạt”, “điếu đằng” (loại tơ hồng (đằng =) cứng như móc câu (điếu = )), làm 10 chén, sắc lấy nước đặc đầu, uống liên tục trong 1 ngày đêm, Uống hết thuốc thì bệnh khỏi.

 

SỐNG THỌ. (43b)

 

Thổ địa làng ta lành, nhiều thế hệcó các bậc già cả sống thọ mà phả cũ ít ghi chép lại. Gần đây có ông Trần Tu 93 tuổi, ông Nguyễn Vân 94 tuổi đều là người xóm Đường Nhất nội, cùng mất vào năm cuối thời Tự Đức.

Ông Đỗ Thị người xóm Khẩu Nhị 91 tuổi, ông Vũ Viết Thường người xóm Tiền Trì 97 tuổi, ông Phan Phiên người thôn Đông 96 tuổi, ông Lê Hân người thôn Đông 94 tuổi, ông Trần Hoan thôn Đoài 86 tuổi được tặng thưởng.

Vợ cả ông Phan Như Lộc tên là Trần thị Quế 93 tuổi, bà Nguyễn thị Thắng người xóm Tiền Trì 98 tuổi, bà Lưu thị Huề người xóm Bắc Lạc 95 tuổi.

Xóm Đoài Trung (xóm 10) có bà Đỗ thị Do 90 tuổi vẫn có thể gánh đội nặng, Xóm Đoài Nghĩa (xóm 10) có bà Trần thị Du 93 tuổi rụng hết răng lại mọc răng mới.

Xưa có Trần thị vợ ông Lê Quốc Bảo 91 tuổi đã có huyền tôn (huyền tôn = chút = cháu 5 đời). Nay mẹ ông Lê Duy Tuế mới 80 tuổi mà đã “ngũ đại đồng đường” (trong nhà cùng sống 5 thế hệ). Đó đều là những điều phúc đức lớn lao hiếm có vậy.

 

KIỆN TỤNG. (44)

 

Lê Thế Miện là người khéo ăn nói, tinh thông luật lệ. Vì thế năm đầu thời Gia Long bạn bè giới thiệu ông làm Đồng Tri phủ nhưng ông không tham gia.Thời ấy, họ Nguyễn chấp chính ở làng, ông bất bình, tìm cớ kiện lên quan khiến Tiên chỉ Nguyễn Huy Đồng bị bắt trói giải lên quan. Con trai của Nguyễn Huy Đồng, tên là Hổ (tục gọi là Ba Hầm = ) hận lắm, theo giặc Vành tìm cách báo thù cho cha. Thế Miện và con trai lớn Lê Thế Khiêm, con trai thứ Lê Thế Cung phải trốn tránh sang Trung Lao (中牢). Mới đi đến đò Bùi Chu (裴洲), gọi đò chưa được thì quân giặc đã đuổi tới nơi, hoảng hốt chạy vào nhà người ta ẩn núp, lấy rơm rạ che phủ lên trên, giặc không sao tìm thấy được. Bỗng nhiên có đàn lợn ở đâu đến dũi húc tung đám rơm rạ lên, làm lộ cái dải áo xanh ra. Cha con bị bắt, giết; riêng Thế Khiêm được tha. Ông là người trong họ Lê tôi. Tôi nghe các cụ già nói rằng: tính ông thích kiện tụng, lời văn cay độc nghiệt ngã. Cùng ngõ có Trần Quốc Nghi rất hay chữ, không phục ông, ông gây sự chửi bới Trần Quốc Nghi ở quán chợ. Trần Quốc Nghi bèn làm vè chữ nôm mắng, có câu:

“Đ.mẹ chó đen, đen giữ mực

Đù cha cò trắng, trắng như vôi”

      Ông bị tai hoạ cũng là từ đó.

Nguyễn Hổ báo thù cho cha xong, bỏ giặc Ba Vành, vào Thanh Hoá sống.

      Thế Khiêm sau làm Hương trưởng (trưởng xóm), con cháu cũng được bầu giữ chức ấy.

        Gần đây có kẻ lấy âm mưu kiện tụng làm sinh kế. Thấy ai đó có sự bất bình nho nhỏ bèn đến xúi giục đi thưa kiện, lại viết đơn kiện hộ. Đến khi đơn kiện gửi lên quan, quan cho tra xét, lại đến bày vẽ cho bên bị giải trình, thương thuyết thoả thuận hoà giải hoặc xúi bên bị làm đơn kiện ngược lại, để ăn tiền của cả hai bên nguyên đơn, bị đơn.

      Tôi đã thấy mấy kẻ như thế. Đến khi chết chôn rồi mà mồ mả cũng chẳng được yên. Đáng lấy làm răn lắm thay !

 

PHỤ NỮ HIỀN LƯƠNG.(45)

 

Trần thị Siêu là vợ cả của Tuấn Đức Bá. Bà có tấm lòng bồ tát, thường làm rất nhiều việc thiện. Người nghèo bà cho ăn, người cô đơn bà nuôi dưỡng, người chết không nơi nương tựa bà cho quan tài chôn cất. Thời Gia Long (1802 – 1820), thôn Trung sửa chùa, bà làm Hội chủ kiến thiết, cúng 170 quan tiền. Việc này có ghi khắc ở bia dựng trong chùa.Con cháu nhà bà nhiều đời danh vọng ở làng.

Bà họ Hoàng, hiệu Từ Tâm, là vợ cả của ông Phan Triều Thắng, rất hay làm việc thiện. Có năm mất mùa bà cho dân xã vay mượn thóc lúa rất chu đáo. Một hôm, bà cho người ra chợ nói rằng: sớm ngày mai, nhờ các ông, các bà mang quang gánh, thúng mủng đến nhà giúp chuyển thóc lúa. Hôm sau, dân xã y hẹn đến, bà mở kho thóc nhà mình biếu đàn ông một gánh, đàn bà một đội thóc. Dân làng cảm ơn, nắc nỏm ca ngợi đức độ của bà.

        Bà Trần thị Tuy, vợ cả ông Lê Đình Chuẩn, theo Đạo Thiên chúa, cùng với ông chăm làm việc thiện. Người đói khát bà cho ăn, người chết đường bà cho áo quan chôn cất, lại giành 3 gian nhà bên trái để làm chỗ trú cho những người ăn mày. Một ngày, bà dậy sớm đi gặt lúa nếp ở ven sông, bỗng thấy một đứa trẻ sơ sinh đặt nằm trên tảng đá, bà lấy lá bọc, bế về đặt nằm trong nôi, nhìn lại thì hóa ra là mộtcon người bằng vàng. Lại một đêm sáng trăng, bà rửa chân ở cầu ao, thấy tiền nổi đầy mặtnước như bèo vậy, bà gọi ông lội vớt về xếp đầy nhà và nói “Giê su ma! Lạy chúa tôi!” (“Giê su ma” là tên Thiên chúa). Những chuyện này chắc chỉ là ngoa truyền, nhưng cũng là cái lẽ: năng làm việc thiện lương thì được hưởng những điều lành vậy. Bà thọ đến 96 tuổi.

Bà Trần thị Tiêu, là vợ kế của Đội trưởng Bùi Công Bình. Bà vợ trước sinh ra con trai là Bùi Viết Phái rồi mất, lấy bà kế sinh ra con trai là Bùi Viết Phương thì ông Bình mất. Bà Tiêu một thân nuôi dạy hai con, rước thầy giáo về dạy con học, thức khuya dậy sớm, cấy lúa chăn tằm, mọi việc đều chu đáo. Bùi Viết Phái về sau đi thi trúng Tú tài, kính bà như mẹ đẻ ra vậy. Gia đình êm ấm thuận hoà, người người thảy đều khen ngợi.

Bà Lê thị Tính là vợ ông Lê Khiết, không có con cái gì. Bốn mươi tuổi ông mất, bà ở vậy chăm lo làm ăn buôn bán mà giàu có. Về già phát tâm từ thiện, chu cấp đầy đủ cho những người thân thích.Bà tiến cúng ruộng, đồ thờ và tiền hàng vạn đồng có dư vào Đền Thần, Văn từ, chùa Phật hay Từ đường các tộc trong thôn, chỉ giữ lại cho mình một chút ít ruộng vườn đủ sống dưỡng già. Thôn Bắc lập nhiều bia ghi chép, ca ngợi sự việc của bà, lại trích ra một ít ruộng bà cúng để làm ruộng tình nghĩa. Bà thực đúng là bậc cao cả trong giới nữ vậy.

 

ĐÀN BÀ ÁC NGHIỆT.(46)

 

Vợ cả của Cai cơ Trần Đình Ngạn là người Hà Nội.Lúc còn trẻ, thị không sinh nở gì. Vợ lẽ của Ông sinh được 2 người con trai, thị đầu độc chết 1. Ông đi làm quan vắng nhà, thị tư thông lộ liễu trắng trợn với người hàng xóm tên Nguyễn, Ông biết, gọi thị, bảo: ”Ta mà còn bắt được gian díu, ta sẽ đuổi ra khỏi nhà!“. Một ngày nọ, thấy người tình,thị gọi, rủ vào buồng tư thông. Thị mân mê “của quý” của gian phu, cười, nói: Xẻo cái này đi nhé!? Gian phu nghĩ thị đùa chơi, nói: OK – Được! Thế là thịlấy con dao giấu trong tay áo, cắt phăng…”vòi” của gian phu, giống như người ta thiến, hoạn tội nhân vậy. Ông bắt trói thị giải trình quan, mặt thị như trát đất. Dâm độc đến như thế là cùng.

Mụ Trần thị… là người xóm Đông Thọ, giàu có hiểm ác. Cho người ta vay tiền thì trừ đầu, lãi nặng. Cho vay thóc thì giao vơi, lấy đầy. Lại thường trộn lẫn trấu, rẹp lép vào thóc lúa và giao cho người vay vào ban đêm để người ta không nhìn thấy nhiều tạp chất. Lại nuôi một bầy ngỗng dữ ở sân vườn nhà. Trước nhà lại có lối cầu tre bắc qua ao đi vào. Lũ ngỗng dữ thấy người gánh đội thóc ra về, liền đuổi theo mổ, cướp thóc khiến người gánh đội ngã cầu, đổ thóc xuống ao hay ngỗng cướp ăn thóc cũng không thể nào ngăn cản được. Mụ lại cười khanh khách mà rằng: lại làm cho ngỗng tôi đầy diều, cá tôi no bụng rồi! Sau mụ chết, khi chôn bị sét đánh vào quan tài, xương thịt văng tung toé. Người nhà thu gom chôn lại cả ba lần đều bị như thế, sau đành để xác lộ thiên, lấy cỏ lau phủ lên, một thời gian thì tiêu tán hết. Đàn bà ác độc như thế đáng làm gương để răn tránh.

Gần đây có mụ chuyên cho vay nặng lãi, kiếm được rất nhiều tiền, khẩu Phật tâm xà, miệng lưỡi nhân từ mà lòng ác độc. Dân làng coi là người đàn bà giảo quyệt. Sinh được ba con trai đều chết non, có một đứa cháu thì cũng bị mắc bệnh hủi.

       Lại có một mụ, cả hai vợ chồng đều cho vay nặng lãi. Đến kỳ trả nợ, con nợ chưa trả được phải đem ruộng vườn nhà cửa gán thế thì mụ tính giá bèo bọt. Người đời vô cùng oán thán. Đẻ được 1 con trai, chết sớm, tuyệt tự. Vợ chồng tủi hổ, bỏ đi nơi khác sống. Tài sản tan nát, lần lượt mất hết.

 

KẺ XẤU XA. (46b)

 

Lê Giai là một đại phú thương, mà không chăm nuôi mẹ. Mẹ phải đi dệt chiếu thuê để sống. Y có 2 thuyền lớn chuyên chở chiếu cói đi bán ở Hà Nội. Cuối năm giết lợn gà làm cỗ linh đình khoản đãi thuỷ thủ đoàn. Người xóm thấy bà mẹ vẫn đi làm thuê, hỏi: Cậu cả nhà bà làm tiệc lớn vậy, sao bà không về dự? Bà than: Hắn không mời, không gọi thì có chết tôi cũng không về. Lê Giai sinh được 2 con trai thì đều là kẻ du đãng, làm điều phi pháp. Thời kỳ phân tra giáo dân, hai đứa có mưu đồ chống đối, bị phát hiện, bắt giam và tra tấn, đâm chém cho đến chết. Gia tài tan nát hết. Giai một thân cô độc phải đi xin ăn ở cửa nhà người ta, nay tuyệt tự.

      Gần đây có kẻ nhà giàu có mà có mẹ đẻ không nuôi dưỡng, lại thường mắng mỏ khinh khi mẹ đẻ như quân hầu đầy tớ. Mẹ phải đi ăn mày. Con trai hắn đột nhiên mắc bệnh lạ mà chết. Nhà cửa, tài sản cũng tan nát. Thực là một kẻ bất hiếu đáng tránh.

 

       KẺ CƯỚP.(47)

 

      Họ Trần có tên Trần Bất Hựu là kẻ cắp. Hắn thường theo thuyền buôn lớn, hai tay ôm mạn thuyền mà ngủ. Rình thấy thuỷ thủ đoàn ngủ say, Bất Hựu mới bò ra, trước hết xé buồm để gói ghém đồ ăn trộm rồi ôm bao đồ trộm được, leo lên đỉnh cột buồm, đu giây mà lên bờ. Buổi sáng thuỷ thủ đoàn dậy thì Hựu đã đi xa rồi.  

      Bất Hựu theo giặc Vành. Khi giặc Vành bại trận, quan quân triều đình truy bắt gắt gao, Hựu cùng tên Ất chạy tới trốn nấp bên trong miếu thôn Ngọc Tỉnh (玉井 - Nay thuộc xã Xuân Kiên – huyện Xuân Trường). Quan quân bắt được tên Ất, tra hỏi: tên kia đâu? Ất nói rằng: hắn ngồi trên ngai rồng, lấy áo mũ thần miếu che phủ lên. Tra khám lại thì quả nhiên phía sau tấm bài vị là Bất Hựu giả làm Diêm Vương ngồi trên ngai. Bị bắt, Hựu mắng chửi thậm tệ rồi chết. Người ta vẫn nói câu:”Gan góc như Trần Bất Hựu!”.

      Họ Trần còn có tên Trần Nhâm, theo giặc bị bắt chém chết ở chợ. Nay người ở phố chợ nói thỉnh thoảng vẫn thấy hình bóng quỷ vật vờ dưới gốc cây, ôm bọc tiền xanh. Có lẽ người bị chết chém thì thành quỷ cũng thiêng chăng!?

 

       KIẾP NẠN. (47)

 

      Ba Vành (巴鑅) người làng Minh Giám (明鑑), huyện Kiến Xương (建昌), nay gọi là làng Nguyệt Lâm (月林), là người có sức khỏe phi thường, có thể phóng tiêu giết cả trăm người không sót một. Trước tụ tập đồng đảng ở ngoài bãi biển cướp bóc, dân xã ta số đông không liên hệ gì. Một số  đồ đảng như tên Hàm (tức Hổ), tên Đáng, tên Văn, tên Hựu bí mật đón Vành về Trà Lũ (茶縷), Phú Nhai (富涯) lập căn cứ, quan binh giao tranh bị thua. Thế giặc rất mạnh. Tháng 2, năm thứ 8 thời vua Minh Mạng, đốc binh Nguyễn Văn Lý, tham tán Nguyễn Công Trứ hành quân tiễu phạt, đóng quân canh phòng, không giao chiến trực tiếp. Chẹn hết các đường thủy bộ quan yếu, ban ngày kéo pháo đến gần bắn phá dữ dội. Thế cùng, không đường tiến thoái, Ba Vành muốn chạy ra biển mà không có đường, trong 1 đêm đào sâu một đoạn sông thông từ sông Cát Giang (葛江) tới sông Ngô Đồng (梧桐) dài hơn trăm trượng (về sau tục gọi là cống Vành). Nước cạn thuyền kẹt, pháo bắn như mưa, Ba Vành bị thương, lội qua sông ẩn trong bãi lau sậy. Khi tổng trưởng Hoành Nha (橫衙) là Lê Tuấn đi tuần thám bắt được. Tòng đảng tứ tán, bị bắt hết. Xã ta bị triệt hủy sạch. Đó là ngày 16, tháng 2 năm Đinh Hợi (1827).

      Năm thứ 2 thời vua Thành Thái có giặc Vũ cướp bóc ở phía nam huyện. Quan quân triều đình tập kết ở Đình thôn Bắc, chia cánh tuần sát, bắn chết Vũ ở ấp Giáo Phường (教坊). Cũng nhằm vào ngày 16 tháng 2. Ghi sự việc này như vậy.

      Năm thứ 9 đời vua Tự Đức,  Bính Thìn – 1856,  vỡ đê Bùi Chu (裴洲), cả tổng ta ngập chìm trong biển nước. Các cố lão trong làng kể lại, xã ta chỉ còn hai xứ Cựu Cốt (舊骨) và Thái Bằng (太憑) là cao hơn, có thể lên tránh lụt được, dân làng lên đó ở, kết bè để đi lại.

      Năm thứ 16 triều Vua Thành Thái, Quý Mão – 1903, tháng 5 ngày 12, giờ Thìn gió Đông Bắc thổi đến giờ Ngọ thì tắt hẳn, mây tan, mặt trời sáng bừng, chợt nghe từ phía biển có tiếng nổ lớn như sấm và chỉ một thoáng sau gió Tây Nam cực mạnh thốc tới, cát bay đá chạy, gió cuốn cả thuyền nan 24 thước lên tận ngọn cây, nhà cửa đổ sập quá nửa, hoa màu, lúa mạ, cây cối tan nát hết. Âu cũng là kiếp số vậy!

 

       (Kết thúc sách)(48)

 

       Trung tuần tháng đầu thu, năm đầu thời Khải Định.

      Tú tài Trần Văn Độ tự Bách Trinh soát sửa.

 

       CÁC HỌ VÀ TÊN TUỔI QUÝ QUAN VIÊN TRỢ GIÚP TIỀN CHI PHÍ KHẮC IN SÁCH LIỆT KÊ DƯỚI ĐÂY.

 

       - GIA ĐÌNH NHẬN THU:

       + Thôn Bắc: Họ Bùi – 2 quan, Họ Đỗ - 3 quan, Họ Vũ – 3 quan, Họ Nguyễn – 3 quan, Họ Mai – 1 quan, Họ Trần – 2 quan, Họ Đinh – 1 quan, Chi họ Nguyễn Luật – 2 quan, Nghị viên Cửu phẩm Lê Văn Thuần – 5 quan, Chi họ Vũ Mân – 1 quan, Nguyễn Mưu, Nguyễn Mỹ, Nguyễn Dự, Trần Nguyên, Trần Nhuận – mỗi người 1 quan, Thiền Sư Đỗ Quang Minh – 3 quan, Sư chùa thôn Đông – 1 quan, Lê thị Khiết – 2 quan.

       + Thôn Trung: Họ Lưu – 1 quan, Họ Nguyễn – 3 quan, Trần Trân, Trần Kính – 6 quan, Lưu Trụ - 3 quan, Trần Mại – 2 quan, Trần Xán, Lưu Thao, Trần Xuân, Trần Oánh, Trần Lễ, Trần Ngọc – mỗi người 1 quan.

+ Thôn Đông: Phan Di – 1 quan.

+ Thôn Đoài: Đỗ Hữu Thanh, Bùi Hanh – Mỗi người 1 quan,

+ Thôn Trung: Phạm Đức Nhuận – 1 quan.

+ Thôn Bắc: Đỗ Giảng – 1 quan.

+ Trần Trinh (Ấp Hành Thiện), Trần Xuân Trợ (Văn Lâm), Hoàng Trứ, Bùi Uy (Phú Lễ) – Mỗi người 1 quan.

+ Phạm Ứng Thuần (Thượng Trại) – 2 quan,

+ Đỗ Hữu Phương, Phạm Văn Doanh, Trần Văn Ước, Đỗ Bách, Trần thị Viên (Phú Lễ) – Mỗi người 1 (?) quan.

 

- TÚ TÀI TRẦN BÁCH TRINH NHẬN THU:

(Trong đó có tiền giao cho Cử nhân Lê Văn Nhưng 8 quan, còn giao cho thợ tiền công khắc 14 quan)

+ Thôn Trung: Họ Trần – 2 quan, Chi họ Tú tài Trần Khắc Khuyến – 1 quan, Họ Phạm – 1 quan, Tú tài Phạm Đức Uy – 1 quan, Cửu phẩm Chánh Tổng Hoàng Xuân Quyến – 2 quan, Chi họ Trần Xuân, Chi họ Trần Vịnh, Chi họ Trần Thiến, Trần Lễ, Trần Ký – Mỗi người 1 quan, Thiền sư Thích Thanh Quyết – 3 quan, Thiền sư Thích Tâm Tín – 2 quan,

+ Thôn Bắc: Họ Mai – 1 quan, Khu Khẩu Nhị - 1 quan, Lê Tuế, Lê Trừng, Lê Ngạc, Bùi Uông – Mỗi người 1 quan, Lê thị Độ - 1 quan.

+ Thôn Đông: Phó Bảng võ Phan Cân, Chi họ Phan Tiên – 3 quan, Phan Tiên – 2 quan.

+ Trại Nam Điền: Cử nhân Trần Huy Tảo – 2 quan.

 

CHÚ THÍCH

       1. Trần Văn Độ: Trần Văn Độ là con trưởng của Trần Quyền, con nuôi của Tú tài Trần Bính. Cả ba khoa Đinh Dậu (1897), Quý Mão (1903), Bính Ngọ (1906) thời Thành Thái, đi thi đều trúng Tú tài.Là bạn thân của Cử nhân Lê Văn Nhưng, là người soạn văn tấm bia năm 1929 (Bảo Đại – Kỷ Tỵ) ở chùa Thiên Trù Động Hương Tích.

- Liệt tự nghi văn = 列祀儀文, là tập sách do Lê Văn Nhưng tập hợp, bao gồm các nghi thức, sớ văn tế lễ ở làng. Sách hiện được lưu giữ ở Thư viện quốc gia (địa chỉ:  http://lib.nomfoundation.org/collection/1/volume/1028/,  bản sách này bị thiếu khuyết một tờ in số 15). Các bản sao sách này lưu giữ ở các tộc Trà Lũ Bắc thì có đủ 30 tờ in.

       2. Đinh Xuân Thưởng, là con rể của Cử nhân Lê Văn Nhưng.

       3. Hương ước (hay lệ làng) là những quy ước sống trong làng xã, yêu cầu các thành viên trong làng xã phải tuân thủ, nếu vi phạm sẽ bị làng phạt.

Phép đo ruộng của Trương Tử, nói về việc đo đạc diện tích ruộng, phân định ranh giới, tứ cận …đất đai làng xã nói chung và các hộ sở hữu, sử dụng nói riêng.

4. Đầu thời Lê : Triều nhà Lê (Hậu Lê) bắt đầu từ khi Lê Lợi lên ngôi vua năm 1.428 với niên hiệu Thuận Thiên. Tính từ năm đó đến năm 1.915 là hơn 400 năm (487 năm).

- Niên hiệu Nguyên Hoà triều nhà Lê (Vua Lê Trang Tông): 1.533 – 1.548. Năm thứ 9 triều vua Duy Tân (1.907 – 1.916) = năm 1.915. Tính từ năm Nguyên Hoà năm đầu (1.533) đến năm Duy Tân 9 (1915) là 382 năm. Trong sách đã ghi nhầm “năm 1533 – Nguyên Hòa nguyên niên” là năm Quý Mão, nhưng đúng ra năm 1533 phải là năm Quý Tỵ.

- Niên hiệu Hồng Đức (1.470 – 1.497): Là niên hiệu thời vua Lê Thánh Tông.

6. Nam Điền: Nguyên là khu ruộng lớn của làng Trà Lũ, sau có ít dân cư trú, lập thành Xóm Nam Điền thuộc thôn Trung, tiếp đó tách ra khỏi thôn Trung thành Trại Nam Điền, và đến năm Thành Thái 2 thì tách riêng khỏi xã Trà Lũ thành một xã riêng là Xã Nam Điền (có con dấu (triện) riêng vào năm 1891). Nay là xã Xuân Vinh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.

7. Một phần Thôn Trung xưa là Xã Xuân Trung ngày nay. Trong thôn Trung, theo vị trí, chia thành các xóm phía ĐÔNG: (Đông Nhuệ (), Đông Kiều (東橋), Đông Hào (東豪), Đông Phú (東富), Đông Thọ (東壽)), phía TÂY: (Đoài Đũng (兌勇), Đoài Phụ (兌阜), Đoài Nghĩa (兌義), Đoài Ninh ()), phía NAM: (Nam Phượng (南鳳), Nam Kỳ (南棋)), phía BẮC: (Bắc Lạc (北樂), Bắc Đỗng (北洞), Bắc Tỉnh (北井), Bắc Hà (北河), Bắc Ngọc (北玉)),và ở GIỮA: (Trung Phúc (中福), Trung Thiện (中善), Trung Tiên (中仙), Trung Mỹ (中美)). Các xóm phía Bắc thôn Trung, về sau lệ vào Trà Lũ Bắc khi có sự phân định lại địa giới hành chính, trở thành các xóm 11, xóm 9 của Xã Xuân Bắc hiện nay.

      Ở thôn Bắc: Đường Nhất Nội (堂一内) nay là xóm 5, Đường Nhất Ngoại (堂一外) nay là xóm 6, xóm 12; Đông Biên (東邊) là một phần xóm 11, Tiền Trì (前池) là xóm 8, Các xóm Cựu Cốt (Cựu Cốt Bắc (舊骨北), Cựu Cốt Trung (舊骨中), Cựu Cốt Nam (舊骨南), Cựu Cốt Hậu (舊骨後), Cựu Cốt Đông (舊骨東)) nay là xóm 7, Khẩu Nhị (口二) nay là xóm 2, Khẩu Tam (口三) nay là xóm 3, Khẩu Nhị Cựu(口二舊) nay thuộc vào xóm 4, Khẩu Trung (口中), Khẩu Nội (口内) là xóm 10, Khẩu Đoài (口兌) là xóm 1, Đô Trạo (都棹) là xóm 4.

      Thôn Đoài: (兌村) một thời gian bao gồm giáo dân của cả xã Trà Lũ, nhưng không phân định địa giới riêng mà bao gồm các chòm khóm giáo dân cư trú rải rác trong xã, việc chia cấp ruộng đất để cày cấy vẫn theo vào 3 thôn Bắc, Trung, Đông. Về sau này khi phân giới đất đai giữa các xã : Trà Lũ Bắc – Trà Lũ Trung – Trà Lũ Đông, thì thôn Đoài tách các xóm, giáp giáo dân lệ vào các xã cụ thể : Xóm đạo Phú Nhai lệ vào thôn Đông (Trà Lũ Đông – Xã Xuân Phương), các xóm giáo dân Bắc Tỉnh, Họ Ông Thánh, Họ Đức Bà (Tiền Trì, Khẩu Đoài) lệ vào thôn Bắc (Trà Lũ Bắc – Xã Xuân Bắc), Xóm giáo thôn Trung (Đoài Nghĩa, Đoài Phụ, Đoài Ninh, Đoài Dũng – Xứ Kính Danh) lệ vào thôn Trung (Trà Lũ Trung – Xã Xuân Trung).

       Họ Lưu thôn Trung vốn cư trú và lập từ đường ở xóm Bắc Hà (xóm 11 Xã Xuân Bắc ngày nay), đầu thế kỷ 20 Nhà nước chuyển xóm Bắc Hà lệ vào Trà Lũ Bắc nên Lưu tộc mới tham gia vào các Hội làng của Trà Lũ Bắc, thành họ thứ 8 của Trà Lũ Bắc (sau 7 họ: Bùi, Đỗ, Vũ, Nguyễn, Lê, Mai, Trần).

8. Ruộng chùa Thần Quang: Chùa Thần Quang (Thần Quang Tự = 神光寺) chính là chùa Keo Hành Thiện và chùa Keo Thái Bình. Theo lịch sử, hai chùa Keo này vốn là 1 chùa Thần Quang Tự ở hương Giao Thuỷ, xây dựng từ thời nhà Lý. Đầu thế kỷ 17, lụt lớn, vỡ đê, làng sạt, chùa trôi, cư dân Giao Thuỷ chuyển cư xuống hạ lưu sông Hồng, lập lên 2 trang Dũng Nhuệ và Hành Cung, xây dựng 2 chùa Thần Quang mới ở Trang Hành Cung và Trang Dũng Nhuệ (Thời Tự Đức gọi là Dũng Nghĩa) (chính là chùa Keo Hành Thiện và chùa Keo Thái Bình bây giờ).

19. Chức quan của Đỗ Tuyên “cơ binh thiên hộ” – Một chức quan võ cao cấp vào hàng tứ phẩm triều nhà Nguyễn.

25. Phạm Đại là con cháu của Tiến sĩ Phạm Trọng Huyên (范仲諠 : 1746 - ?), quê Dũng Quyết - Yên Phú, Ý Yên, Nam Định. Đỗ Tiến sĩ khoa thi 1778 – Cảnh Hưng 39.

Câu thơ:

       “Nhị Thế hữu phù phong Chỉ Đạo;

Trùng Đồng vô cẩm y Giang Đông”.

Là nói về việc thua trận, chấm dứt vương triều nhà Tần, ấn tín, ngọc tỷ vua Tần phải giao nộp cho Lưu Bang ở đất Chỉ Đạo. Câu thứ hai là nói về Hạng Vũ (Trùng Đồng = 重瞳 – “mắt có hai con ngươi”) thua trận, tự sát ở Ô giang, không chịu về Giang Đông làm vương, mưu một ngày tái khởi.

Thần thoại nói rằng người có hai đồng tử (重瞳) trong một mắt là thánh nhân. Trong lịch sử TQ ghi chép có 8 người có “trùng đồng – mắt hai con ngươi”, gồm: Thương Hiệt, Ngu Thuấn, Trùng Nhĩ, Hạng Vũ, Lã Quang, Cao Dương, Ngư Câu La, Lý Dục (仓颉,虞舜,重耳,项羽,吕光,高洋,鱼俱罗,李煜 ).

Lý Thanh Chiếu - một nữ thi sĩ thời Nam Tống đã từng có đôi dòng cảm thán khi đến dòng Ô Giang:

“Sinh đương tác nhân kiệt

Tử diệc phi quỷ hùng

Chí kim tư Hạng Võ

Bất khẳng quá Giang Đông”.

Dịch nghĩa

(Sống làm người anh kiệt

Chết làm ma anh hùng

Nay còn nhớ Hạng Vũ

Chẳng chịu về Giang Đông).

Bố Y khởi binh - Áo vải cất quân - Cả bài thơ này viết về Lưu Bang

Nhị Thế (Doanh Hồ Hợi) có tỉ phù phong thưởng cho Bái Công ở Chỉ Đạo.

       Sở dĩ cụ Cử cho rằng hay, là bởi từ câu chuyện Tử Anh (Tam Thế Hoàng Đế) cưỡi xe trắng ngựa bạch, đem tỉ phù (ấn phù của nhà Tần) đến đình Chỉ Đạo mà dâng nộp cho Bái Công. Nhưng lời thơ ở đây biến thành Tần Nhị Thế phong thưởng cho Bái Công tỉ phù ở đình Chỉ Đạo. Bái Công qua tay Tử Anh nhận được ấn phù truyền quốc nên quả nhiên sau này có được đế nghiệp.

       Còn Trùng Đồng (Hạng Vũ) thì không có nổi áo gấm để mặc về Giang Đông nữa.

Cũng là bởi Hạng Vũ từng có nói : "Phú quý bất quy hương, do như cẩm y dạ hành." – Được phú quý mà không về lại quê hương, thì cũng như áo gấm đi đêm thôi.

Nhưng là ít năm sau, sau trận thua quân Hán ở Cai Hạ, Hạng Vũ chạy về đến bờ Ô Giang thì không chịu vượt sông mà tự vẫn tại chỗ. Trước khi chết còn than không có mặt mũi nào về gặp phụ huynh Giang Đông nữa. Hạng Vũ khi đó, bá nghiệp không còn, áo gấm không có, lời sĩ diện lại đã thành điển, vậy về quê được sao?!

      Bài “Tần cung phụ nữ - 秦宮婦女 câu 3, câu 4:

Ngũ lâu thập các phồn hoa địa

Bá mị thiên kiều phấn đại thân

五楼十閣繁花地

百媚千嬌粉黛身

“Lầu năm gác chục miền hoa lệ,

Thắm vạn xinh ngàn vẻ phấn son”.

Câu thơ:

Thố phách tà xuyên khuê diệp lãng

Phượng chi ám dữ quế hoè huân

兔魄斜穿圭葉朗

鳳枝暗與桂槐薫

Bài thơ “Cây ngô đồng dưới trăng”. (Thi gặp bài “Ngô đồng dưới trăng”). Ý câu thơ tả ánh trăng chiếu xuyên qua vòm tán lá đẹp, dáng hình cây ngô đồng như con chim phượng xoè cánh che lấp đám cây hoè cây quế bên dưới đang toả hương thơm.

28. Tây nhập tam phân Tần vũ trụ/ Đông lai bách bại Hán quân thần: Chỉ Hạng Võ (Hạng Tịch 項籍 - Hạng Vũ 項羽 Sở Bá Vương楚霸王)(Tây nhập – chiếm nước Tần, chia ba thànhnước nhỏ gọi là Tam Tần . Tam Tần là: • Ung (), cai trị bởi Chương Hàm, nằm ở trung tâm Thiểm Tây và phía đông Cam Túc ngày nay. • Tắc (), cai trị bởi Tư Mã Hân, nằm ở phía đông bắc Cam Túc. • Địch (), cai trị bởi Đổng Ế, nằm ở phía bắc Cam Túc,  Đông lai – từ phía Đông tiến quân vào thắng quân của Hán vương Lưu Bang cả trăm trận). Ý hai câu thơ ca ngợi sự kiêu dũng của Hạng Võ : “Tiến về phía tây (Sở Vương) chia ba nước Tần. Từ Đông lại, đánh thắng chủ tớ Hán vương cả trăm trận”.

      Tu du tam đoạt kinh Nguyên Cát/ Thương tốt trùng vi xuất nhị lang”: Nói về việc Uất Trì Cung = 尉遲恭(Kính Đức =敬德) (tướng giỏi của vua Đường Lý Thế Dân) giỏi võ nghệ, múa giáo rất tài tình, trong trận Tề Vương Lý Nguyên Cát (em trai của Lý Thế Dân) thách đấu, chỉ trong giây lát (tu du), ông đã ba lần cướp được (tam đoạt) giáo nhọn của Lý Nguyên Cát, trong khi giáo của mình đã bỏ đi phần mũi nhọn để không gây thương tích cho đấu thủ. Trong trận đánh giữa Lý Thế Dân và Vương Thế Sung, Uất Trì Cung đã cứu thoát Lý Thế Dân bị vây khốn (“xuất Nhị lang”, Lý Thế Dân là con trai thứ 2 (“nhị lang” - sau Lý Kiến Thành) của Đường Cao Tổ Lý Uyên). Trần Hưng Đạo, trong bài Hịch tướng sĩ cũng có nhắc đến tấm gương quả cảm của Uất Trì Cung (“Kính Đức một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông, thoát khỏi vòng vây Thế Sung”).

Tạm dịch là:

     Tử Anh (Nhà vua) mắt ráo hoảnh ra hàng

Lưu Bang (Tay chơi) lòng dửng dưng mỹ nữ.”

     Tử Anh đã dửng dưng ngôi báu

Lưu Bang chẳng đếm xỉa cung tần.”

     Tử Anh đã ngó lơ ngọc tỷ

       Lưu Bang chẳng đếm xỉa cung tần”

Câu đối viếng Nguyễn Huyên của Cử nhân Lê Văn Nhưng:

      Người viếng có mối tình bạn vong niên, mà có sự tri kỷ với người đã khuất. Ông đến viếng, đối diện với vong hồn người quá cố, khóc thương mà hờ: Ông biết, hay không biết, ông đã bỏ chúng tôi, bỏ cõi tạm trần tục này mà về chốn hư vô tĩnh lặng !. Tôi may (vì được giao du với ông), lại chẳng may (vì đã mất ông – một người bạn tri âm, tri kỷ, liên tài), đang có cặp mắt nhoè lệ (phó nhãn – mắt không bình thường, mờ đục, nhoè lệ….) khóc thương ông, cảm cái tình tri kỷ, liên tài của ông, cảm cái “con mắt xanh” (đọc văn mà đã nhìn thấy tôi có thể đỗ đầu) của ông trong giao du giữa chúng ta !

     Hồn biết, hay không biết, bỏ phàm tục về chốn hư không.

Tôi may, lại chẳng may, còn mắt nhoè khóc tình qua lại”.

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét