Thứ Bảy, 8 tháng 7, 2023

VÀI NHẬN XÉT VỀ BÀI THƠ “SÔNG LAM” CỦA TRẦN MẠNH HẢO / Phạm Đức Nhì

 


Nhà thơ Phạm Đức Nhì

  

SÔNG LAM

Thơ Trần Mạnh Hảo

 

Sông bổ đôi Nghệ Tĩnh

Sông nằm hóa lục bát Nguyễn Du

Sông đứng thành Hồng Lĩnh

Sông đi thành ví dặm trời xanh

 

Sông vắt kiệt lòng mình nuôi đất cát

Thương đất nghèo sông xanh rớt mồng tơi

Sông ẩn hồn trong vại cà, vại nhút

Một củ khoai cũng lấp ló mây trời

Con cò mặc áo tơi đi học

Cá sông Lam còi cọc toát mồ hôi

Gió hào kiệt thổi xơ Nghệ Tĩnh

Cá gỗ nuôi lớn những thiên tài

Trời hào phóng mây trắng

Đất tằn tiện ngô khoai

Đến cỏ dại cũng mọc thành chữ nghĩa

Đồ Nghệ Sông Lam dạy biển cả học bài

 

Gió Lào thổi mây dòn bánh đa nướng

Sông Lam nuôi nứt nẻ mỗi hạt vàng

Gió lập ngôn đầu hồi nước luồng lĩnh xướng

Khoai lang gàn luống dọc thích bò ngang

Sông thao thức sóng tràn bờ bắc

Sông nằm mơ tĩnh lặng khói bờ nam

Thúy Kiều đến Tiên Điền tìm họ mạc

Hai trăm năm Tiền Đường mê mẩn nước Lam Giang

Để rú Quyết lặng thầm đi cứu

Sông veo veo trời đất thoắt sen vàng

Sông Lam ăn cát mà xanh, uống trời mà mát

Trăng cháy hết lòng sâu quyết liệt cả cơ hàn

Người giàu có nên đất nghèo khô khát

Kìa gió Lào thổi cong sông Lam…

 

Sài Gòn 1983

T.M.H.

 

Tứ Thơ:

 

Tác giả mượn con Sông Lam để nói về vùng đất Nghệ Tĩnh và bóng gió ca ngợi con người ở đó.

 

Ngôn Từ Hình Tượng

 

Ngôn từ: Đẹp, chắt lọc, cao sang; hình tượng mới lạ, vừa có vẻ đẹp hùng vĩ, vừa gần gũi, dân dã.

 

Biện pháp tu từ: Sử dụng một số biện pháp tu từ như phúng dụ, so sánh, nhân hóa, nói quá (thậm xưng), tương phản khá điệu nghệ.

 

Bố Cục:

 

Đây là một bài thơ “thiếu tổ chức”, tập hợp những phát biểu đậm chất trí tuệ, đa số mang thông điệp rất “ấn tượng”, sâu sắc - nhưng không theo một trình tự, lớp lang nào rõ ràng - về con Sông Lam, vùng đất Nghệ Tĩnh và người dân ở đó.

 

Không có những đoạn thơ bộc lộ một mảnh tâm sự (thơ Trường Thiên) hoặc dòng tứ thơ (thơ nhất khí liền mạch) kết nối những suy nghĩ, sự kiện trước cảnh đời của thi sĩ.

 

Nói theo ngôn ngữ bóng đá thì đây là đội bóng không có đấu pháp toàn đội. Cầu thủ phần đông có kỹ thuật cá nhân thuộc đẳng cấp cao, rất điêu luyện nhưng khi có bóng không thích phối hợp với đồng đội mà cứ muốn tự mình “tỏa sáng” trên sân cỏ.

 

Chính vì lý do đó, tôi dựa vào cách gieo vần để chia bài thơ làm 3 đoạn:

 

Đoạn 1: Gồm 4 câu đầu, gieo vần gián cách 1/3

 

Đoạn 2: Gồm 12 câu kế tiếp, gieo vần gián cách 2/4 - tất cả đều điệp vận.

 

Đoạn 3: Gồm 16 câu còn lại, gieo vần 1/3 và 2/4 - tất cả những câu 2/4 đều điệp vận.

(Xin xem phân tích vần ở phần kế tiếp)

 

Vần:

 

Đoạn đầu 4 câu, gieo vần gián cách 1/3 (Tĩnh Lĩnh)

 

Sông bổ đôi Nghệ Tĩnh

Sông nằm hóa lục bát Nguyễn Du

Sông đứng thành Hồng Lĩnh

Sông đi thành ví dặm trời xanh

 

Đoạn kế tiếp 12 câu, gieo vần gián cách 2/4 và tất cả đều cùng vần (điệp vận)

 

Sông vắt kiệt lòng mình nuôi đất cát

Thương đất nghèo sông xanh rớt mồng tơi

Sông ẩn hồn trong vại cà, vại nhút

Một củ khoai cũng lấp ló mây trời

Con cò mặc áo tơi đi học

Cá sông Lam còi cọc toát mồ hôi

Gió hào kiệt thổi xơ Nghệ Tĩnh

Cá gỗ nuôi lớn những thiên tài

Trời hào phóng mây trắng

Đất tằn tiện ngô khoai

Đến cỏ dại cũng mọc thành chữ nghĩa

Đồ Nghệ Sông Lam dạy biển cả học bài

  

Đoạn cuối 14 câu, gieo vần gián cách cả 1/3 và 2/4, và tất cả 2/4 đều điệp vận.

 

Gió Lào thổi mây dòn bánh đa nướng

Sông Lam nuôi nứt nẻ mỗi hạt vàng

Gió lập ngôn đầu hồi nước luồng lĩnh xướng

Khoai lang gàn luống dọc thích bò ngang

Sông thao thức sóng tràn bờ bắc

Sông nằm mơ tĩnh lặng khói bờ nam

Thúy Kiều đến Tiên Điền tìm họ mạc

Hai trăm năm Tiền Đường mê mẩn nước Lam Giang

Để rú Quyết lặng thầm đi cứu

Sông veo veo trời đất thoắt sen vàng

Sông Lam ăn cát mà xanh, uống trời mà mát

Trăng cháy hết lòng sâu quyết liệt cả cơ hàn

Người giàu có nên đất nghèo khô khát

Kìa gió Lào thổi cong sông Lam

 

Ngoại trừ 2 câu:

 

Để rú Quyết lặng thầm đi cứu

Sông veo veo trời đất thoắt sen vàng

(cứu không vần với mạc và mát)

được coi là “phá cách”

 

Gieo vần như vậy là quá dầy, nhất là 2 đoạn điệp vận rất dài, gần hết cả bài thơ (26/30 câu) – trong đó đoạn cuối (14 câu) vừa có vần 1/3 lại vừa điệp vận 2/4 - nên hội chứng nhàm chán vần rất nặng.

  

Nhịp Điệu:

 

Số chữ trong câu thay đổi nên nhịp điệu tương đối uyển chuyển, sinh động, không đều đều, tẻ nhạt.

 

Nhờ nhịp điệu uyển chuyển, sinh động như vậy hội chứng nhàm chán vần đã được hóa giải gần hết. Cảm giác nhàm chán còn lại không đáng kể.

 

Tại Sao Thi Sĩ Chơi Điệp Vận Quá Nhiều?

 

Điệp vận nặng tay, nếu bám theo dòng chảy của tứ thơ để diễn tả mảnh tâm trạng chính hoặc điểm mấu chốt của tứ thơ ở cuối bài sẽ làm nổi bật mảnh tâm trạng hoặc điểm mấu chốt đó khiến cảm xúc phát sinh sẽ đi thẳng vào tâm hồn người đọc, và dĩ nhiên, sẽ nâng giá trị của đoạn thơ hoặc bài thơ lên rất nhiều.

 

Thí dụ 1:  

 

Trong Truyện Kiều có một đoạn vần quẩn đáng chú ý:

 

Sấn vào, vừa rắp thị hùng ra tay

Nàng rằng: Trời nhé có hay!

Quyến anh, rủ yến, sự này tại ai?

Đem người dẩy xuống giếng khơi

Nói rồi, rồi lại ăn lời được ngay!

Còn tiên Tích Việt ở tay

Rõ ràng mặt ấy, mặt này chứ ai?

Lời ngay, đông mặt trong ngoài

Kẻ chê bất nghĩa, người cười vô lương!

 

(Câu 1178-1186)

 

Trong đoạn này 3 câu bát có vần ngang kết hợp với 2 lần vần quẩn tạo nên 7 cặp điệp vận (tay hayhay nàynày aingay taytay nàynày aiai ngoài); lại thêm chữ “ngay” (câu kế chót) không ở vị trí gieo vần cũng “xía vào” làm tăng vị ngọt khiến hội chứng nhàm chán vần của cả đoạn rất nặng.

 

Nhưng nhờ thế đã giúp câu chữ “dính chặt” với nhau làm nổi bật cảnh Thúy Kiều vạch mặt và sỉ vả Sở Khanh. Điệp vận dầy đặc lẽ ra “có tội” lại thành “có công”. Cảm giác nhàm chán vần tự nhiên tan biến. Đoạn thơ đẹp và có duyên hẳn lên; ý của Thúy Kiều được độc giả cảm nhận dễ dàng hơn nhiều.

 

Thí dụ 2:

 

Dưới đây là đoạn gần cuối của bài thơ Say Đi Em của Vũ Hoàng Chương:

 

Ta quá say rồi

Sắc ngả màu trôi

Gian phòng không đứng vững

Có ai ghì hư ảnh sát kề môi

Chân rã rời

Quay cuồng chi được nữa

Gối mỏi gần rơi!

Trong men cháy giác quan vừa bén lửa

Say không còn biết chi đời.

 

Chỉ có 9 câu thơ ngắn mà đến 6 chữ, 5 cặp vần ôi (hoặc ơi) – điệp vận đến mức nhìn qua là đã mất cảm tình. Nhưng thật lạ! Đọc lên không những không thấy ngán mà còn thấy hồn mình như bị dính chặt vào ý thơ – cơn say thực sự, “say không còn biết chi đời” – của tác giả.

 

Với cơn say ở đỉnh điểm như vậy, không còn chỗ cho lý trí và con đẻ của nó là sự dối trá, bám víu. Năm câu sau của đoạn kết đúng là tiếng lòng chân thật.

 

Điệp vận kiểu ấy, theo tôi, nếu là người làm thơ tỉnh táo, chắc là sẽ tránh xa. Vũ Hoàng Chương, trong lúc say đến lạc thần trí, đã hiên ngang bước vào “bãi mìn” ấy. Nhưng nhờ thế, đã tạo được một đoạn thơ độc đáo, có giá trị như một con dấu chứng nhận sự chân thật cho đoạn kết, góp phần hết sức quan trọng vào sự thành công của thi phẩm Say Đi Em.

 

Trường hợp hai đoạn thơ của Sông Lam

 

Hai đoạn thơ dài điệp vận của Sông Lam cũng là một lối chơi vần “quả cảm” - tạo nên dòng âm điệu thông thoáng, trơn tru nhưng quá ngọt. Có điều bài thơ của Trần Mạnh Hảo không có dòng tứ thơ phát sinh từ những mảnh tâm trạng, những cảnh đời lớp lang nối tiếp nhau mà chỉ dầy đặc những phát biểu nặng chất trí tuệ, “thiếu tổ chức” nên không tạo được hiêu quả tích cực như đoạn Kiều của Nguyễn Du và đoạn thơ của Vũ Hoàng Chương ở trên.

 

Cũng may, vị ngọt quá đậm của vần đã được nhịp điệu uyển chuyển, sinh động của bài thơ hóa giải gần hết. Còn sót một chút rất ít cảm giác nhàm chán (của vần) nhưng đổi lại, nhờ vần ngọt đậm nên dòng âm điệu của Sông Lam mượt mà hơn.

 

Theo tôi, việc hiên ngang bước vào “bãi mìn” trong 2 đoạn thơ dài của Sông Lam chỉ là một trao đổi tạm gọi là “hòa vốn”, nhưng qua đó nhà thơ Trần Mạnh Hảo đã biểu lộ được phong cách chơi vần tung tẩy, tự do, thoải mái và đầy tự tin của mình.

 

Đứng ở tầm nhìn rộng hơn, với một người làm thơ như Trần Mạnh Hảo, lối chơi vần đó là một thương vụ có lời. Và lời rất lớn.

 

Cảm Xúc Trong Bài Thơ Sông Lam

 

1/ Cảm xúc tầng 1 - đến từ ngôn từ, hình tượng, các biện pháp tu từ: Mức độ cảm xúc của người đọc ở tầng bậc này rất mạnh. Tài sử dụng ngôn từ, hình tượng, và đặc biệt là các thủ pháp so sánh, phúng dụ, nhân hóa, tương phản, thậm xưng (nói quá) đã có sức khơi gợi mạnh, đưa óc liên tưởng của người đọc đi rất xa, khoái cảm dâng lên cao ngất.

 

Những lời khen ưu ái dành cho bài thơ có lẽ đến từ khu vực này.

 

2/ Cảm xúc tầng 2 - đến từ thế trận chữ nghĩa của bài thơ: Hoàn toàn không có. Bài thơ “thiếu tổ chức”, không có “thế trận chữ nghĩa” mà chỉ toàn là những phát biểu gần như độc lập, rất ấn tượng, sâu sắc nhưng không theo một trình tự, lớp lang rõ ràng nào. Tứ thơ có thể nói chỉ là những mảnh vụn của lý trí vung vãi khắp nơi.

 

Đội bóng Sông Lam không có đấu pháp toàn đội. Cầu thủ, phần lớn có kỹ thuật cá nhân siêu đẳng, khi có bóng cứ tự mình múa may trên sân cỏ, không thèm phối hợp với đồng đội.

 

3/ Cảm xúc tầng 3 (hồn thơ) - đến từ trạng thái hưng phấn, cao hứng của thi sĩ: Chỉ là con số không (zero) to tướng.

 

Bài thơ có 30 câu (228 chữ) thì 29 câu (221 chữ - 97%) hoàn toàn là sản phẩm của lý trí, đến từ cái đầu của thi sĩ.

 

Lúc ấy chúng ta có 2 Trần Mạnh Hảo. Một: TMH của “cái tôi văn hóa” với “một đầu kiến thức”, “một bụng hiểu biết” đang tung mớ kiến thức đa dạng đó (đã được lý trí tuyển chọn) vào bài thơ. Con TMH thứ hai của “cái tôi đích thực” đang ngồi làm thơ – nhưng ngồi đó mà hồn bay tận phương trời nào xa tít, mất tăm, mất tích. (1)

 

Mãi đến câu cuối cùng (7 chữ) TMH (đang ngồi làm thơ) mới chợt tỉnh, bước vào khung cảnh của bài thơ và chỉ cho độc giả một cảnh rất đẹp, rất nên thơ do ông tưởng tượng ra:

 

Kìa gió Lào thổi cong Sông Lam

 

Đó là lúc “cái tôi riêng tư” xuất hiện để tạo nên “câu thơ sinh tình”.

 

Và “cái tình” ấy, dù chỉ phơn phớt nhẹ cũng đủ để giành danh hiệu “Thơ” cho Sông Lam, chứ nếu không, Sông Lam sẽ không đáng gọi là vè mà chỉ là “một thứ cây dị chủng trong vườn thơ.”

  

Tâm Thế Của Thi Sĩ Lúc Làm Thơ

 

Trong bài

 

NHÂN BÀI THƠ “SÔNG LAM” CỦA TRẦN MẠNH HẢO ĐƯỢC NHÀ GIÁO KIÊM NGHỆ SĨ PHAN THANH VÂN DIỄN NGÂM THÀNH CÔNG, PHÁT TRÊN TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ (TTĐT) ĐẠI BIỂU NHÂN DÂN TỈNH NGHỆ AN

 

của Trần Mạnh Hảo trên trang FB Trần Mỹ Giống, ở phần nhận xét của nhà văn Đức Ban về thơ Trần Mạnh Hảo, có đoạn:

 

Tình yêu vô bờ với Xứ Nghệ dồn nén trong lòng đã thành bài thơ “Sông Lam” và “Gió Ngàn Hống”. Vả, tác giả nói rằng ông viết thơ về Xứ Nghệ nhằm trả món nợ với hai người Nghệ An từng làm ơn cho ông: thầy giáo hiệu trưởng trường cấp 3 Nghĩa Hưng Nam Định kiêm dạy văn Lê Văn Trạm - quê Thanh Chương; và nhà văn nhà thơ Nguyễn Trọng Oánh (Nguyễn Thành Vân) quê Nghi Lộc. Anh Oánh đã lấy Trần Mạnh Hảo từ đơn vị chiến đấu trong rừng về làm báo “Văn nghệ quân giải phóng”.

 

Tôi chợt nhớ một đoạn thơ của Thanh Thảo trong bài Thanh Thảo, Hát Giữa Gió Mưa của Nguyễn Đức Tùng:

 

lục bình ơi cho tôi trôi với

trôi lên rồi trôi xuống thôi mà

trong đầu tôi bao ý nghĩ bôn ba

làm sao hôm nay có ai đặt bài

kiếm một chút tiền còm cho trẻ nhỏ

kiếm một vài cánh hoa chầm chậm thả

lên trời

 

https://phudoanlagi.blogspot.com/2022/10/thanh-thao-hat-giua-gio-mua-nguyen-uc.html

 

Làm thơ “theo đơn đặt hàng” để được trả tiền như Thanh Thảo phải viết theo theo yêu cầu, theo ý của “người đặt hàng” nên tính chân thật trong thơ sẽ tự động “đi chỗ khác chơi”. Bài thơ được đặt hàng – dù tác giả khéo cách mấy – cũng sẽ có một chữ Xạo rất to lởn vởn trước mắt người đọc.

 

Trường hợp của Trần Mạnh Hảo trong Sông Lam thì khác. Ông không nhận đơn đặt hàng của ai cả nhưng vì đã chịu ơn nghĩa sâu nặng với hai người đặc biệt quan trọng trong đời cộng thêm “tình yêu vô bờ với xứ Nghệ” nên chính ông đã “tự đặt hàng cho mình” để viết bài thơ.

 

Có điều TMH không viết ba bài riêng lẻ để bày tỏ lòng biết ơn và “tình yêu vô bờ” của mình với từng đối tượng mà cho “ba hồi nhập một”. Sử dụng phương cách này để trả ơn thì hơi bị thiếu tế nhị. Đối với hai ân nhân ông không có một chữ nhắc đến họ mà nội dung bài thơ chỉ ca ngợi Sông Lam, xứ Nghệ - quê hương của hai người.

 

Ông đã dồn 97% quân số của đạo quân chữ nghĩa được đạo diễn bởi lý trí (cha đẻ của chữ Xạo) (1) vào nỗ lực đền ơn đáp nghĩa (một cách gián tiếp) nên chữ Xạo đã nhanh chóng kéo theo chữ Nịnh.

 

Chỉ xin lấy một thí dụ:

 

Để ca ngợi đức tính “kiên định lập trường đến mức gàn bướng” của người dân Nghệ Tĩnh ông viết:

 

Khoai lang gàn luống dọc thích bò ngang

 

Đâu phải chỉ Nghệ Tĩnh mới có khoai lang, và đâu phải chỉ ở Nghệ Tĩnh khoai lang mới “gàn” đến độ “luống dọc thích bò ngang”. Trần Mạnh Hảo đã “chôm” của chung để tặng riêng cho người Nghệ Tĩnh.

 

Bảo là Xạo hay Nịnh tôi để tùy độc giả.

  

Đoạn Kết Của Bài Thơ

 

Sông Lam ăn cát mà xanh, uống trời mà mát

Trăng cháy hết lòng sâu quyết liệt cả cơ hàn

Người giàu có nên đất nghèo khô khát

Kìa gió Lào thổi cong sông Lam

 

Tôi tạm lấy 4 câu cuối coi như là đoạn kết để âm điệu cả đoạn đọc lên có âm hưởng của “giai kết hoàn toàn” (bậc 5 trở về chủ âm) cho đẹp mặt bài thơ. Nhưng câu cuối cùng – câu gói ghém ý chính của tứ thơ – thì lại quá “vô duyên”.

 

Ở trên thì ca ngợi người dân Nghệ Tĩnh kiên định lập trường đến mức gàn bướng mà lại kết luận:

 

“Kìa gió Lào thổi cong Sông Lam”

 

hàm ý “gió Lào cũng có thể thổi cong Sông Lam” thì còn gì là “phẩm giá” của Sông Lam nữa.

  

Tóm Tắt Ưu Khuyết Điểm Của Bài Thơ

 

1/ Ưu điểm:

 

     a/ Ngôn từ, hình tuợng đẹp, lạ, có sức gợi mạnh, đôi khi có vẻ cao sang, hùng vĩ nhưng nhiều lúc cũng gần gũi, dân dã.

     b/ Câu cú chắc gọn, ý tứ sâu sắc

     c/ Sử dụng các biện pháp tu từ so sánh, phúng dụ , nhân hóa, nói quá (thậm xưng), tương phản khá điệu nghệ.

     d/ Thực hiện kỹ thuật gieo vần nhuần nhuyễn với tâm thế ung dung, thoải mái – không bị bó buộc bởi “gia quy, lệ làng, phép nước”.

     e/ Số chữ trong câu không cứng ngắc mà thay đổi tùy tiện tạo nhịp điệu uyển chuyển, sinh động chứ không đều đều tẻ nhạt; kết quả là hóa giải được hầu hết hội chứng nhàm chán vần.

     f/ Kết hợp d+e: Có dòng âm điệu tương đối mượt mà, thông thoáng, trơn tru.

 

2/ Khuyết điểm:

 

     a/ Bố cục “thiếu tổ chức”, những phát biểu nặng chất trí tuệ quá nhiều, đặt bên nhau như những mảnh vụn của lý trí tung tóe khắp nơi.

     b/ Không có dòng chảy của tứ thơ

     c/ Lý trí – cha đẻ của chữ Xạo - điều khiển 97% quân số của bài thơ, lại viết để đền ơn, đáp nghĩa theo kiểu “ba hồi nhập một”, “trả ơn người ta ca tụng quê hương của người” nên chữ Xạo kéo theo chữ Nịnh.

     d/ Kết luận “trật bàn đạp”

     e/ Bài thơ “suýt chết” vì “cái tôi riêng tư” của tác giả “mải chơi”; phút chót được may mắn “hồi sinh” nhưng cũng bay hồn, mất vía.

     f/ Bài thơ thiếu vắng chữ Tình.

 

Kết Luận

 

Tôi chỉ dựa vào chút kiến thức bài bản để phân tích và đưa ra vài nhận xét về ưu khuyết điểm của thi phẩm Sông Lam. Kết luận chung cuộc về giá trị nghệ thuật của bài thơ xin nhường cho độc giả.

 

Rất mong đón nhận ý kiến, bình phẩm của độc giả yêu thơ về bài viết – dù đồng thuận hoặc trái chiều - để mọi người có thể cùng nâng cao tầm thưởng thức thơ của mình.

 

Phạm Đức Nhì

nhidpham@gmail.com

lythuyetthoabc.blogspot.com

 

Chú Thích:

 

1/

https://lythuyetthoabc.blogspot.com/2023/05/ban-ve-chu-xao-trong-tho.html

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét