Thứ Năm, 14 tháng 10, 2021

CÂU ĐỐI MỪNG ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH / Đỗ Trác

       

Dịch giả Đỗ Hữu Trác (Người cao)

             

       Đặng Đức Địch (20/8/1816 – 04/8/1896) tự Cửu Tuân, hiệu Côi Phong, đỗ Cử nhân năm 1848, đỗ Phó Bảng năm 1849, làm quan trải các chức: Tri huyện Hàm Yên, Tri phủ An Bình, Đốc học Hải Dương, Đốc học Bình Định, Giám sát Ngự sử, sung Tập Hiền viện Tu soạn… Năm 1873 bị bệnh, ông xin về quê an dưỡng và nuôi mẹ già, Năm 1874 triều đình triệu ông ra làm Đốc học Nam Định, Thị giảng học sĩ, sung Sử quán Toản tu, Hồng Lô tự khanh, năm 1883 được giao chức thự Tuần phủ Quảng Ngãi, 1884 thăng Lễ bộ Tham tri, sung Sử quán Toản tu, lĩnh Lễ bộ Thượng thư, 1886 sung Kinh diên giảng quan(1)… Những năm 1873-1875 ông được Cai Tổng Lê Như Lâm mời về làng Trà Lũ dạy học, là thầy dạy học nâng cao của Cử nhân Lê Văn Nhưng – tác giả cuốn Trà Lũ Xã Chí(2).

      Ông là người nghiêm cẩn, mực thước, mô phạm, và… rất kỹ tính(3). Ông cao lớn, quắc thước, tiếng nói sang sảng.

      Trong dịp mừng thọ bát tuần của ông, nhiều bè bạn, học trò, quan viên, văn thân hàng xã, họ tộc đều có đối, trướng mừng.


       CÂU ĐỐI CỦA CỬ NHÂN ĐẶNG HỮU CHU

 

      Bài này trích đăng giới thiệu đôi câu đối mừng của “môn tôn - 門孫 (học trò của học trò – tức học trò vào hàng… cháu) Cử nhân Đặng Hữu Chu (đỗ Cử nhân khoa Giáp Ngọ 1894):

範範模模為大呂為黄鐘鏗鏗乎可得而聞及于吾先子

名名望望如泰山如北斗巍巍然人所共仰况於我後生

門孫舉人鄧有株

       (Ảnh hình 1)

       Phạm phạm mô mô, vi đại lữ, vi hoàng chung, khanh khanh hồ, khả đắc nhi văn cập vu ngô tiên tử,

Danh danh vọng vọng, như Thái sơn, như Bắc đẩu, nguy nguy nhiên, nhân sở cộng ngưỡng huống ư ngã hậu sinh,

Môn tôn Cử nhân Đặng Hữu Chu (Cử nhân Khoa Giáp Ngọ 1894)

       Tạm dịch:

       Thước thước khuôn khuôn, như Đại Lữ, như Hoàng Chung, âm vang lắm, thảy đều được nghe từ tiên sinh ta,(4)

       Danh danh tiếng tiếng, tựa Bắc Đẩu, tựa Thái Sơn, vòi vọi thay, ai cũng nhìn thấy huống gì cháu chắt…

       CHÚ THÍCH:

 1 – Theo sách “Các nhà khoa bảng Nam Định” của Trần Mỹ Giống, Nxb Quân đội nhân dân, năm 2017.

       2 – Theo sách “Trà Lũ Xã Chí” của Nhĩ Khê Lê Văn Nhưng, Nxb Tôn Giáo, 2019.

       3 – Theo sách “Làng Hành Thiện và các nhà nho làng Hành thiện thời Nguyễn” của Đặng Hữu Thụ.

       4 – Cái thú vị, cái hóm của đôi câu đối này đặc biệt ở chỗ: ca ngợi bản lĩnh sư phạm, làm gương của thầy Đặng Đức Địch, nhưng cũng có cái khéo là dùng các âm luật cao để nói về giọng nói, giảng bài to, vang, mạnh, sang sảng như tiếng chuông đồng của thầy (Trong Luật nhạc Hán tộc xưa, âm thanh được chia ra làm 12 “nốt” từ cao xuống thấp: hoàng chung, đại lữ, thái thốc, giáp chung, cô tẩy, trọng lữ, nhuy tân, lâm chung, di tắc, nam lữ, vô xạ, ứng chung, thì tiếng nói của thầy Đặng Đức Địch tương đương với các “nốt” cao nhất: Hoàng Chung = 黄鐘, Đại Lữ = 大呂)

 

       TIẾN SĨ NGUYỄN NGỌC LIÊN MỪNG THỌ PHÓ BẢNG ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH

 

       Năm Bính Thân 1896 cụ Đặng Đức Địch mừng thượng thọ. Đời làm quan của cụ trải qua 3 triều Vua Nguyễn: Tự Đức - Dục Đức - Hiệp Hoà. Dịp này cụ Nguyễn Ngọc Liên mới đỗ Tiến sĩ mấy năm (cụ Nguyễn Ngọc Liên đỗ Tiến sĩ năm 1889), có đôi câu đối mừng thọ Cụ Đặng Đức Địch như sau (Ảnh hình 2):

       二品冠袍國元老

       八旬齒德先生

       Nhị phẩm quan bào quốc nguyên lão,

       Bát tuần xỉ đức hương tiên sinh,

       Vế 1 ca ngợi cụ Đặng Đức Địch học hành đỗ đạt đã làm quan đến hàm NHỊ PHẨM, là bậc NGUYÊN LÃO xủa quốc gia. Vế 2 thì mừng cụ Đặng Đức Địch đã thượng thọ 80 tuổi (bát tuần), về hưu là bậc đức cao vọng trọng của làng Hành Thiện.

 

       MỪNG THỌ ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH.

 

       Năm 1896, Đặng Đức Địch mừng thượng thọ 80 tuổi. Dịp này, Hội tư văn huyện Giao Thuỷ và làng Hành Thiện có tặng một đôi câu đối (Ảnh hình 3):

       齒一德一爵一

       道全形全神全

       Phiên âm:

       Xỉ nhất đức nhất tước nhất

       Đạo toàn hình toàn thần toàn

       Ý nghĩa:

       Tuổi thọ cao, hiền lành đức độ, tước lớn bổng hậu.

       Giữ trọn đạo, thân hình khoẻ mạnh, thần hồn minh mẫn.

       Tôi tạm dịch:

       Tuổi cao - đức trọng - tước to,

       Đạo đủ - thân yên - hồn vững,

       Thật tài tình! Chỉ với 12 chữ thôi mà câu đối đã ca ngợi đủ 6 mặt quan trọng nhất của một con người: tuổi thọ, đức độ, quan tước, đạo lý, thân thể, thần hồn. Hơn nữa, cả 6 mặt này đều đạt đến độ viên mãn.

 

       XÃ HÀNH THIỆN MỪNG THỌ VÀ TRI ÂN ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH

 

       Năm 1896, mừng thượng thọ tuổi 80, Xã Hành Thiện có đôi câu đối mừng và tri ân cụ Đặng Đức Địch với quê hương, làng xã như sau (Ảnh hình 4):

       有廊有江湖吾大老

       此天年此宦業南州一人

       Hữu lang miếu, hữu giang hồ, ngô hương đại lão,

       Thử thiên niên, thử hoạn nghiệp, Nam châu nhất nhân,

Bản xã,

       Tôi tạm dịch:

       Có đền miếu, có sông hồ, ấy do làng ta đại lão,

       Này tuổi trời, này sự nghiệp, tỉnh Nam chỉ có một người.

       (Cụ Đặng Đức Địch có đóng góp rất nhiều tiền của vào việc xây dựng đền miếu, chùa lăng, bến nước, đường sá... ở làng. Thọ 80, đã trải làm quan đến bậc Thượng thư, lại đã từng được uỷ quyền thay nhà Vua đứng tế ở Đàn Nam Giao... thì thực là ở tỉnh Nam Định chưa từng có ai hơn. "Nam Châu nhất nhân" là vậy!?)

 

       ÁN SÁT ĐẶNG ĐỨC CƯỜNG MỪNG THƯỢNG THỌ THƯỢNG THƯ ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH.

 

       Mừng thượng thọ 80, Nguyên Thượng thư Đặng Đức Địch được Án sát Đặng Đức Cường (sau thăng lên đến Tổng đốc Hải Dương, Thái tử Thiếu bảo, Hiệp Tá đại học sĩ) tặng một đôi câu đối như sau (Ảnh hình 5):

       幾如公磊磊落落然此科名又有此事業

       蓋於世憂憂愛愛者還朝廷亦以還子孫

       Kỷ như công lỗi lỗi lạc lạc nhiên, thử khoa danh hựu hữu thử sự nghiệp,

       Cái ư thế ưu ưu ái ái giả, hoàn triều đình diệc dĩ hoàn tử tôn,

       Bắc Nguyên Án sát Đặng Cường, (Án sát Bắc Ninh – Thái Nguyên Đặng Đức Cường)

       Tạm dịch:

       Có mấy người tài giỏi như ông, đỗ đạt bằng cấp cao như thế, sự nghiệp lẫy lừng như thế.

       Chính là cuộc đời cũng ưu ái ông, hoàn tất công việc triều đình, chu đáo gia đình con cháu.


       CÂU ĐỐI... VIẾNG ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH

 

       Năm 1896, mùa Xuân cụ Đặng Đức Địch về hưu trí ở làng. Được ít tháng, đến mùa Thu, tháng 8, ngày mồng 4 thì cụ mất, hưởng thọ 81 tuổi (1816 - 1896). Hội Tư văn làng Hành Thiện và huyện Giao Thuỷ có đôi câu đối viếng, ca ngợi tài năng, phẩm chất, thành tựu vượt bậc của cụ như sau: (Ảnh 6):

       春卿正二衘潞公致仕

       秋月初四日曾子完歸

       Xuân KHANH chính nhị hàm, Lộ công trí sĩ,

       Thu nguyệt sơ tứ nhật, Tăng tử hoàn quy,

       Thượng thư bộ Lễ hàm chánh nhị phẩm, ông Lộ công… về quê hưu trí,(1)

       Mùa thu, tháng 8 ngày mồng 4, ông Tăng tử….quy tiên!(2)

       Đại ý câu đối ví von, so sánh Đặng Đức Địch với viên quan đại thần triều nhà Tống Văn Ngạn Bác (được phong tước CÔNG (cao nhất trong ngũ tước) = LỘ quốc công = 潞國公) xưa và như một học trò xuất sắc của Khổng tử là Tăng Sâm – Tăng tử.

       Chú thích:

       Lộ công ở đây là Văn Ngạn Bác (1006-1097) nhà thơ, nhà chính trị Bắc Tống, tự Khoan Phu 寬夫, người Giới Lâm (nay thuộc Sơn Tây). Đậu tiến sĩ năm thứ năm Thiên Thánh (1027), làm tri huyện Dực Thành, thông phán Giáng Châu. Cuối năm Khánh Lịch, ông làm quan đến Đồng trung thư môn hạ bình chương sự, được phong Lộ quốc công = 潞國公 (Chữ LỘ = là từ Lộ giang = 潞江, một con sông ở đất tỉnh Sơn Tây, quê nhà của Văn Ngạn Bác). Ông cũng về trí sĩ khi đã ngoài 80 tuổi như Đặng Đức Địch.


       HỌ ĐẶNG LÀNG HÀNH THIỆN VIẾNG TANG ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH

       Ngày 4 tháng 8 năm 1896 Đặng Đức Địch quy tiên. Họ Đặng làng Hành Thiện có đôi câu đối viếng như sau; (ảnh chụp bản chép câu đối xưa kèm theo)

子孫其有興乎我列祖之言至今始騐

族譜為深惜者尊相公之德於世所希

Tử tôn kỳ hữu hưng hồ, ngã liệt tổ chi ngôn chí kim thuỷ nghiệm,

Tộc phả vị thâm tích giả, tôn tướng công chi đức ư thế sở hy,

Bản tộc,

Tạm dịch:

Con cháu rồi sẽ hưng vượng, lời liệt tổ đến nay mới ứng nghiệm,

Họ hàng thương tiếc vô cùng, đức độ ngài ở đời thật hiếm thay.


TIẾN SĨ DƯƠNG KHUÊ VIẾNG ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH

 

       Tiến sĩ Dương Khuê ít hơn Đặng Đức Địch 23 tuổi, có một thời làm quan đồng triều với Đặng Đức Địch. Khi hay tin Đặng Đức Địch mất, Dương Khuê có gửi đôi câu đối viếng như sau: (ảnh 8)

公真為出世仙歷紅羊塵刼幾成此修齡芳菊秋深存舊徑

仆近得歸山趣憶司馬耆壇故事未開勝會扁舟南下謁先生

楊珪

       Công chân vi xuất thế tiên, lịch Hồng Dương(1) trần kiếp, kỷ hồi thành thử tu linh, phương cúc thu thâm tồn cựu kính,

       Bộc cận đắc quy sơn thú, ức Tư Mã(2) kỳ đàn, cố sự vị khai thắng hội, biển chu nam hạ yết tiên sinh,

       Tiến sĩ Thượng thư trí sĩ Vân Trì Dương Khuê (1839 - 1902)(3)

       Tạm dịch:

       Ngài đúng là ông tiên xuống trần, trải qua tai ương đất nước, mấy phen tuổi đã thêm già, vườn cúc muà thu còn lối cũ.

       Tôi đã sớm về chơi sông núi, nhớ các bạn quan lớn tuổi, người xưa chưa cùng gặp lại, thuyền nhỏ xuôi nam gặp tiên sinh.

       CHÚ THÍCH:

       (1)- Hồng Dương (紅羊 = dê thui)chỉ “kiếp nạn của đất nước”. (Theo sấm truyền cổ bên Trung Quốc, “hồng dương kiếp” trỏ những biến loạn, kiếp nạn của đất nước, vương triều, thường diễn ra vào các năm Bính Ngọ, Đinh Mùi (2 năm liền nhau theo lịch can chi) : Bính, Đinh, Ngọ thuộc hoả ( = lửa đỏ) trong ngũ hành, biểu tượng của Mùi là con Dê (Dương = ), vì vậy “hồng dương kiếp” = “紅羊刧” = “nạn dê thui” trỏ những biến loạn của đất nước, triều đình )

       (2)- “Tư Mã kỳ đàn” = “司馬耆亶” = “dàn lão của ông Tư Mã Quang”: Thời Tống, sau khi Tể tướng Vương An Thạch thực hiện “biến pháp”, “cải cách”, “peredstroika” “pê-rét-st-rôi-ka” (của Gorbachop bên Liên Xô), “đổi mới” thất bại, Vua Tống trọng dụng lại Tư Mã Quang và các quan cận thần cũ (hầu hết đều đã lớn tuổi). Ở đây Dương Khuê (với tư cách là Thượng thư Bộ Binh nghỉ hưu) nhớ lại thời làm quan đồng triều với Đặng Đức Địch. Tích “Tư Mã Quang” ở đây cũng có liên quan đến tích “Lộ công” - “Lộ quốc công” - Văn Ngạn Bác trong câu đối viếng Đặng Đức Địch của Hội tư văn huyện Giao Thuỷ và làng Hành Thiện. (Văn Ngạn Bác làm quan cùng triều nhà Tống với Tư Mã Quang). (Một tồn nghi: Khi Dương Khuê bị biếm chức do hàm oan án tham nhũng công quỹ, rồi lại được phục chức, rất có thể là do công tra xét, minh oan cho ông của quan Hình bộ Thị lang Đặng Đức Địch vào năm 1878!?).

       (3)- Dương Khuê (1839-1902), hiệu Vân Trì, xuất thân trong một gia đình nhà Nho; là con cả Đô ngự sử Dương Quang, và là anh ruột của danh sĩ Dương Lâm; quê ở làng Vân Đình huyện Sơn Minh phủ Ứng Hòa tỉnh Hà Đông (nay thuộc thị trấn Vân Đình, huyện Ứng Hòa, Hà Nội). Dương Khuê là người văn hay, chữ tốt. Năm 1864, Dương Khuê thi Hương đỗ Cử nhân, cùng khoa này Nguyễn Khuyến đỗ Giải nguyên. Năm Mậu Thìn (1868), thời vua Tự Đức, ông dự thi Đình đỗ Đệ Tam giáp Tiến sĩ. Sau khi đỗ Tiến sĩ, Dương Khuê được bổ làm tri phủ Bình Giang (Hải Dương), rồi được thăng làm Bố chánh. Đầu thập niên bảy mươi của thế kỷ XIX, trước việc tay lái buôn người Pháp Jean Dupuis uy hiếp các quan chức người Việt ở Bắc Kỳ để tự do sử dụng sông Hồng, ông ở trong nhóm những sĩ phu cương quyết chống lại. Ông đã dâng sớ lên can vua Tự Đức: không nên nhượng bộ Pháp nữa, nên ông bị giáng xuống làm Chánh sứ sơn phòng lo việc khai hoang. Năm 1873, người Pháp đem quân  đánh Bắc Kỳ lần thứ nhất. Sau khi thương thuyết, họ chịu trả lại bốn thành cho triều đình Huế, thì Dương Khuê được điều động làm Án sát Hải Phòng.

       Năm 1878, nhân lễ “ngũ tuần khánh thọ ” (50 tuổi) của mình, vua Tự Đức xuống chỉ cho ông làm Đốc học Nam Định. Sau đó, ông lần lượt trải các chức: Bố chính, Tham tá Nha kinh lược Bắc Kỳ, Tổng đốc Nam Định-Ninh Bình.

       Năm 1897, Toàn quyền Paul Doumer xóa bỏ điều 7 của Hòa ước Giáp Thân 1884, đặt cơ sở cho guống máy cai trị của Chính phủ bảo hộ, thì Dương Khuê xin cáo quan, lúc 58 tuổi, được tặng hàm Thượng thư bộ Binh.

       Trong sự nghiệp sáng tác thơ của ông, nổi tiếng là bài “Hồng hồng Tuyết tuyết…”, (Gặp lại cô đầu cũ) đây là bài thơ phổ cập cho những người bắt đầu hát ca trù. Hai anh em Dương Khuê, Dương Lâm, cùng với các tài tử văn nhân như: Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Chu Mạnh Trinh, Vũ Phạm Hàm,…, đã góp phần làm nghệ thuật ca trù trở nên phổ biến. Dương Khuê mất ngày 6 tháng Ba năm Nhâm Dần (1902). Nghe tin, bạn thân ông là Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến đã làm bài thơ nổi tiếng nhan đề Khóc bạn để viếng ông (trong đó mở đầu bằng câu: “Bác Dương thôi đã thôi rồi”). (Dẫn theo website “Họ Dương Việt Nam”)

       Gặp lại cô đầu cũ

Hồng Hồng, Tuyết, Tuyết,

Mới ngày nào chửa biết cái chi chi.

Mười lăm năm thấm thoắt có xa gì!

Ngoảnh mặt lại, đã tới kỳ tơ liễu.

Ngã lãng du thời, quân thượng thiếu,

Kim quân hứa giá, ngã thành ông

Cười cười nói nói thẹn thùng,

Mà bạch phát với hồng nhan chừng ái ngại.

Riêng một thú Thanh Sơn đi lại,

Khéo ngây ngây dại dại với tình.

Đàn ai một tiếng dương tranh...

(Thanh Sơn: là làng THANH Thần, huyện SƠN Minh, đây là quê Dương Khuê và là làng xưa có nhiều cô đầu con hát)


HỌC SINH VIẾNG THẦY ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH

      

Khi Đặng Đức Địch quy tiên, có nhiều câu đối của học trò viếng thầy. Thử trích dẫn một đôi của học trò là Cử nhân Trương Khắc Nhượng và Tú tài Bùi Đồng viếng thầy: (ảnh 9).

朝庭功業銘异鼎  

儒舘文章仰斗山

門生舉人張克讓秀才裴桐

Triều đình công nghiệp minh dị(1) đỉnh,

Nho quán văn chương ngưỡng Đẩu sơn,

Môn sinh Cử nhân Trương Khắc Nhượng(2), Tú tài Bùi Đồng,

Tạm dịch:

Sự nghiệp lẫy lừng, triều đình ghi đỉnh vạc,

Văn chương lồng lộng, làng nho ngắm Đẩu Sơn(3).

CHÚ THÍCH:

(1) - Chữ thứ 6 vế 1, tôi đã nhầm rất lâu là chữ Tầm = , và không hiểu được ý nghĩa thế nào là “tầm đỉnh = 鼎”. Rất may mắn, đem điều hồ nghi, thắc mắc ấy hỏi các bậc túc nho bè bạn, đã được giảng cho rằng đó là chữ DỊ = , đã được các cụ xưa viết… thành như thế. Thật thú vị!

       (2) - Trương Khắc Nhượng người huyện Chân Định, tỉnh Thanh Hoá, đỗ Cử nhân Khoa thi 1886 thời Đồng Khánh.

       (3) – Đẩu Sơn = Sao Bắc đẩu, Núi Thái Sơn, (núi cao, sao sáng) – những biểu tượng cao quý đứng đầu trong quần thể, xứng đáng để ngưỡng mộ, noi gương, học tập, phấn đấu. Ở đây để nguyên chữ “Đẩu Sơn” không diễn dịch, để cho phần dịch thành… câu đối!


       HỌC TRÒ - CỬ NHÂN ĐẶNG ĐỨC NHU VIẾNG THẦY - PHÓ BẢNG THƯỢNG THƯ ĐẶNG ĐỨC ĐỊCH

 

       Đặng Đức Nhu người làng Hành Thiện, là học trò của Phó bảng - Thượng thu Đặng Đức Địch. Khi Đặng Đức Địch mất, Đặng Đức Nhu (khi đó đang là Tri phủ Kiến Thuỵ - Kiến An - Hải Phòng) có đôi câu đối viếng thầy như sau: (ảnh chép tay xưa kèm theo).

       Kính mời các bác, các bạn chữ nghĩa xem, thử ngắt câu, dịch và chú đôi câu đối này! Tôi phiên âm thế này:

尚有老成其言足以興其默足以容為後學者尊師豈惟文字

居然井邑某邱之所遊某水之所釣讀先生傳記不覺涕泠

門生建瑞知府鄧德濡

       Thượng hữu lão thành kỳ ngôn túc dĩ hưng kỳ mặc túc dĩ dung vi hậu học giả tôn sư khởi duy văn tự,

       Cư nhiên tỉnh ấp mỗ khâu chi sở du mỗ thuỷ chi sở điếu độc hương tiên sinh truyện ký bất giác thế linh

       Môn sinh Kiến Thuỵ Tri phủ Đặng Đức Nhu


        Đỗ Trác

(sưu tầm và dịch)












1 nhận xét:

  1. Không biết chữ nghĩa các cụ xưa viết thế nào, chứ 潞公 Lộ Công mà chú là Tử Lộ 子路 thì quả là các thày cần xem xét lại chăng.

    Trả lờiXóa