TRUYỆN NHẶT : Tản văn / Trần Mỹ Giống. – H. : Nxb. Hội Nhà văn, 2021. – 196 tr. ; 21 cm. – T.1
LỜI THƯA
Thưa các bạn đọc!
Mỗi khi quần tam tụ ngũ với bạn bè,
chúng tôi thường tếu táo chuyện trên trời dưới biển. Nhiều khi có ông bạn nào
đó kể một câu truyện gì đó thấy hay hay, tôi bèn ghi nhớ rồi viết lại thành mẩu
để đọc chơi lúc trà dư tửu hậu. Tất nhiên là tôi có nêm tý gia vị cho truyện đỡ
nhạt.
Có khi bất chợt gặp sự việc, lời nói,
hành động của một ai đó gây ấn tượng cho mình, tôi cũng ghi lại, nhiều khi chẳng
thêm mắm muối thì tự nó cũng nói được một điều gì đó.
Lại có lúc tôi gặp chuyện gì đó vui
buồn về người thân, về bản thân, tôi cũng ghi lại, gửi tâm hồn tình cảm mình
trong đó. Âu đó cũng là một cách tự giải tỏa về mặt tinh thần, thể hiện tình cảm
suy nghĩ của mình, và xả trét.
Ghi được mẩu nào là tôi lên trang mạng
Facebook.
Mấy ông bạn văn bạn đọc khuyên tôi tập
hợp những mẩu truyện trên Facebook thành tập, để đọc chơi cho vui, để cười, để
suy ngẫm.
Tôi nghĩ truyện mình viết chẳng qua
chỉ là những mẩu nhỏ nhặt để thỏa mãn chính mình, nhưng được bạn bè động viên
khích lệ nên tôi mạnh dạn trình làng Truyện nhặt Trần Mỹ Giống tập 1, mong góp
cho bạn đọc những phút giây thư giãn.
Xin cảm ơn các bạn đã đọc.
TRẦN MỸ GIỐNG
PHÊ
BÌNH MỀM DẺO
Anh là nhà nghiên cứu phê bình văn học
có danh. Khi nghe tôi đọc câu:
“Trông thấy em, anh chỉ muốn vào tù”, anh liền hỏi:
- Cậu đọc cái gì vậy?
Tôi bảo:
- À, em đọc câu thơ của một nhà thơ Việt
Nam, lãnh đạo tòa soạn ta đấy ạ.
- Thế à? Thằng này
chắc còn ngồi ghế lãnh đạo tòa soạn lâu đây.
- Anh thấy câu thơ
này thế nào ạ?
- Hay! Rất hay! Câu thơ tả gián tiếp một cách tế nhị cái đẹp của “em” – cô gái biu-ti-phun - đẹp đến
nỗi tác giả mới vừa nhìn thấy đã ngưỡng mộ, say mê, ham muốn đến bất chấp tất cả.
Để được chiếm đoạt cô, tác giả sẵn sàng chịu hình phạt cao là vào tù, mà còn rất “muốn vào tù” nữa thì chứng tỏ cô gái đẹp đến mê hồn thế nào.
Câu thơ còn thể hiện được một nét tâm
lý phổ biến của đàn ông đối với cái đẹp khác giới. Giỏi! Giỏi!
*
Ba năm sau, tôi lại
đọc câu thơ “Trông thấy em anh chỉ muốn vào tù” để nhâm nhi thưởng thức cái đẹp
của cô gái và tài năng của tác giả mà nhờ anh truyền cho hiểu biết và cách thẩm
định. Anh la lớn:
- Thô thiển! Thô thiển! Không có một tí
chất thơ nào! Chỉ có những thằng tâm thần mới muốn vào tù vì một cô gái, mà cái
cô gái ấy đẹp xấu thế nào cũng chưa biết. Thơ thằng ấy
như cứt. Một thằng chỉ giỏi thủ đoạn
man trá cầu danh cầu lợi, lợi dụng quyền chức tranh giành giải thưởng với anh em thì làm sao có thơ hay được. Nó bị
trên cách chức là quá đúng!
Tôi ngạc nhiên:
- Ơ, câu này anh đã bình cách đây ba
năm…
Anh cắt lời tôi:
- Phê bình mà nguyên tắc cứng nhắc máy
móc như cậu thì chỉ có… gẫy. Phải biết phê bình mềm dẻo, bám sát thực tế. Thực
tế luôn biến đổi, ngày hôm nay khác ngày hôm qua. Phê bình mà xa rời thực tiễn
thì sẽ bị đào thải. Rõ chưa!
Hội những người yêu thơ tỉnh tổ chức một
cuộc thi sáng tác, đọc - bình thơ để khuấy động phong trào sáng tác và thưởng
thức thơ. Thể lệ đại để là: Tất cả các công dân có hộ khẩu trong tỉnh đều có
quyền dự thi. Mỗi thí sinh gửi dự thi từ 1 đến tối đa 5 bài thơ, bài dài không
quá 30 câu. Ban giám khảo sẽ căn cứ vào số lượng lượt người đọc và bình thơ của
từng bài để xếp loại trao giải cho tác giả.
Kết quả cuộc thi được công bố:
- Sau một tuần phát động, ban tổ chức đã
nhận được 5.000 bài thơ, bài nào cũng đủ 30 câu, của 1.000 tác giả gồm đủ các
thành phần trong xã hội: Công nhân, nông dân, trí thức, quan chức, nhà thơ các
cấp (toàn quốc, tỉnh, huyện, làng, xóm, phường, xã…)
- Qua ba tháng tích cực làm việc, với
tinh thần vô tư công bằng chính xác, ban giám khảo đã quyết định: Trao đồng giải
Nhất (không có giải nhì và các giải khác) cho 1.000 tác giả có 5 bài dự thi, mỗi
bài đều có một lượt người đọc và một lời bình có cánh.
Một bữa tiệc lớn mừng cuộc thi thành
công mỹ mãn do các tác giả tự nguyện đóng góp được tổ chức ở nhà hàng sang nhất
tỉnh. Ban giám khảo và các tác giả ai nấy đều hân hoan.
Thật là một cuộc thi hoàn hảo!
TÔI
BỊ KIỆN
Năm 2008, tôi trình làng cuốn “Tác gia Hán - Nôm Nam Định”.
Đây là tác phẩm đầu tiên tôi đứng tên một mình trên vị trí tác giả. Tôi háo hức
ký tặng các cây đa cây đề của bộ môn nghiên cứu phê bình (Hội VHNT Nam Định)
trước tiên. Tác phẩm được nhận tài trợ xuất bản loại A của Hội. Loại A khi ấy
được một triệu rưỡi Việt Nam đồng.
Nhận tài trợ được mấy ngày thì
ông Trần Văn Sản - Trưởng phòng hành chính của Hội gọi điện sốt sột cho tôi:
- Anh phải nộp lại tiền tài trợ thôi, vì có hai cây đa
cây đề của bộ môn anh hai lần lên kiện là tác phẩm của anh đã được Sở Văn hóa
Thông tin tỉnh tài trợ năm mươi triệu đồng rồi.
Tôi vừa ngạc nhiên, vừa bực mình, hỏi hai cây đa cây đề
ấy là ai thì ông Trần Văn Sản không nói. Nể ông Trần Văn Sản là đồng tộc nên
tôi nhẹ nhàng:
- Tôi sẽ nộp trả lại với điều kiện Chủ tịch Trần Đắc
Trung ra quyết định thu hồi, vì ông Trần Đắc Trung ký quyết định tài trợ cho
tôi.
Tôi chờ mãi mà không thấy ai
gửi cho quyết định thu hồi tiền tài trợ. Cũng không thấy ông Trần Văn Sản nhắc
gì đến chuyện này nữa.
Một lần ngồi tán phễu với ông Chủ tịch Trần Đắc Trung,
tôi có gợi chuyện tác phẩm của tôi bị kiện thế nào, ông Trần Đắc Trung cười:
- Có chuyện đó, nhưng tôi bỏ ngoài tai. Ông Tiến sĩ
Nguyễn Xuân Năm nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin tỉnh còn đang sinh hoạt
trong bộ môn nghiên cứu phê bình sờ sờ ra kia, ông ấy mà tài trợ cho bác năm
mươi triệu in sách thì có mà… trời sập. Thôi bác bỏ qua đi!
Nghe ông Trần Đắc Trung, tôi lơ chuyện bị kiện, không
tìm hiểu xem hai cây đa cây đề kiện tôi là ai nữa. Mà có tìm hiểu thì cũng hơi
khó, vì loại cây đa cây đề thật sự cũng như loại cây đa cây đề ngộ nhận ở bộ
môn nghiên cứu phê bình của tôi có cả đống, dễ tới hai phần ba số hội viên ấy
chứ!
Chuyện tác phẩm đầu tiên tôi đứng tên tác giả bị kiện
thành kỷ niệm không vui khó mà quên đi được. Tôi không còn dám ngây thơ cả tin
ngưỡng mộ các cây đa cây đề như thánh nhân nữa, mà luôn tự nhủ họ cũng chỉ là
con người thôi.
TÔI
TRƯỢT HỘI VĂN NGHỆ DÂN GIAN
Tôi từng rất ngưỡng mộ cái Hội Văn nghệ
dân gian, từng mơ ước được là hội viên cái hội này. Nhà nghiên cứu Lê Xuân
Quang là hội viên cái hội này mà tôi rất yêu quý và ngưỡng mộ. Cụ Lê có vài chục
tác phẩm còn ở dạng bản thảo đã được nhận giải thưởng của hội. Tấm gương của cụ
càng thôi thúc tôi phấn đấu vào hội.
Thời nhà nghiên cứu Hồ Đức Thọ làm Chi hội
trưởng Chi hội Văn nghệ dân gian Nam Định, ông đã vận động tôi, nhà nghiên cứu
Đồng Ngọc Hoa và nhà nghiên cứu Phạm Văn Huyên làm lý lịch để chi hội xét đề
nghị kết nạp. Ông Hồ Đức Thọ tỏ ra rất chu đáo khi bảo tôi:
- Chi hội họp và quyết định kỳ này xét đề
nghị kết nạp ba ông Giống, Hoa, Huyên. Các ông làm lý lịch và đơn xin gia nhập
hội theo mẫu và xin chữ ký giới thiệu của hai hội viên rồi nộp cho tôi. Chi hội
đã phân công ông Mai Anh Tuấn và ông Đỗ Đình Thọ giới thiệu bảo đảm cho các
ông. Ông cứ đến hai ông này lấy chữ ký.
Được nhời như cởi tấm lòng, tôi nhanh
chóng hoàn thành hồ sơ và hăm hở đi xin chữ ký của hai hội viên được chi hội
phân công giới thiệu chúng tôi. Hồi ấy nhà tôi ở Ô19, gần nhà ông Mai Anh Tuấn ở
Ô17 nên tôi đến ông Mai Anh Tuấn trước. Tôi chưa kịp trình bày xong lý do buổi
gặp thì ông Mai Anh Tuấn đã ngắt lời tôi:
- Thôi khỏi trình bày. Mình biết rồi.
Đưa đơn đây mình ký luôn. Ai chứ nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống thì mình còn lạ
gì.
Hồi ấy tôi còn đương công tác ở Thư viện
tỉnh Nam Định. Trụ sở Thư viện tỉnh cách nhà ông Đỗ Đình Thọ chừng năm chục
mét. Hôm ấy, sáng tôi sang nhà ông Thọ hai lần, chiều hai lần đều được người
nhà ông Thọ từ trên lầu nói xuống rằng ông Thọ đi vắng. Sáng hôm sau tôi lại
sang nhà ông Thọ hai lần vẫn được bảo ông Thọ đi vắng. Chiều tôi lại sang, vẫn
thế. Thấy tôi năm lần bảy lượt đến ông Thọ mà không gặp, cô hàng xóm gần nhà
ông Thọ rỉ tai:
- Ông Thọ ở nhà đấy. Tôi vừa thấy ông ấy.
Chắc ông ấy không muốn tiếp ông đấy thôi!
Thì ra thế! Hiểu sự tình, tôi thôi chuyện
xin chữ ký giới thiệu của ông Đỗ Đình Thọ.
Về sau, ông Hồ
Đức Thọ cho tôi biết lý do tôi trượt hội: “Ông còn mỏng quá!”.
Tôi cũng cố mãi mà chẳng làm sao cho
mình “dày” lên được.
Từ đó đến nay, cả hai ông Đồng Ngọc Hoa và Phạm Văn Huyên, có lẽ cũng giống tôi, vẫn
từ xa mà chiêm bái cái hội cao sang ấy.
NGHỊ
LỰC SỐNG CỦA BẠN TÔI
Phan Trúc Đào là bạn đồng môn Đại học
Thư viện khóa 6 từ 1968 của vợ chồng tôi. Đào người Huế, mang đậm phong cách
gái Huế chính hiệu: Dáng người thanh thoát, các đường cong đẹp rất nữ tính,
tính tình dịu dàng, đặc biệt giọng Huế rất đáng yêu. Cánh Nam Định cùng lớp chúng tôi ngày ấy rất yêu quý Đào. Một trong số
bạn nam quê Nam Định chúng tôi đã một
thời yêu say đắm Đào, nhưng duyên không thành.
Vợ tôi (ngày ấy chưa cưới) cũng rất quý
Đào. Có lần Đào muốn đi xem phim bãi ở ga Yên Viên, chiều Đào, vợ tôi đã bảo
tôi dẫn Đào đi xem cho an toàn, vì từ thôn Long Vĩ (Đình Bảng Bắc Ninh nơi
chúng tôi học sơ tán) cách ga Yên Viên hơn hai cây số.
Thế rồi giữa năm thứ tư tôi nhập ngũ.
Các bạn lớp tôi mỗi người mỗi nơi. Tôi không có dịp gặp các bạn. Năm 1982 tôi
chuyển ngành về cùng Thư viện tỉnh Nam Định
với vợ tôi.
Cách đây hai chục năm, đột ngột vợ chồng
Đào từ thành phố Hồ Chí Minh ra Nam Định
thăm các bạn K6. Khi ấy lớp tôi còn có Thái, Hải cũng công tác ở Thư viện tỉnh
Nam Định. Chúng tôi tổ chức đón tiếp Đào rất tình cảm. Hải gọi những món ăn mà
Đào thích ăn nhất từ ngày còn là sinh viên. Nhìn Đào gầy xanh, tóc còn rất ít
và ngắn, tôi ngờ ngợ Đào bệnh trọng mà không dám hỏi. Hoan - chồng Đào là người
đẹp trai khỏe mạnh và tinh tế, rất chiều vợ. Hoan bảo:
- Nhà tôi bị ung thư vòm họng và ung thư
tuyến giáp giai đoạn cuối. Bác sĩ bảo chỉ sống được ba tháng nữa thôi. Nhà tôi
có nguyện vọng ra Hà Nội thăm trường cũ và bạn bè xưa. Hôm nay về Nam Định gặp các bạn.
Nghe Hoan nói, chúng tôi lặng người chẳng
biết nói sao. Đào chủ động phá vỡ không khí nghẹt thở của mọi người, nói với chồng:
- Em nói rồi mà, các anh ở Nam Định rất yêu quý em.
Tôi chớp lấy điều đó nói to:
- Mình ngày ấy yêu Đào lắm. Cánh nam giới
chúng mình ai cũng yêu quý Đào.
Đào vênh mặt lên rất tự nhiên, thơ ngây
và đáng yêu nói với chồng:
- Thấy chưa! Em đã nói rồi mà! Anh Giống
cũng yêu em lắm mà!
Sau lần gặp ấy, hai mươi năm tôi không
có dịp gặp lại Đào, cũng không có liên hệ với Đào. Nói ra thì xấu hổ, phần vì bị
cuốn vào bao chuyện vui buồn trong cuộc sống, phần vì ngày ấy tôi không có nổi
cái điện thoại, thành ra mất liên lạc với Đào. Mấy năm trước nghe tin bạn bè đồn
vợ chồng Đào đều đã mất từ lâu. Vợ chồng tôi cứ thấy buồn buồn và thương Đào.
Thế rồi bất ngờ đầu năm nay, Thành (bạn K6 với chúng tôi) thông tin Đào vẫn còn
sống, nhưng chồng Đào mất đã bảy năm rồi. Tôi mừng quá mà vẫn không dám tin.
Tôi tra tìm Đào trên FB mà không được liền hỏi lại Thành. Thành bảo Đào không
dùng FB, đào gửi cho Thành hai ảnh gia đình qua Za Lô. Vừa hay, con gái tôi tặng
tôi cái Ai Pat mới, tôi lập luôn Za Lô và liên hệ với Đào.
Từ lâu Đào không còn phát âm được nữa.
Chúng tôi giao lưu với nhau bằng hình ảnh và chữ viết. Hiện Đào sống một mình ở
thành phố Hồ Chí Minh, tự lo mọi việc thuốc thang, ăn uống, thể dục hàng ngày.
Đào có hai con gái sinh đôi đã theo chồng. Con cháu thường qua lại thăm nom
Đào.
Từ hôm nối được liên lạc, Đào ngày nào
cũng gửi cho tôi hình ảnh và ghi chép hàng ngày. Tôi chú ý đến việc mỗi ngày
hai lần Đào đi bộ 30 phút sáng và chiều; vẩy tay (Dịch Cân Kinh) 30 phút sáng
và chiều; nuốt đỗ đen ngày một lần (không thấy ghi bao nhiêu hạt). Đào viết cho
tôi: “Bác sĩ bảo mình chỉ sống được ba tháng mà tới nay mình bám trụ được hai
chục năm rồi. Kết hợp uống thuốc mình kiên trì tích cực tập luyện. Các bác sĩ
ngày ấy khám chữa cho mình đều kinh ngạc không thể tin nổi”.
Cái cốt nõi tôi muốn nêu một nghị lực của cô gái nhỏ
bé bạn tôi bị ung thư lúc 51 tuổi mà bác sĩ bảo chỉ sống được ba tháng, vậy mà
cô ấy đã 71 tuổi rồi vẫn sống kiên cường… với những người bạn tôi yêu quý chẳng
may mắc căn bệnh quái ác tương tự.
DẠI
THÌ CHỊU NHÉ!
Nhân dịp kỷ niệm 22 – 12, ngày thành lập
Quân đội nhân dân Việt Nam vừa rồi, có một công ty nhiếp ảnh đã tổ chức tặng
quà tri ân các cựu chiến binh. Quà tri ân là một bộ ấm chén và chụp một tấm ảnh
kỷ niệm cho hai vợ chồng (nếu còn sống cả).
Bữa ấy tôi phải nằm viện không đi nhận
quà được. Khi ra viện tôi hỏi ông chi hội phó cựu chiến binh thì được ông cho
biết:
- Quà ấm chén chỉ tặng cho vợ chồng cựu
chiến binh nào đến chụp ảnh và phóng kỷ niệm thôi.
Tôi buột mồm:
- Thế thì tri ân cái chó gì!
Tôi bỏ về, gặp ông bạn cựu chiến binh
cùng xóm đang chửi ầm ĩ ở đầu ngõ:
- Tiên sư bọn lừa đảo! Lãnh đạo chi hội
đưa giấy mời cả hai vợ chồng báo chụp ảnh và tặng quà tri ân. Vợ chồng tôi bỏ
buổi phu hồ để đi nhận quà. Hôm nay đến lấy ảnh, nó lại đòi nộp chín trăm nghìn
đồng. Chín trăm nghìn bằng sáu ngày công lao động phu hồ của vợ chồng tôi đấy
ông ạ.
Tôi ngao ngán
bỏ về nhà, nghĩ bụng: Chuyện chụp ảnh mời như ép người ta phải phóng ảnh để con
cháu thờ, in ảnh cùng người nổi tiếng lên tấm gỗ, in ảnh lên tờ lịch… đã diễn
ra nhiều năm rồi. Nhiều người nghe họ nài nỉ nể quá mà phải đồng ý. Tôi cũng nể
quá mà mấy bận phải đồng ý phóng ảnh giá cao. Tỷ như cái ảnh chân dung cỡ 20 x
30 cm là một ví dụ. Tôi phải trả họ 250.000 đồng, trong khi đó phóng ảnh cho vợ
còn to hơn ở cửa hàng ảnh hết có 180.000 đồng (cả khung).
- Bố tiên sư quân lừa đảo!
Nghe tôi chửi, vợ tôi hỏi:
- Ông chửi ai lừa đảo vậy?
- Bọn chụp ảnh tặng quà tri ân cựu chiến
binh chứ ai!
- Có được lãnh đạo hội và chính quyền
cho phép nó mới dám làm thế chứ! Nó phải bóp cổ các ông để bù khoản bôi trơn
thôi. Ông dại thì chịu nhé, chửi ai bây giờ?
Ừ nhỉ! Đúng là mình dại thì chịu, chửi
ai bây giờ?
MỒNG MỘT TẾT MƯA TRÀN LỘC TRONG NHÀ
Thuở bé đến giờ lão mới thấy mồng Một Tết
trời mưa to như trút nước thế này.
8 giờ sáng bước chân xuống giường lão thấy
nước tràn từ giếng trời chảy xuống cầu thang luênh loáng sàn tầng một. Bếp và nhà tắm tầng một, tầng hai cũng ngập nước.
- Tắc máng, tắc ống thoát nước rồi bà
ơi! Tôi đau lưng quá, bà gọi con về nó sửa.
- Thôi ông ạ. Các con nó bận lắm.
- Vậy tôi lên mái nhé!
- Cẩn thận đấy ông ạ. Để tôi giữ thang.
Chui lên tầng thượng lão thấy lá lẩu lấp
đầy ống thoát nước, nước dềnh lên cao cả gang tay.
Bà hàng xóm thấy lão lúi húi giữa trời
mưa to, kêu lên:
- Mồng Một Tết mà ông trèo lên mái làm
gì, ngoài bảy mươi rồi, ngã thì khốn. Ông cẩn thận đấy.
- Tắc ống thoát nước, nước tràn xuống cả
tầng một bà ạ.
- Con cái đâu, ông bà không gọi chúng về.
- Vợ chồng thằng cả vừa chuyển về nhà mới
rồi. Vợ chồng già tự lo thôi, biết sao hả bà.
Bà hàng xóm lắc đầu đọc ca dao:
- “Mẹ cha mỗi tuổi một già / Mong con
khôn lớn để mà cậy trông” / Bây giờ đủ cánh đủ lông / Bỏ cha mẹ lại vợ chồng
con đi.
- Khi nào chỉ còn một người thì cũng phải
đi theo con thôi bà ạ. Gái trai ba đứa chả nhẽ không đứa nào đón cha mẹ hả bà.
Bà hàng xóm lại véo von:
- Gái mà chi, trai mà chi / Con nào có
nghĩa có nghì thì theo. Đứa nó đã không có tâm thì có cố theo nó cũng chả sung
sướng gì. Có khi ông bà cứ ở đây lại hơn.
- Vâng. Tôi xuống đây bà ạ.
Bà hàng xóm nói vớt:
- Năm nay chúng nó đi rồi, có sắm Tết
cho ông bà không?
- Có bà ạ. Vợ chồng thằng cả mua cho hoa
hoét, đào đẹp như mọi năm, giò, kẹo bánh, hoa quả đủ cả bà ạ. Vợ chồng thằng út
với vợ chồng con gái nhớn thì sắm nồi cơm điện hiện đại, biếu tiền cho bố mẹ
tiêu Tết. Chả thiếu thứ gì mà sao tôi vẫn thấy thiếu thiếu cái gì ấy bà ạ.
Mười giờ trời ngớt mưa. Bà lão xắn quần
đến háng, lộ cặp đùi teo tóp như hai ống que, ngồi lê la lau nhà. Mớ giẻ vừa tiếp
sàn đã hút đẫm nước. Bà lão vắt nước vào chậu nhựa rồi lại vất mớ giẻ xuống
sàn.
Lão thở dài, bảo:
- Năm nay lạ bà nhỉ. Nhà mình mồng Một Tết
đã tràn trề nước thế này chắc năm nay nhiều lộc lắm đấy.
Bà lão vẫn cặm cụi lau nhà. Lão lại bảo:
- Bà chuẩn bị cơm nước đi, xem trưa nay
có cháu nào về không.
Nói rồi lão chậm chạp từng bước từng bước
trèo lên cầu thang vào phòng máy tính. Vừa lê lên tầng, lão vừa thầm tự hỏi:
“Không biết là mình còn thiếu thứ gì mà lòng trống trải thế nhỉ?”
Nghe tiếng trẻ gọi dưới đường: “Ông bà
ơi! Mở cổng cho cháu!”, lão giật mình tỉnh như sáo, bước vội xuống cầu thang.
Ra là cháu ông hàng xóm. Lão lại từng bước từng bước nặng
nhọc trèo trở lại phòng máy tính. Mắt
dán vào màn hình, nhưng lão vẫn giỏng tai ra cổng lắng nghe…
TÀI
NĂNG NẰM Ở ĐÂU?
Trong khi chờ phòng đọc
thư viện mở cửa, hai ông bạn đọc trao đổi về chuyện văn chương. Một ông gợi
chuyện:
- Này, ông có theo dõi
cuộc tranh luận về Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Lương Thế Vinh, mà thực chất
là về việc đánh giá tiểu thuyết “Đứa con mang hai họ” của
tác giả Hồng Quốc Văn trên báo Văn nghệ Trẻ đầu năm 2007 không?
Ông kia sôi nổi :
- Có chứ! Giải thưởng
Lương Thế Vinh là giải lớn nhất về văn học nghệ thuật của tỉnh nhà, không quan
tâm sao được. Cuộc tranh luận kéo dài hơn ba tháng trời, trên mười mấy số báo,
sôi sục đáo để.
- Bài “châm ngòi” của bạn
đọc Trần Ngọc Minh làm nổ bùng cuộc tranh luận, bài phê bình của nhà văn Hữu
Anh chẳng kém gì một “cú đấm”, mà bài “phản pháo” của Hồng Quốc Văn cũng đại
ngôn ghê quá ông nhỉ!
- Vâng! Cứ theo giọng
điệu và nội dung bài của Hồng Quốc Văn thì ông ta là một nhà văn có tài cỡ nhất
tỉnh ta chứ chả chơi.
- Đúng vậy! Tôi đã bỏ
ra mấy ngày liền để đọc cuốn tiểu thuyết “Đứa con mang hai họ” và tập truyện ngắn “Canh bạc cuối đời” của
tác giả trẻ này.
- Vậy ông thấy tài năng
của tác giả này thể hiện ở thể loại nào?
- Khi đọc tiểu thuyết của
Hồng Quốc Văn, tôi nghĩ tài năng của tác giả nằm cả ở truyện ngắn. Nhưng khi đọc
truyện ngắn của Văn thì tôi lại thấy tài năng của tác giả này nằm ráo ở tiểu
thuyết của ông ta.
XUẤT
THẦN
- Bố ơi! Trong bài viết về sông Vị Hoàng
của ông Đờ Thờ đầy ắp tư liệu sưu tầm
thơ văn từ cổ chí kim nói về sông Vị.
- Ừ! Phải đọc kỹ những bài văn của những
người giỏi như ông Đờ Thờ ấy mới mở mang được đầu óc con ạ!
- Nhưng mà... ông ấy viết trong lúc mê sảng
hay sao ấy bố ạ!
Bố Tĩn:
- Mày dùng từ sai bét cả. Phải nói là
tác giả viết trong trạng thái “xuất thần” hoặc “thăng hoa” chứ!
- Thế con hỏi bố: Sông Lấp trong thơ cụ
Tú Xương nhắc đến là sông gì ạ?
- Là sông Vị Hoàng của thành Nam chứ còn sông gì? Dân thành Nam ai mà chả biết.
- A! vậy thì đúng rồi. Đoạn trên ông Đờ
Thờ dẫn bài “Sông Lấp” của cụ Tú Xương:
Sông kia rày đã lên đồng
Chỗ làm nhà cửa, chỗ giồng ngô khoai
Vẳng nghe tiếng ếch bên tai
Giật mình còn tưởng tiếng ai gọi đò.
Cứ theo cụ Tú Xương thì đích thị là sông
Lấp - sông Vị Hoàng đã bị lấp mất rồi. Vậy mà đoạn sau ông ấy lại kết luận rằng
sông Vị vẫn còn chứ có mất đi đâu – Đó chính là sông Đào Nam Định đấy. Đúng là ông ấy viết trong trạng thái mê... à...
trong trạng thái “xuất thần”, “thăng hoa” bố nhỉ!
- !!!
NẰM
VIỆN
I- HỌA VÔ ĐƠN CHÍ
Tự nhiên tai trái lão bị đau ngứa đến ù
như điếc cả tuần không đỡ. Lão đành đi khám bệnh. Bác sĩ bảo lão bị nấm sợi ống
tai trái, phải nhập viện điều trị ít nhất là hai đợt, mỗi đợt 15 ngày.
Nằm khoa da liễu bệnh viện đa khoa tỉnh
được 8 ngày thì bà dì ruột lão mất ở quê. Lão buộc phải xin ra viện về chịu
tang dì.
Hai ngày phục tang dì xong, hai vợ chồng
lão đi xe máy từ Giao Thiện (Giao Thủy) về tỉnh. Quá mệt mỏi, nên lão đi chậm.
Qua ngã ba Cổ Lễ - đường 21 thì bất ngờ lão nghe đánh rầm, rắc rắc, rồi ngã lăn
quay giữa đường. Định thần, nhờ người bên đường dìu đứng dậy, lão thấy vợ còn
ngồi bệt giữa đường, đầu gối xước tua rướm máu, ánh mắt thất thần. Lão vội giơ
tay bước đến để đỡ vợ thì bàn chân phải, ngực trái và bả vai nhói đau. Cánh tay
trái lão phản xạ tự nhiên ép vào sườn, cẳng tay co lại ôm chặt bụng. Lão có cảm
giác làm thế cái đau đỡ đi phần nào. Ai đó đỡ vợ lão dậy. Vợ lão bấm điện thoại
gọi cho các con ở thành phố, nhưng tay run không sao thực hiện được. Một ai đó
đã bấm gọi hộ. Lão phều phào hỏi vợ:
- Bà có bị thương chỗ nào nặng không? Đầu
gối…?
Vợ lão lấy lại bình tĩnh, trấn an lão:
- Tôi không sao. Đầu gối xước da thôi.
Ông thấy trong người thế nào?
- Tôi… đau…
Lão bắt đầu như ngất đi, như mơ ngủ.
- Mở cửa xe đưa ông lên.
- Đi luôn Bệnh viện đa khoa tỉnh chứ bà?
- Ừ. Ông có bảo hiểm ở đó.
*
Khi lái xe gọi to: “Ông ơi, tới rồi ạ”,
lão mở mắt, giơ tay phải mở cửa xe, mãi không mở được. Mu bàn tay lão đầy máu lẫn
thuốc lào và lông Cu Li do dân nơi xảy ra tai nạn đắp cầm máu cho.
- Để cháu mở cho ông.
Lão đưa chân phải ra đứng lên thì cảm
giác nhói đau, lại ngồi bệt xuống ghế. Vừa khi ấy, các con giai, con gái và vài
người bạn của con lão, con dâu, con rể, mấy đứa cháu lão đã kịp đến bế lão đặt
lên xe lăn.
Từ phòng chụp hình, siêu âm đến phòng mổ
là quãng đường dài như vô tận, là cực hình với lão. Mỗi cái vấp của bánh xe là
một lần buốt đau tận óc. Lão nhắm mắt, gồng người chịu đau. Loáng thoáng ai đó
nói bên tai lão:
- Ông phải mổ nẹp đóng đinh xương đòn
trái. Nhanh thôi ông ạ. Không sao đâu.
Lão nghĩ: Các cụ nói không sai, thật là
họa vô đơn chí.
*
Bác sĩ áo xanh luồn ống thở vào hai lỗ
mũi lão, nói:
- Ông hít thở sâu vào.
Lão hít thật sâu, thật sâu. Rồi lão nghe
tiếng khoan bắt vít vào tường. Rồi lão thấy bố mẹ lão dắt lão đi trên con đường
quê đầy hoa lá. Rồi lão thấy bỗng nhiên mình rơi vùn vụt xuống một vực sâu đen
ngòm, cây cối đá núi cứ vun vút chạy ngược lên trên. Lão nghĩ, phen này mình
chết chắc rồi, nhưng mình chưa thể chết được, còn phải đưa đón cháu nội đi học,
còn phải bế cháu đích tôn sắp ra đời, còn phải đợi dự cưới cháu ngoại, còn nợ
bao nhiêu là bài của bạn văn chưa lên trang blog. Chợt lão nhớ chuyện vợ nhà
báo Trần Anh Kim 7 lần mổ ung thư, một lần sơ ý bị rơi xuống hố ga sâu 2 mét.
Trong lúc bất lực, chị chỉ còn biết liên tục niệm “Nam mô
a di đà Phật”. Thế rồi chị cảm thấy như có lực hỗ trợ nâng chị lên miệng hố ga
và chị thoát chết. Lão lập tức luôn mồm niệm “Nam mô A di
đà Phật… Nam mô a di đà Phật…”. Chợt
lão thấy một chú tiểu cầm cây chổi cán dài đang bay từ dưới lên. Khi lão rơi
ngang chú tiểu, lão liền chộp lấy cán chổi của chú tiểu. Và lão lấy lại thăng bằng,
như đứng trên mặt đất.
Lão thấy ai đó đang
lay vai lão, hỏi tiếng nhỏ rồi to dần:
- Ông ơi, ông tên là gì ạ?
Lão cố cất tiếng trả lời:
- Trần Mỹ Giống.
- Ông thấy trong người thế nào? Có đau ở
đâu không?
- Không thấy đau… nhưng không sao nhắc
nhói người được.
Tiếng người hỏi nói với người khác:
- Ông tỉnh rồi, không sao đâu các chị ạ!
II- TRONG CÁI RỦI CÓ CÁI MAY
Vợ lão vừa xoa bóp nhẹ nhàng lên tay
chân lão, vừa bảo:
- Ông bị thế này còn là may đấy. Chứ nếu
ông bị vào đầu thì không biết rồi sẽ ra sao.
Lão định cãi vợ: “Đã thế này rồi còn may
nỗi gì” nhưng vốn yêu nể vợ nên lão lại nằm im. Vợ lão lại bảo:
- May mà ông đi chậm, chứ đi nhanh thì…
Láy sau, vợ lão lại kể:
- Thằng bé đâm phải ông là đứa trẻ ngoan
ông ạ. Nó nhận lỗi ngay và lo thu xếp đưa ông đi viện. Từ hôm ông bị mổ đến nay
nó vẫn túc trực thăm nom ông. Khổ thằng bé vừa ra trường chưa có việc làm, sáng
nay còn bị công an bắt xe về đồn vì để xe lòng đường mua hoa quả thăm ông đấy.
- Xe của tôi thế nào?
- Thằng bé quay về Cổ Lễ sửa chữa và
mang lên cho ông rồi. Nếu nó như đứa khác, nó đổ lỗi cho ông hay bỏ chạy thì
mình cũng chịu ông ạ. Tôi bảo nó là ông có bảo hiểm rồi, cháu không phải lo tiền
nong gì đâu, về đi mà lo lấy xe ra và lo công việc.
- Sao bà không bảo chú Hải xin xe cho
nó. (Chú Hải là em út lão, là trưởng phòng ở công an thành phố).
- Nào tôi có hỏi tên tuổi thằng bé đâu
mà biết mà nhờ chú Hải, với lại nó cũng về rồi.
*
Một người bạn của con lão là trưởng khoa
trong viện đến thăm bảo lão:
- Chúng cháu đã nhờ bác sỹ phẫu thuật giỏi
nhất viện mổ cho ông rất kịp thời. Kiểm tra sau mổ, ổn rồi. Ông không phải lo lắng
gì nhé!
- Vâng, cảm ơn các chú.
Ừ, đúng là trong cái rủi có cái may.
III- HẠNH PHÚC TRONG BẤT
HẠNH
Bà vợ lão phàn nàn:
- Tôi đã cấm con cháu đưa tin ông tai nạn
lên mạng để đỡ phiền bạn bè ông phải đến thăm trong cảnh đầy người bệnh máu me
mất vệ sinh và ồn ào như chợ vỡ trong buồng cấp cứu này… mà sao lắm người biết
đến thăm ông thế cơ chứ!
Ngay ngày đầu nằm viện, hầu hết bạn bè
thân thiết trong thành phố của lão đã đến thăm, có người cách ngày lại đến
thăm. Rồi bạn bè, cơ quan của các con lão. Rồi bà con hàng xóm của lão, của các
con lão. Rồi họ hàng lão ở quê… rồi…
Có người không thân gì với lão cũng đến
thăm, dúi vào túi lão đồng tiền, chân thành, chất phác như nông dân làm lão cảm
động muốn khóc. Hắn cảm thấy hạnh phúc.
Các con dâu, con trai, con gái tranh
nhau nấu món ăn ngon ép lão ăn. Các con trai và các cháu con chú em lão thay
phiên đêm đêm phục vụ lão vệ sinh trên giường. Thằng cháu con thứ hai chú em
lão chăm sóc lão từng ly từng tý. Nó biết lão muốn gì mà đón việc trước. Đêm
dăm lần đi tiểu, lão đều trông vào nó. Mỗi khi lão rên vì đau, nó lập tức nắn
bóp chân tay, xoa gãi lưng cho lão quên đau. Lão cảm nhận được tình cảm ruột
rà, chân thực của thằng cháu qua từng nhát gãi, cái bóp, cú xoa của nó. Lão cảm
động và cảm thấy cái nhức đau giảm đi rất nhiều.
Lão cố ăn từng thìa cháo do con gái và vợ
lão thay nhau đút tận mồm cho lão, để họ vừa lòng. Lão biết vợ lão với cái đầu
gối tụ máu sưng tấy thì ắt là đau lắm. Nhưng vợ lão cứ làm như chẳng đau đớn gì
nên lão cũng lặng im. Lão rưng rưng nghe vợ lão đọc thư cháu nội học lớp 4 động
viên lão bằng lời lẽ ngây thơ, giàu tình cảm. Lão muốn khỏe nhanh để về nhà!
Ngày thứ 8 lão phải nằm buồng cấp cứu.
Bác sĩ trưởng khoa khám và tuyên bố: “Mai ông được ra viện rồi đấy! Nhưng ông
nhớ ít nhất hai tháng không được đi xe đạp nhé!” Nghe câu nói của bác sĩ, lão
sướng như bắt được vàng. Vợ lão bảo: “Nhận thuốc hết ngày hôm nay là ông có thể
về nhà trước, để các con làm giấy ra viện sau cũng được!”
Được về nhà! Về nhà! Về nhà… Hai tiếng
“Về nhà” cứ reo vang trong đầu lão.
TÔI
ĐI HÁT KARAOKE
Từ khi tuyên bố treo bút nghiên cứu, tôi
từ chối tham luận các cuộc hội thảo khoa học, các cuộc tham gia nghiệm thu phản
biện khoa học, những lời mời thỉnh giảng. Việc viết lách chỉ còn dăm thì mười họa
làm bài thơ, bài văn khi có hứng, đăng blog cho vui. Hầu hết thời gian tôi dành
để đưa đón cháu đi học và giao lưu với bạn già.
Trong nhóm bạn già, tôi và họa sĩ Đặng Nam trẻ nhất hội – Tuổi Kỷ Sửu. Cao tuổi
nhất là cụ Hiện, nguyên cán bộ thành phố, đã ngoại cửu tuần. Cụ Hiện với cụ
Giáo (cũng nguyên cán bộ tuyên giáo cấp thành) cặp kè như đôi sam. Cụ Hiện đi
đâu cũng có cụ Giáo làm tài xế. Cụ Hiện gầy gầy, nhưng không có bệnh tật, nên cụ
khỏe. Tôi mơ được như cụ mà xem ra khó quá. Thứ đến là cụ Trần Quang, nguyên
phó chủ tịch thành phố, năm nay 85 tuổi. Trông cụ lúc nào cũng phong độ, ăn diện
mô phạm, ngày ngày đạp xe rong ruổi cho khỏe.
Chúng tôi thường xuyên tụ tập uống cà
phê ở 78 phố Hùng Vương. Chúng tôi gọi quán cà phê đó là “quán cà phê giẻ
rách”. Ấy là do một lần thấy cháu phục vụ mặc cái quần bò te tua đầu gối, cụ
Quang đùa là trông con bé như nó mặc giẻ rách. Thế là cái tên “giẻ rách” tự
phát được chúng tôi gọi thay tên quán cà phê này. Chúng tôi vừa nhâm nhi cà
phê, vừa tán gẫu những chuyện vui đùa, trêu nhau và cười thoải mái. Những chuyện
đại sự cũng bị chúng tôi biến thành những chuyện cười. Thỉnh thoảng cụ nào có
chồi, có lộc, có nhuận bút thì lại kéo nhau đi ăn ở quán Lý Quốc Sư phố Hàng Sắt,
hoặc phở hay bún chả phố Hàng Tiện, có khi đi quán thịt chó Đồng Quê ở khu Hòa
Vượng.
Chúng tôi lòng dòng đi thăm bạn già, nay
thăm cụ này, mai thăm cụ khác. Nhưng phần lớn thời gian chúng tôi đi hát
karaoke. Cụ Trần Đình Thi có hai cô con gái đi làm ở Nhật. Con gái trang bị cho
bố Thi bộ giàn karaoke hiện đại, máy quay phim, máy chụp ảnh, ghi âm xịn mà nhiều
nhà báo cũng phải ghen tị, mơ ước. Bà Thường, vợ cụ Thi lúc nào cũng đủ cà phê,
chè nước, thức ăn, bia bảng chiêu đãi bạn chồng. Có việc vắng nhà lâu ngày, bà
chuẩn bị sẵn món nhắm cho chồng tiếp bạn hát. Bà Thường quá yêu chiều chồng nên
cánh già chúng tôi được thơm lây.
Nói về hát: Đầu tiên là họa sĩ Đặng Nam. Với giọng khỏe, dầy dặn, âm vang, Đặng Nam hát ca khúc cách mạng rất hợp. Nhưng Đặng Nam lại khoái những bài nhạc vàng. Các bài “Định mệnh”, “Sầu tím
thiệp hồng”... được Đặng Nam thể hiện
khá hay. Đặng Nam đặc trách nhiệm vụ
chụp hình các cụ hát bằng điện thoại, đưa lên Facebook để con cháu ở xa, ở nước
ngoài biết ông cha chúng còn khỏe và lạc quan mà yên tâm làm ăn. “Này, ông Nam, “Úp mặt vào sông quê” này!” (bài “Khúc hát sông quê” ấy
mà). Đang mải đưa ảnh lên mạng, Đặng Nam “Thế
à!” buông điện thoại xuống bàn, cầm micơrô bắt vào nhạc: “Quá nửa đời phiêu dạt...
Con lại về úp mặt vào sông quê...”
Nhà thơ Hoàng Ngọc Trúc đa tài, chèo, cải
lương, dân ca, tuồng, nhạc mới xanh đỏ vàng... món nào cũng thạo. Khi cụ Trúc
hát bài “Phút cuối”, giọng thanh thoát, bổng trầm réo rắt, âm thanh được chuốt
mỏng như xuyên vào tim người nghe. “Chỉ còn gần em một giây phút thôi, một giây
nữa thôi là xa nhau rồi...”, tôi nghe mà gai cả người, huống chi các bà các chị
nghe thì... phải biết!
Cụ Trần Quang chả hát đơn ca bao giờ,
nhưng bài nào cụ cũng chơi. Bài “Khúc hát sông quê” cụ Quang có hát không? Được!
Bài “Chim sáo ngày xưa” cụ Quang có chơi không? Chơi chứ! Bài “Tình ca Tây Bắc”,
cụ Quang chơi được không? Bài nào cũng chơi được tuốt! Hề hề... Cụ có thể hát từ
sáng đến trưa, càng hát càng khỏe.
Còn cụ chủ nhà thì sao? Cụ Thi thường
hát những bài tình ca, hành khúc, dân ca. Cụ Thi hát theo kiểu mô phạm (cụ xuất
thân là nhà giáo dạy văn mà), tuy giọng không mấy sáng tạo như Đặng Nam, nhưng
lại rất đúng nhạc. Thỉnh thoảng cụ cùng bà vợ song ca, đạt trăm điểm chứ bộ.
Chúng tôi hát say sưa, quên mệt. Khi được
điểm cao, mọi người kêu lên: “Úi giời, điểm cao chưa!” Lúc bị điểm thấp, lại lắc
lắc đầu tiếc rẻ: “Úi giời! Hát hay thế mà được ít điểm thế, giám khảo thiên vị
đây! He he!…” Khi có các bà các chị hoặc mấy ông khách từ huyện lên cùng tham
gia, không khí lại càng sôi động.
Chúng tôi thường kết thúc một buổi hát bằng
hát tốp ca bài “Năm anh em trên một chiếc xe tăng” sôi nổi và hưng phấn. Có khi
kết thúc là bài “Trở về cát bụi” do Đặng Nam hát, như là một lời tự nhắc nhở khuyên răn: Tất cả rồi sẽ trở
về cát bụi, nên còn sống thì hãy sống cho tốt, “đừng vì tham giàu” mà “bỏ nghĩa
anh em”. Giọng ca dầy, khỏe, vang của Đặng Nam đặc biệt gây cảm xúc mạnh cho người nghe khi bắt vào câu cuối
được nhắc đi nhắc lại như một điệp khúc: “Người ơi xin nhớ, cát bụi là ta, mai
này chóng phai. Người nhớ cho, ta là cát bụi, trở về cát bụi, xin người nhớ
cho.”
Cuối buổi, chúng tôi chia tay nhau, hẹn
ngày mai lại hát.
Tôi đi hát thấy người sảng khoái khỏe
ra. Vậy là mê đi tập thể dục karaoke. Hôm nào không thấy cụ Thi gọi điện bảo đến
hát, tôi lân la đến Đặng Nam rủ đi
hát. Hôm nào không đi hát lại thấy như người trống trải thiếu thiếu cái gì.
***
Câu lạc bộ Karaoke Thi Thường của chúng
tôi dường như ngày nào cũng sinh hoạt. Lần vợ chồng cụ Thi đi thăm con cháu bên
Nhật một tháng, chúng tôi cứ ngơ ngẩn cả người, mong cụ Thi về từng ngày. Cụ
Thi ở Nhật về cứ ho khan suốt, thuốc kháng sinh mãi không khỏi, phải vào viện.
Họ xét nghiệm kết luận: Cụ Thi nhiễm vi rút lạ, phải nhập viện. Mười ngày nằm
viện, hết tiêu chuẩn bảo hiểm một đợt, cụ xuất viện mà vẫn chưa khỏi ho. Tiếng
cụ khàn, hát mất hay. Cụ Nam đùa bảo:
“Cụ Thi cứ hát nhiều vào, có khi lại khỏi ho đấy!” Cụ Thi hát nhiệt tình, không
ngờ lại khỏi ho, giọng bỗng trong trở lại. Cánh già lại ngày ngày say mê ca
hát, tưởng như cuộc đời mãi mãi vui.
Mới đấy mà ngoảnh lại câu lạc bộ Karaoke
Thi Thường đã thành lập được 5 năm. Chúng tôi cứ vui vẻ mà không ngờ khẩu đại
bác thời gian âm thầm tàn nhẫn nã đạn vào chúng tôi. Cụ Giáo ở tuổi 76 đang khỏe
mạnh, bỗng ốm có nửa tháng là ra đi. Cụ Hiện xấp xỉ bách niên cũng ốm phải đi
viện ở Hà Nội hai chục ngày, sút hơn chục kí mà bệnh không thuyên giảm. “Còn nước
còn tát”, các con cụ đưa cụ đi chữa bệnh mãi bên Sinh-ga-po. Đâu cụ ở bên đó có
ba bốn ngày rồi nhận thuốc về nước, vậy mà cụ khỏe lại. Bác sĩ nước ngoài họ
tài thật đấy! Nhưng cụ Hiện phải ở nhà dưỡng sức, không còn tham gia với hội
già được nữa. Đôi lần, nhớ bạn, cụ đi tắc xi đến thăm chúng tôi ít phút rồi về.
Cụ Trần Quang vào tuổi cửu tuần cũng xuống sức nhanh. Sau lần bị xe máy tông
ngã, cụ nằm liệt nửa tháng mới dậy được. Cụ không hát được nữa. Cụ thường ra ngồi
quán cà phê 78 Hùng Vương (Tp. Nam Định)
gặp bạn già ít phút rồi về. Vậy là cánh già tâm đắc chúng tôi chỉ còn hai ba
người bám trụ sinh hoạt. Mới đây, do hoàn cảnh gia đình, cụ Thi làm nhà ở Hà Nam, sẽ bán nhà ở Nam Định
đi nơi ở mới. Câu lạc bộ Karaoke Thi Thường trước nguy cơ tan rã làm chúng tôi
buồn so mà bất lực.
Âu cuộc vui nào rồi cũng phải đến lúc kết
thúc. Nhưng những ngày sinh hoạt với câu lạc bộ chắc chắn là những kỷ niệm
không thể quên trong mỗi người chúng tôi.
NHỚ
NHẠC SĨ BÙI ĐÌNH THẢO
Nhạc sĩ Bùi Đình Thảo hơn tôi 18 tuổi,
nhưng ông lại xưng hô với tôi như người đồng trang lứa. Dường như bất kỳ một
câu nói nào với tôi, ông cũng mở đầu bằng ba từ “Ông Giống này…”. Tôi thì gọi
ông là “Bác” và xưng “Em”.
Ông là
người vui tính, hài hước, giản dị, rất dễ gần. Tôi thường đến chơi với nhà thơ
Tống Hiển ở “khu tập thể” ngay trong trụ sở Sở Văn hóa Thông tin Hà Nam Ninh.
Ngày ấy Nhạc sĩ Bùi Đình Thảo cũng ở cùng “khu tập thể” với Tống Hiển. Khi thì
chúng tôi kéo vào phòng ông, khi thì ông sang phòng Tống Hiển uống nước, bù khú
chuyện trên giời dưới biển. Đôi lần ông ra thư viện vào phòng tôi nhờ tra cứu một
vài tư liệu, đàm đạo về nhân tình thế thái, về âm nhạc. Miệng ông thường trực nụ
cười thoải mải, lộ hàm răng trên khuyết hai cái răng cửa trông ngồ ngộ, rất
duyên...
Tôi và nhạc sĩ Bùi Đình Thảo có lần cùng
được mời dạy ở Trường trung cấp Văn hóa nghệ thuật Hà Nam Ninh. Trường bố trí
cho hai chúng tôi ngủ cùng phòng tại phòng khách – nhà cấp 4. Nửa đêm, vẫn nghe
tiếng vỗ muỗi bên giường Bùi Đình Thảo, tôi hỏi:
- Bác làm gì mà cứ vỗ bì bộp mãi vậy?
Ông bảo:
- Ông Giống này, bật điện lên giúp tôi với…
Tôi vội bật điện. Bùi Đình Thảo vừa gãi
cổ vừa nói:
- Ông Giống này, muỗi cắn ghê quá, không
ngủ được. Ông giúp tôi đếm xem cái màn có bao lỗ thủng và túm lại cho tôi với.
Tôi chui ra khỏi màn, tỉ mẩn đếm lỗ thủng
ở màn ông.
- Có tất cả 17 lỗ thủng lớn nhỏ muỗi có
thể chui vào được bác ạ.
Tôi lần mò kiếm dây túm các lỗ thủng màn
ông lại. Ông bảo:
- Ông Giống này, quá giấc rồi, già ít ngủ,
cứ để điện cho đỡ muỗi, chuyện cho vui đi.
Tôi gợi chuyện:
- Ông hiệu trưởng trường cũng là nhạc sĩ
xịn đấy.
Bùi Đình Thảo cười:
- Ông Giống này, ông đếch nào cũng khoe
với học sinh mình là nhạc sĩ chính quy, đạo diễn lớn… Nhưng hiện ở cái Sở mình,
duy nhất có Bùi Đình Thảo được ghi tên trong từ điển nhạc sĩ quốc gia… Hì hì…
Tôi trêu ông:
- Ai mà chả biết Bùi Đình Thảo là “Nhạc
sĩ trẻ con”, toàn thấy “Em đi giữa biển vàng”, “Đi học”, “Sách bút thân yêu
ơi”, “Bà thương em”…
- Ông
Giống này, chả lẽ cỡ ông mà không biết đến nhạc Giao hưởng Bùi Đình Thảo ư?
- Sao
không? Giao hưởng thơ “Mùa xuân Hồ Chí Minh - Mùa xuân thống nhất” của bác em còn lạ? Năm 1980 - 1982 em chuyển ngành học tiếp
Đại học Văn hóa, đã được nghe giới thiệu trong chương trình thực tế minh họa
cho phần “Các loại hình nghệ thuật” rồi. Nhưng thực tình mà nói, chả mấy ai biết
đến giao hưởng của bác. Không phải vì giao hưởng của bác không hay, mà bởi đối
tượng của giao hưởng quá ít, còn đối tượng ca khúc thì quá đông. Vậy nên hầu
như trẻ con mấy thế hệ qua đứa nào cũng hát “Đi học”. Mấy bài hát trẻ con nhạc
đơn giản mà đè chết tươi giao hưởng đồ sộ của bác rồi. Hí hí…
Nghe tôi ba hoa vậy, ông không giận, mà
bật người sang giường tôi, nắm tay tôi, hào hứng:
- Ông Giống này, tôi thích ông rồi đấy.
Ông có thích “bài hát trẻ con” nào của tôi không?
- Có, thích nhất bài “Đi học”.
- Ông Giống này, ban đầu tôi lấy một bài
thơ chép tay lưu truyền trong bạn bè làm lời bài hát nên không biết ai là tác
giả thơ. May nhờ Tống Hiển phát hiện thơ của Minh Chính nên mới ghi được tác giả
lời.
- Hoàng Minh Chính quê gốc ở Ý Yên tỉnh Nam Định, dòng Nhượng Tống đấy. Nhỏ sống
ở Phú Thọ, lớn đi bộ đội hy sinh.
Lặng đi hồi lâu, tưởng ông đã ngủ, tôi tắt
đèn.
- Ông Giống này, sắp sáng rồi, ông cứ bật
đèn lên được không?
Tôi lại bật đèn. Tôi nghe ông phều phào
một âm điệu vui tai. Tôi cũng hát bài “Đi học” bằng giọng bắt chước giọng trẻ
con.
Lần ngủ chung phòng với ông tối hôm ấy
thật khó quên. Ông về hưu được đâu tám chín năm thì mất. Hôm qua cùng bạn bè nhắc
đến cố nhà thơ Tống Hiển, bất chợt tôi lại nhớ tới Bùi Đình Thảo. Tôi hát “Đi học”
bằng giọng thật của mình, ghi âm bằng cái máy ảnh du lịch cổ lỗ sĩ:
“Hương rừng thơm đồi vắng
Nước suối trong thầm thì
Cọ xòe ô che nắng
Râm mát đường em đi…”
MAY
QUÁ! CẢM ƠN BÀ!
Cuối năm Giáp Ngọ, ông thầy cúng cùng xóm bảo:
- Sang năm là năm Ất Mùi, ông phải cẩn
thận đấy. Vợ chồng ông, con gái lớn, cháu nội đều tuổi Sửu. Con trai lớn tuổi
Thìn, con dâu lớn tuổi Tuất. Vậy là Thìn, Tuất, Sửu đi với Mùi là xung lắm…
Tôi cười:
- Ông chỉ được cái... Ông gợi ý cúng đầu
năm chứ gì, nhưng cái này vợ tôi nó quyết ông ạ.
Hai chín Tết,
con gái lớn đi chợ hoa bị kẻ cắp móc túi lấy mất điện thoại xịn. Sáng mồng Một
Tết, tôi đánh vỡ cái cốc thủy tinh. Ngày 8 tháng 3 (18 tháng Giêng âm lịch), vợ
tôi bị trộm lấy mất xe đạp, túi tiền...
Bụng bảo dạ: Lời tay thầy cúng thiêng thật!
Đầu óc lan man nghĩ ngợi...
...Tháng giáp Tết, vợ lĩnh trước hai
tháng lương hưu liền của hai vợ chồng, chi tiêu cho Tết và sinh hoạt hàng ngày.
Lớ xớ thế nào, vợ bị bọn trộm lấy cả tiền, cả xe đạp. Tiền thì hai tháng nữa lại
có lương. Tiếc cái xe đạp cà tàng, vật kỷ niệm gắn chặt với vợ…
…Sáng sớm vợ vội đi chợ mua rau về nấu
mì cho chồng; Lại vội vàng sang nhà con út lo cơm nước, trông cháu cho chúng đi
làm. Khi con cháu hai tuổi rưỡi quấy khóc, bà lai cháu “Vòng quanh thế giới” -
đi quanh xóm cho nó nín. Chín mười giờ tối vợ hớt hải về nhà canh chồng huyết
áp cao, sợ nhỡ đêm hôm chồng có làm sao còn... Tất cả sinh hoạt tất bật ấy đều
trông vào cái xe đạp cà tàng. Vậy mà... Thật là chó cắn áo rách. Bọn trộm nhằm
trúng ngày mồng 8 tháng 3 – ngày phụ nữ được tôn vinh, nhẫn tâm lấy trộm xe và
tiền của phụ nữ, thì thật là bất nhân quá.
Mấy bà bạn thảnh thơi, ngày ngày đi bộ
chăm lo cho sức khỏe và duy trì sắc đẹp, thấy vợ tôi vất vả héo hon thì bảo:
- Bây giờ con cái đã trưởng thành, có
gia đình riêng, có công ăn việc làm thì để chúng tự lo. Cần thì thuê ô sin. Ông
bà già yếu rồi, phải lo cho mình chứ. Mà có ôm mãi được chúng nó không?
Khổ! Thì cũng biết vậy, nhưng thấy con
cháu khổ quá, không giúp chúng không đành lòng. Con dâu bé tốt nghiệp Bách
khoa, dạy tin học trường tiểu học ở dưới huyện, lương tháng ba triệu, bệnh đau
tim nên chả dạy thêm dạy nếm gì. Mà có dạy thêm thì ở nông thôn cũng không ai học.
Con trai hai bằng đại học Bách khoa, thêm cái bằng thạc sĩ điện tử viễn thông,
làm giáo viên Trường Cao đẳng của Tổng công ty Dệt mà lương chưa nổi ba triệu.
Không có người học, trường còn nợ lương giáo viên tháng này trả tháng trước. Tiền
lương chỉ đủ xăng xe, đóng tiền học trong học ngoài cho thằng lớn đang học lớp
một, mua sữa cho con bé chưa đi nhà trẻ. Lại còn bao nhiêu thứ phải chi: ăn
hàng ngày cho cả nhà, tiền điện, tiền nước, tiền vệ sinh, tiền ga, tiền thuê
bao truyền hình cáp, tiền internet, tiền điện thoại, tiền khóc, tiền cười, tiền
viện, tiền thuốc cho hai đứa trẻ ốm yếu luôn, tiền nghĩa vụ với nước, với xóm
ngõ, tiền các hội... thì còn đâu nữa mà thuê ô sin. Thôi thì nước mắt chảy
xuôi, đành để vợ đem lương theo làm ô sin cho con cháu.
Vắng bàn tay chăm sóc của vợ, tôi tự lo
cho bản thân thật là vất vả. Lại nghĩ: Mình vất vả một, vợ vất vả mười.
Thấy vợ mặt nhợt nhạt, thảng thốt báo
tin: “Ông ơi... tôi... mất hết rồi! Xe đạp và túi tiền...”, tôi hụt hẫng: “Đã bảo...”,
nhưng lời tắc lại trong họng. Chợt nghĩ đến lời ông thầy cúng, thôi của đi thay
người. Lát sau:
- Thế cái... cái bà vẫn dí vào thơ tôi ấy,
có còn không?
Vợ trả lời bị động:
- Còn.
- Ôi, thế thì may quá! Cảm ơn bà!
Thoáng thấy đôi mắt u ám của vợ tôi ánh
lên tia sáng, những nếp nhăn hằn sâu trên mặt như giãn ra.
XIN
ĐI TÙ
Thằng Mãnh là em con dì tôi. Thằng Mãnh
trắng, đẹp như cục bột, lại rất ngoan nên họ hàng ai cũng yêu quý. Chú rể tôi
là bộ đội cụ Hồ phục viên, mất vì B52 Mỹ khi đang trôi bè trên sông Hồng, hồi
năm 1972, chẳng có chế độ gì. Chồng chết, dì tôi dồn hết tình cảm, sức lực vào
chăm sóc yêu chiều thằng Mãnh.
Tôi đi bộ đội chiến đấu hết trong Nam lại lên biên giới phía Bắc chống
quân Trung Quốc xâm lược. Năm 1982 tôi mới được chuyển ngành về quê. Dì tôi
khóc bảo:
- Thằng Mãnh bị bắt đi trại rồi anh ơi.
Anh làm sao cứu thằng Mãnh cho dì, không thì nó chết mất...
Tôi ngạc nhiên:
- Làm sao đến nông nỗi này hả dì? Thằng
Mãnh ngoan ngoãn thế, sao lại bị bắt đi cải tạo? Dì nói đầu đuôi sự việc cho
cháu nghe.
- Thằng Mãnh vốn ngoan hiền. Nó thương
dì vất vả nên bỏ học theo người ta đi đào vàng ở khu Tư. Thỉnh thoảng nó gửi về
cho dì chỉ vàng. Dì cũng mừng. Nhưng dì có ngờ đâu nó lại sinh nghiện hút. Xã
truy quét bắt những thanh niên nghiện hút đưa đi trại, họ tóm được thằng Mãnh
khi nó đang hút.
Tôi an ủi dì:
- Thôi sự việc đã thế rồi, dì để cháu
tính.
Hai chú em ruột tôi làm trong ngành công
an, chạy đôn chạy đáo gần năm trời mới bảo lãnh cho thằng Mãnh được ra trại. Dì
tôi xin cho thằng Mãnh đi cai nghiện ở trại cai nghiện tỉnh. Mãnh cai nghiện
xong, được chú em rể tôi làm Giám đốc một xí nghiệp bố trí cho làm nhân viên đứng
quầy hàng. Được gần năm, Mãnh tiết kiệm mua được cái xe đạp Phượng Hoàng. Tôi mừng
thằng Mãnh đã tu trí.
Nhưng rồi một hôm người ta báo tin cho
tôi rằng thằng Mãnh lại bị công an bắt giam rồi. Tôi xin thăm nó nhưng họ không
cho gặp. Thì ra bạn nghiện từ trước luôn bám sát nó, rủ rê, ép buộc nó phải hút
lại. Cho đến một đêm, thằng Mãnh để bạn nghiện vào quầy hàng ăn trộm, định sau
đó làm hiện trường giả thì bị công an bắt quả tang. Mãnh đi tù ba năm.
Ra tù, Mãnh về quê. Không có tiền hút
hàng ngày, Mãnh bán dần tất cả các thứ gì có trong nhà có thể bán được để hút.
Trong nhà không còn gì để bán, Mãnh bắt đầu ăn trộm của hàng xóm. Một lần bắt
quả tang Mãnh ăn trộm, chính quyền xã chuyển Mãnh lên công an huyện. Mãnh lại
đi tù.
Ba năm sau Mãnh ra tù. Trông nó gầy,
đen, đầu trọc lốc. Tôi khuyên răn nó nên từ bỏ thuốc phiện mà tu trí làm ăn. Nó
vâng vâng dạ dạ tỏ ra thực tâm muốn cải tà quy chính.
Bẵng đi mấy năm, tôi bận công việc không
về quê. Một hôm, dì tôi bắt xe khách lên tỉnh. Vừa gặp tôi, dì đã kể trong tiếng
nấc:
- Thằng Mãnh lại đi tù rồi anh ơi! Khổ
thân tôi, kiếp trước tôi phạm tội gì mà trời đày đọa tôi thế này anh ơi!
Chờ dì nguôi ngoai tôi hỏi:
- Nó phạm tội gì mà người ta lại bắt nó
đi tù?
Dì tôi bảo:
- Không! Không ai bắt cả. Tự nó xin đi
tù thôi.
Tôi nhạc nhiên:
- Tự nó xin đi tù? Sao lạ vậy dì?
Dì tôi phân trần:
- Đi tù mấy lần về, nó quyết tâm làm lại
cuộc đời. Mấy năm nay nó không ăn trộm cái gì của hàng xóm. Nó xin dì cho tiền
để nó nhập trại cai nghiện. Cai nghiện xong, nó về quê mong sống yên ổn làm ăn.
Nhưng nó đi xin việc ở đâu người ta cũng không nhận. Dì đã hơn tám mươi tuổi rồi,
chẳng có lương, chỉ trông vào 5 miếng ruộng phần trăm thì làm sao nuôi nổi hai
mẹ con. Thằng Mãnh sinh ra cáu bẳn, chán đời. Bạn bè rủ rê, nó hút lại. Tháng
trước, người ta báo tin cho dì là thằng Mãnh đang bị giam ở huyện. Dì hớt hơ hớt
hải lên huyện xin vào thăm nó. Ngươi ta bảo dì:
- Khi công an đến bắt thì thấy thằng
Mãnh đứng trong bốt điện, mồm kêu to: “Ối làng nước ơi! Có thằng ăn trộm công
tơ điện đây này!” Hỏi tại sao làm thế, thằng Mãnh bảo: “Để được đi tù. Xin các
cán bộ cho em đi tù!”.
Dì van nó đừng xin đi tù. Nó bảo dì: “Mẹ
ơi! Mẹ cứ để con đi tù! Chỉ có đi tù thì con mới có việc làm, mới có miếng ăn,
mới được hút, mới có cơ hội được sống”.
Anh ơi, em nó nói thế, dì chẳng còn biết
làm sao. Chẳng lẽ cứ để nó sống mãi đến chết trong tù sao hả anh!
Bất lực nhìn dì tôi khổ sở, tôi im lặng
nghe dì tôi kể lể nỗi buồn khổ như vô tận. Trước mắt tôi, hình ảnh thằng Mãnh
trắng đẹp như cục bột cứ chập chờn. Văng vẳng bên tai lời thằng Mãnh xin được
đi tù để có cơ hội sống cứ ám ảnh tôi.
KINH NGHIỆM VIẾT BÁO
Tĩn hỏi bố:
- Bố ơi! Bố là nhà báo nổi tiếng, vậy bố
hãy truyền kinh nghiệm cho con để con theo nghề của bố nhé!
Bố Tĩn âu yếm:
- Ôi! Thằng con ngoan của bố. Mày nghĩ
được vậy là bố mừng lắm. Nhưng mà nghề báo đòi hỏi phải có vốn sống phong phú,
đạo đức trong sáng, tinh thần quả cảm, nhạy bén chính trị, trình độ nghiệp vụ
tinh thông, tốn nhiều chất xám, lại phải đi nhiều, lắm khi gặp nguy hiểm đến cả
tính mạng. Mày tính lười biếng, ngại khó ngại khổ thì làm sao làm nhà báo được?
- Thì thế con mới cần bố truyền cho kinh
nghiệm. Bố cứ dạy con cách nào để viết báo nhanh nhất, lại ít phải bỏ công sức,
chất xám nhất ấy.
Bố Tĩn gật gù:
- Thôi được! Vậy mày lấy sách bút mà ghi
chép lời bố đây! Để không mất thời gian, sức lực, không tốn chất xám, mày cứ chịu
khó lướt web và đọc sách, thấy bài nào thích thì chép lại, thêm tý chút gia vị
mắm muối, xào lại, ghi tên mình vào vị trí tác giả rồi gửi cho tạp chí thích hợp.
Thế là vừa có tiền nhuận bút, vừa có danh mà lại nhàn hạ. Sướng hôn?
- Nhưng nhỡ tác giả đích thực phát hiện
ra, họ kiện là đạo văn của họ thì làm thế nào hả bố?
- Thì mày chỉ việc ghi chú thích dưới
bài là “Theo...” hoặc “Có tham khảo tài liệu của...” thì có kiện cũng cãi bay
được con ạ!
- Nhưng Ban Biên tập họ phát hiện thì
sao ạ?
- Ồ! Yên tâm đi! Ban biên tập ngày xưa
cơ, chứ bây giờ khối đứa “Cơm chấm cơm”, thậm chí “Cháo chấm cơm”, qua mặt dễ ợt.
CUỘC
ĐỜI DÂU BỂ
“Trải qua một cuộc bể dâu”
An vui chưa trọn, đã sầu vô cư...
I - HOAN
HÔ QUY HOẠCH… TREO!
“Xóm văn hoá” là một xóm nghèo. Gọi là
xóm văn hoá nghèo vì hầu hết các hộ dân ở đây là cán bộ ngành văn hoá đương chức
hoặc đã nghỉ hưu. Mà lương cán bộ ngành văn hoá làm sao không nghèo được.
Năm 1987 ngành văn hoá được tỉnh quan
tâm cấp cho khu đầm lầy làm nhà tập thể cho cán bộ, công nhân viên trong ngành
để không còn cảnh cán bộ ăn nghỉ tại phòng làm việc của cơ quan. Chủ trương của
tỉnh làm nức lòng cán bộ ngành văn hoá. Nhưng cơ quan không có kinh phí xây dựng,
thay vì phải làm nhà tập thể, đành chia đất cho từng hộ gia đình tự vượt lập và
xây dựng. Khốn nỗi hộ nào cũng nghèo (Có nghèo mới phải bám lấy nhà làm việc mà
tá túc chứ), thành ra hẹo hẵng mãi đến ba bốn năm sau mới hình thành xóm nhà cấp
bốn.
An cư chưa được bao lâu, năm 1996 nhà nước
lại quy hoạch đô thị, hầu hết xóm văn hoá nằm trong diện đất quy hoạch. Cán bộ
phòng nhà đất đo đạc, lập biên bản hiện trạng từng hộ để làm cơ sở đền bù khi
thành phố thu hồi đất. Cán bộ phường thông báo cho các hộ thuộc diện quy hoạch
không được cơi nới, xây dựng thêm để tránh phức tạp cho việc đền bù. Người xóm
văn hoá lại háo hức chờ đón ngày thực hiện quy hoạch. Nhà nào cũng gương mẫu chấp
hành quy định, không xây dựng gì thêm.
Thế là ai nấy cố chịu đựng cái cảnh trời
mưa thì ngập lụt, nhà dột nát, phân rác trôi vào tận phòng ở, trời nắng thì
nóng bức, chật chội. Chất lượng sống của dân xóm văn hoá thật chẳng văn hoá
chút nào.
Nhưng chờ đến mỏi mắt mà không thấy
chính quyền thực hiện quy hoạch. Gần mười sáu năm sống cảnh chờ đợi nhà nước thực
hiện quy hoạch đã quá sức chịu đựng, các hộ buộc phải làm đơn kiến nghị gửi Hội
đồng nhân dân và Đoàn đại biểu quốc hội tỉnh, song chẳng có hồi âm. Chính quyền
địa phương cũng không biết bao giờ trên mới thực hiện quy hoạch.
Bán nhà không được, cải tạo cũng không
được, người xóm văn hoá thật bức bối. Chú Lương là thủ trưởng một đơn vị quân đội,
được đơn vị và đồng đội ủng hộ vật tư, kinh phí bèn mua đất đô thị mới, xây
luôn nhà ba tầng. Hôm ăn mừng nhà mới, chú oang oang tâm sự:
- Bà con hẳn còn nhớ gia đình em ở xóm
văn hoá khốn khổ như thế nào. Nhờ cái quy hoạch treo, vợ chồng em mới được đơn
vị, bạn bè giúp đỡ mà làm được ngôi nhà cao tầng, tiện nghi đầy đủ. Thật là
sung sướng. Em phải hoan hô cái quy hoạch treo!
Nếu được như nhà chú Lương thì tôi cũng
phải hoan hô cái quy hoạch... treo. Nhưng còn bao nhiêu gia đình vẫn phải chịu
đựng cái khổ do quy hoạch treo gây ra? Nghe nói nhà nước có quy định quy hoạch
nào sau ba năm không thực hiện thì phải bỏ. Nhưng ai công bố xoá bỏ cái quy hoạch
treo? Dân xóm văn hoá còn phải chịu đựng đến bao giờ tình trạng này?
II- VỠ TRẬN
Năm 1996, chính quyền cắm mốc quy hoạch
làm đường qua xóm văn hóa, cấm tiệt việc cơi nới, xây dựng mới. Các công dân
gương mẫu xóm văn hóa kiên nhẫn chịu đựng cảnh mưa ngập cứt trôi vào nhà, hè
nóng như lò nung hành hạ, quyết không xây dựng mới, không sửa chữa nâng cấp nhà
ở, chấp hành nghiêm lệnh của chính quyền.
Đầu năm 2015, chính quyền mời bà con ra
phường, báo cáo dự án của thành phố, hứa đền bù công trình trên đất theo giá thị
trường, bằng giá xây dựng mới, đất cũng được tính theo giá thị trường thời điểm
đền bù. Bà con hoan hỉ, ai nấy háo hức mong mỏi dự án nhanh chóng được thực thi
để đổi đời. Gặp ai cũng nghe câu cửa miệng cảm ơn..., cảm ơn…
Ban dự án cùng đại diện các hộ bị thu hồi
đất chia nhau đến từng nhà kiểm đếm thật chi tiết, từ cái cây cau tí tẹo đến
cái giếng đã bị lấp bỏ cũng được kiểm đếm, không bỏ sót cái gì. Không cần đọc kỹ
biên bản kiểm đếm, các chủ hộ ký cái rụp, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Nhưng tâm trạng phấn khởi mong mỏi đã
nhanh chóng chuyển sang ngơ ngác, bất bình, thất vọng khi nhận được bản dự toán
tiền đền bù. Hóa ra cái giá thị trường mà Ban dự án nói chỉ bằng nửa giá thực tế.
Chẳng hạn, nhà mái bằng một tầng được chi trả 2,5 triệu đồng một mét vuông, bằng
một nửa giá xây dựng hiện tại. Mỗi mét vuông đất bị thu hồi được đền bù gần 6
triệu đồng, trong khi đó giá thị trường 10 đến 12 triệu đồng mét vuông. Toàn bộ
số tiền được đền bù đất và công trình nhà ở trên đất không đủ mua một suất đất
tái định cư tương đương với diện tích đất bị thu hồi mà Ban dự án bán cho theo
giá thị trường. Vậy là cơ nghiệp cả đời tích cóp của hai vợ chồng chủ hộ bỗng
nhiên mất trắng. Ông bạn đồng hương nguyên là chiến sĩ đơn vị anh hùng, xuất
ngũ làm nghề bán bánh mì dạo, ở nhà tập thể trước năm 1980, không có tiền chạy
sổ đỏ, giờ chỉ được đền bù một nửa.
Bà con bị thu hồi đất đồng lòng làm đơn
kiến nghị lên UBND thành phố, không chấp nhận giá đền bù quá thấp, giá đất bán
cho dân lại cao. Ban dự án lại tổ chức họp và hứa chuyển ý kiến bà con lên trên
xem xét. Bà con lấy lại hy vọng, nôn nóng chờ phản hồi của chính quyền. Nhưng
chưa có hồi âm, đã thấy quyết định đền bù đóng dấu UBND thành phố đỏ chót gửi
xuống từng hộ gia đình bị thu hồi đất. Ban dự án mời đại diện từng hộ gia đình
lên ký biên bản đền bù theo từng thời điểm khác nhau. Bà con xóm văn hóa lại tổ
chức họp khẩn cấp, thề quyết không ký. Ông Lê Đạo Đức hùng hổ tuyên bố:
- Tôi quyết không chấp nhận giá đền bù vô
lý này.
Trưa hôm sau, tôi về xóm với tinh thần
nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của hội nghị xóm, không chấp nhận đền bù của
Ban dự án, thì thấy xóm nháo nhác như ong vỡ tổ. Ông bạn hưu trí cùng ngành văn
hóa nói trong nước mắt:
- Vỡ trận rồi bác ơi!
- Sự thể ra sao?
- Nó tung cò đất đến từng nhà, gạ trả tiền
tươi chênh lệch từ 100 triệu đến 130 triệu một suất đất dự án bán cho hộ dân.
Ai ký đồng ý chấp nhận giá đền bù của Ban dự án sẽ được chọn mua lô đất đẹp để
trao tay giấy tờ cho cò đất, nhận ngay tiền chênh lệch. Ai ký muộn sẽ chỉ còn đất
xấu, cò không mua. Bà con bảo nhận tiền tươi chênh lệch bán đất được cả trăm
triệu đồng, chả hơn là đấu tranh biết có kết quả không. Vậy là tranh nhau ký.
- Ông Lê Đạo Đức thế nào?
- Ông Đức nhận tiền tươi cò đất trao
tay, ký nhận đền bù của Ban dự án rồi.
Các hộ dân bị thu hồi đất lúc này vẫn
nói câu cửa miệng: Cảm ơn... nhưng không phải là cảm ơn... cảm ơn... như mấy
hôm trước, mà là cảm ơn cò đất.
Đúng là cái khó bó cái khôn. Ban dự án
kinh nghiệm đầy mình, cò đất lại cáo già, cánh dân nghèo thật như đếm không vỡ
trận, thua đau mới là lạ!
Một tháng sau, xóm văn hóa tan hoang những
ngôi nhà bị phá dỡ. Gặp mấy bà hôm trước còn luôn mồm cảm ơn cảm huệ cũng đang
ngơ ngẩn nhìn nơi ở cũ, tôi hỏi:
- Sao bây giờ không thấy các bà cảm ơn cảm
huệ vậy?
- Ôi dào! Bây giờ chúng em chẳng cảm ơn
cảm huệ thằng nào con nào sất cả!
III- NGẨN NGƠ NƠI CŨ, MỚI
Thực hiện lệnh giải tỏa nhà đất, nơi diễn
ra bao nhiêu kỷ niệm của gia đình suốt một phần tư thế kỷ, đã một tháng nay,
tôi hàng ngày vẫn vô thức trở về nơi ở cũ ngắm nhìn cảnh tan hoang mà lòng như
xát muối.
Tất cả tiền người ta đền bù cho 72 mét
vuông đất và toàn bộ cơ ngơi nhà, công trình phụ của tôi chỉ mua được 50 mét
vuông đất nơi tái định cư họ bán cho. Hôm qua tôi đã nhận đất mua ở nơi tái định
cư.
Từ trên cầu nhỏ bắc qua con mương thoát
nước thải của thành phố mà dân chúng gọi là MƯƠNG THỐI (bới nó thối kinh khủng)
tôi nhìn thửa đất mới mua trong màn mưa bụi ảm đạm mà lòng buồn khôn tả.
Đi đến ngang khu đất tái định cư, từ bờ
bên này mương thối nhìn sang thấy họ mới khai phá con đường mới lổ đổ xếp gạch
vỉa hè mà chưa đổ nhựa lòng đường.
Khi tới sát lô đất 50 mét vuông tôi mua,
thấy nó bé tí tẹo. Lô đất của tôi liền kề
với lô đất cùng diện tích mà một nhà dãy trước mua và làm cái ga-ra để ô tô con
của gia đình, trông như cái chuồng chim
chuồng chó.
Lô đất bé tí tẹo thế mà tôi vẫn lo không
biết xoay đâu ra đủ tiền để làm một căn nhà tương tự như cái chuồng chim chuồng
chó của ông hàng xóm dùng để xe con.
Trước mắt, vẫn phải để vợ và cả gia đình
thằng con út ở nhờ con gái lớn, đến đâu hay đến đó.
Một bà thấy tôi ngơ ngẩn trước mảnh đất
mới mua, tò mò hỏi han. Khi rõ chuyện, bà thật thà:
- Bác mua chỗ nào không mua, lại mua ở cạnh
cái mương thối. Em ở đây tứ mùa ngửi cứt khổ lắm bác ơi...
- Rồi người ta phải làm cống hộp chứ
bác! Nhà nước ai lại để dân sống trong môi trường mất vệ sinh như thế!
- Xin lỗi bác đi! Còn lâu nhé! Em ở đây
ba chục năm rồi nhé!
Nói rồi bà xỉ mũi cái roẹt và quay ngoắt
đi, bỏ mặc tôi ngơ ngác cạnh mảnh đất của mình.
PHÔNG
VĂN HÓA
Chuyện này tôi nhặt được từ nhiều bác hội
viên Hội Sáng Tạo Thơ Văn kể cho nghe:
Trong đám tang bố ông Chủ tịch Hội Sáng
Tạo Thơ Văn tỉnh nọ, nhiều hội viên quần áo chỉnh tề, nét mặt nghiêm trang,
thành kính phân ưu cùng tang quyến, kính cẩn thắp nén nhang cầu cho linh hồn
người quá cố về nơi cực lạc. Trong khi đó, ông Chủ tịch Hội vốn xuất thân là Đạo
diễn kiêm Trưởng đoàn kịch lớn, mặt đỏ như son phấn, miệng thường trực nụ cười
sân khấu, thao thao bất tuyệt nói về trách nhiệm cao của mình đối với cơ quan.
Nào là việc của hội ta phức tạp, tôi đã giải quyết ổn thỏa, lên kế hoạch đâu ra
đấy, trình lãnh đạo tỉnh những mười mấy đầu việc, được các anh lãnh đạo tỉnh
khen nắc nỏm. Nào là ngày kỷ niệm danh nhân Tài Danh Thế Kỷ của tỉnh, tôi đã viết
sẵn diễn văn cho Phó Chủ tịch tỉnh, lời dẫn chương trình cho Phó Chủ tịch Hội
và văn nghệ phục vụ đâu ra đấy, chỉ còn việc cứ thế mà làm v.v…và v.v… Hình như
ông Chủ tịch quên khuấy việc bố ông đang nằm đấy.
Chứng kiến cảnh này, mỗi người một nhận
xét, bình phẩm thật khác nhau:
- Có người khen ông Chủ tịch là điển
hình lãnh đạo hết lòng với công việc cơ quan. Trong lúc tang gia bối rối, ông vẫn
đau đáu lo việc chu đáo cho cơ quan, thật là cán bộ nhiệt huyết.
- Người khác lại chê: Ôm đồm, bao biện
biểu hiện thiếu tin tưởng cấp dưới. Cứ làm như không có ông thì cơ quan chết
không bằng. Sự biểu hiện nhiệt huyết với cơ quan trong hoàn cảnh ấy nó vô
duyên, giả tạo, kịch lắm. Nó chứng tỏ cái PHÔNG VĂN HÓA của ông Chủ tịch quá thấp.
Nghe được các ý kiến trên tôi hoang mang
quá, chẳng biết thế nào. Thế còn ý kiến của bạn ra sao? Cảm ơn các bạn.
LẬP DỊ
Người trong cơ quan, ai cũng
bảo hắn là kẻ lập dị.
Hắn là chuyên viên chính rất
giỏi chuyên môn. Thường những người giỏi thì chả mấy quan tâm đến vẻ
ngoài. Chỉ những thằng ngu dốt thì mới phải chú trọng chau chuốt vẻ ngoài để
che lấp cái ngu dốt bên trong thôi. Hắn lúc nào cũng ăn mặc luộm thuộm,
dường như để tỏ ra kiến thức không phụ thuộc vào hình thức. Chỉ có thế thì đâu
đã phải là lập dị. Hắn bị coi là tên lập dị chính ở chuyện hắn thẳng thừng
từ chối cơ hội làm quan trong tầm tay.
Thời buổi bây giờ, người ta
cạnh tranh, thi nhau chạy chọt để làm quan. Có làm quan thì mới có điều
kiện tham nhũng, vơ vét làm giàu. Báo chí chả đã đưa tin chuyện “đấu giá”
chức vụ lãnh đạo nhiều cơ quan từ trung ương xuống địa phương đấy thôi. Khối vị
học giả bằng thật, nói đến chuyên môn như vịt nghe sấm, nhưng rất giỏi luồn
lách, nịnh bợ, hối lộ cấp trên để được cất nhắc vào vị trí ngon lành. Các vị có
quyền chức không bỏ qua cơ hội kiếm tiền, bèn bật đèn xanh cho những kẻ máu mê
chức tước tranh đua đặt giá. Người ta nháo nhào tìm cách loại trừ nhau, dồn hết
vật lực cho cuộc chiến tranh ngầm tranh chức ấy. Chức tước như mật ngọt, người
đua tranh như ruồi. Khổ nỗi, mật ít mà ruồi lại nhiều, thành ra cuộc đua tranh
tàn khốc chẳng kém chiến trường. Cuối cùng thì tiền của như nước đổ vào túi
quan chức nắm quyền ban phát chức tước mà thôi.
Cái bả chức tước thật là hấp
dẫn. Thế mà hắn lại ngoảnh mặt đi khi cơ hội làm quan đến. Số là khi quốc hội
có nghị quyết chia tỉnh, một vị quan chức đầu ngành chẳng hiểu thế nào lại gọi
hắn lên cho không hắn chức giám đốc ở tỉnh mới, gạt bỏ một lũ bậu xậu xếp hàng
đội lễ xin mua. Tưởng hắn sẽ vồ lấy cơ hội và biết ơn thủ trưởng của mình, ai
ngờ hắn thẳng thừng từ chối. Từ chối chức vụ mới đồng nghĩa với từ chối suất
đất thành phố giá những mấy cây vàng một mét vuông, cũng đồng nghĩa
với từ bỏ bao nhiêu là bổng lộc. Hỏi vì sao lại từ chối chức lãnh đạo, hắn
bảo hắn chỉ thích làm chuyên môn, để hắn làm chuyên môn có lợi cho nước hơn là
bắt hắn làm quản lý.
Chuyện từ chối làm quan lần
đầu tôi được thấy. Vì hành động của hắn bất bình thường nên hắn đích thị
là lập dị rồi.
Không biết thời buổi bây giờ
còn được bao nhiêu người lập dị như hắn?
XE CON... MUA MẮM
(Giai thoại
làng văn)
Đoàn nhà văn cao niên tỉnh Nọ đi thực tế một huyện miền biển –
nơi có mắm ngon nổi tiếng. Lãnh đạo đoàn đi xe con. Các nhà văn cao niên đi xe
to. Trong đoàn có nhà văn nữ nổi tiếng, tính tình bẳn gắt như mắm tôm. Đoàn
vinh dự được một nhà văn trung ương cùng tham gia theo lời mời của lãnh đạo
đoàn.
Sau mấy ngày điền dã rạc cẳng, nghe báo cáo nông thôn mới ù tai,
các nhà văn cao niên mong mau được nghỉ ngơi lại sức. Đến giờ ăn trưa, mọi người
ra xe để về khách sạn nghỉ ngơi. Chợt nhà văn trung ương nói bâng quơ:
- Mình nghe nói huyện ta có mắm ngon lắm.
Lãnh đạo đoàn vốn là người thông minh lanh lợi, bèn dùng xe con
chở nhà văn bậc thầy đi mua mắm. Các nhà văn cao niên phải ngồi chờ gần hai tiếng
đồng hồ giữa trưa nắng nóng rất bức bối.
Một nhà văn lên tiếng:
- Để giết thì giờ chờ đợi, giải tỏa bức bối, tôi mời các cụ liên
hoàn thơ chơi nhé. Tôi xin mở đầu như sau:
Xe con nó bỏ đi rồi
Nhà văn thứ hai tiếp:
- Xe to chở bố phải ngồi chờ đây
Nhà văn thứ ba:
- Mày đi mua mắm cống thầy
Nhà văn thứ tư:
- Ở đây có mắm sao mày không mua...
Mọi người đang hào hứng vỗ tay quên mệt thì bỗng nhà
văn nữ nổi tiếng, bẳn gắt như mắm tôm, nổi đóa:
- Các ông đểu tôi... dẹp! dẹp!
Cùng lúc đó, xe con đi mua mắm kịp về tới nơi, cuộc thơ liên
hoàn tạm dừng.
THẢO NÀO
(Sưu tầm)
Một bà phàn nàn:
- Tôi canh con gái như canh mả tổ, đêm
đêm tôi ôm nó ngủ mà không hiểu sao nó lại chửa hoang mới khổ thân tôi chứ.
Bà bạn hỏi:
- Thế bà ôm nó ngủ thì bà ôm chỗ nào của
nó?
- Tôi ôm đầu nó bà ạ.
- Ôi… Thảo nào…
TÍNH CÁCH GIÁO LÀNG XỨ NGHỆ
Truyện này tôi nhặt được từ thày dạy văn mình hồi học đại học là
giáo sư Nguyễn Văn Vĩnh, người xứ Nghệ:
Thời đó Ty Giáo dục Nghệ An có chủ trương mở rộng cửa tiếp nhận
đóng góp ý kiến của giáo viên. Một ông giáo làng đi xe đạp bốn chục cây số ra tỉnh
thử xem Ty Giáo dục mở rộng cửa thế nào. Đến Ty Giáo dục thì đã hết giờ làm việc,
ông bị các bảo vệ Ty bắt đứng ngoài chờ đến đầu giờ chiều. Khi ấy có mấy vị
khách trên Bộ Giáo dục về làm việc. Bảo vệ vội mở cửa ngách, khúm núm mời các vị
khách vào. Ông giáo làng cũng theo vào, nhưng bị các bảo vệ đẩy ra yêu cầu khi
nào mở cổng chính mới được vào.
Buổi chiều ông giáo làng báo cơm nhà bếp
của Ty. Ông được bố trí ăn ở bàn đại trà, mỗi mâm 6 người với suất ăn đạm bạc.
Nhìn sang phòng bên thấy các vị khách ngồi bàn nhỏ, mâm cơm đầy sơn hào hải vị.
Ông giáo làng chẳng nói chẳng rằng, cầm viên phấn viết lên bảng tin:
Cửa Ty ta rộng mở
Đón khách nhỏ khách to
Khách to đi cửa nhỏ
Khách nhỏ đi cửa to
Khách to ăn bàn nhỏ
Khách nhỏ ăn bàn to
Một vị chừng là Trưởng phòng hành chính thấy thế, quát: “Này ông
già kia, sao lại viết bậy bạ lên bảng tin thế? Ông có biết đây là đâu không?”.
Ông giáo làng phớt lờ, lẳng lặng viết thêm hai câu:
Khách to Ty nói nhỏ
Khách nhỏ Ty quát to.
Chuyện lùm xùm, lãnh đạo Ty phải ra giải quyết, hỏi: “Tại sao đồng
chí lại viết như vậy? Yêu cầu đồng chí xóa đi!” Trả lời: “Chính tôi mắt thấy
tai nghe và tôi chỉ ghi lại sự thật”. Và ông giáo quyết không xóa…
LỘNG
GIẢ THÀNH CHÂN
KV là cán bộ tòa soạn
báo QĐND được cử đi học đại học, cùng lớp với tôi. Ngày ấy có tác giả KV rất nổi
tiếng về những bài phóng sự chiến trường đăng trên báo QĐND. Một người bạn cùng
lớp cầm tờ báo QĐND có bài phóng sự của KV, đùa:
- Các bạn xem này, KV của
lớp ta mới có bài đăng báo QĐND đây này!
Mọi
người ngạc nhiên tò mò nhìn KV. KV đỏ mặt, ấp úng:
- Đâu có… Không… Không
phải… tớ!...
Bạn bè đùa dai:
- Thôi mà, không cậu
thì còn ai vào đây nữa. Cậu là phóng viên báo QĐND đi học mà. Chắc cậu sợ phải
khao nhuận bút chứ gì!
KV lúc đầu phản đối,
sau thì im lặng.
Từ đấy, cứ thấy bài báo
nào ký tên KV là cánh nam sinh lại đem khoe cả lớp rằng bài viết của KV lớp ta.
KV từ ngượng ngập trở nên thích thú trước sự “ngộ nhận” của bạn bè. Về sau,
chính KV chủ động đem bài báo mới ký tên KV khoe bạn bè:
- Báo QĐND lại đăng bài
của tớ, các cậu đọc đi!
Những lúc như thế, KV
mân mê tờ báo, đọc đi đọc lại, mắt mơ màng, nét mặt sáng ngời niềm vui ngây thơ
và chân thực. Nhìn KV lòng tôi trào dâng niềm thương cảm. Tôi không sao kìm lại
được một tiếng thở dài.
LỜI BÀN:
Quy luật tâm lý chăng?
Chuyện không có thật nói chẳng ai tin. Nhưng nói mãi thì người nghe cũng hoang
mang dao động. Cứ nói đi nói lại rồi người nghe cũng tin. Ngày tôi đi chiến trường B, có người còn tin là “7 thằng Việt Cộng
bám cành đu đủ không gãy”. Thì đấy, cả một thế hệ tin vào ảo ảnh tương lai đấy
thôi. Trong cuộc sống, dư luận có khi tâng bốc một người lên may xanh, biến họ
thành những thần tượng. Lại có khi vùi dập họ đến thân bại danh liệt. Thế mới
biết, truyền thông có sức mạnh kinh khủng thế nào.
NGÃ
XE
Cùng mấy ông bạn đưa ông bạn vừa ngã xe
máy về nhà, tôi gọi:
- Các cháu ơi, bố các cháu ngã xe máy!
Con dâu:
- Khổ quá! Con đã nói mãi rằng có tuổi rồi
thì không đi xe máy nữa mà ông có nghe đâu!
Con trai:
- Xe có việc gì không ạ?
Con gái:
- Rách xước hết cả áo véc mới rồi!
Cháu gái chạy ra ôm lấy ông nội:
- Ông ơi, ông ngã có đau lắm không? Ông
đau chỗ nào để cháu xoa cho ông.
- Ông đau ở đây cháu ạ.
Nói rồi ông chỉ tay lên ngực trái của
mình. Cháu gái đưa hai bàn tay nhỏ xíu lên xoa ngực ông nội. Một lát sau cháu hỏi:
- Ông đỡ đau chưa ạ?
- Ông hết đau rồi.
Những nếp nhăn trên mặt ông bạn như giãn
ra, đôi môi già khô héo như thoáng cười.
KINH
NGHIỆM TIẾN THÂN
- Này, ngày học đại học, tớ loại giỏi, cậu
trung bình. Khi tớ đi chiến trường thì cậu “chạy” giấy chứng nhận sức khỏe yếu
nên được ở nhà công tác. Tớ chuyển ngành đến khi nghỉ hưu vẫn lẹt đẹt viên chức
hạng bét. Cậu làm thế nào mà trở thành lãnh đạo quản lý đầu ngành, lương hưu
chuyên viên cao cấp gấp ba lần tớ vậy?
- À, tớ chả có kinh nghiệm gì ghê gớm
đâu. Cậu biết thừa là cơ quan nào cũng bè cánh đấu đá nhau, theo bên nào cũng dở,
khi bên đó thua thì mình chết theo. Tớ chả dại mà theo bên nào. Bên nào cũng
lôi kéo tớ, nói xấu, hãm hại bên kia. Tớ chỉ việc vừa “Thế à?... Hừm! Hừm! Hừm!...
Chà chà! Chà chà!…” vừa gật gù đầy ngụ ý. Vậy là ai cũng tưởng tớ ủng hộ quan
điểm của họ. Khi bỏ phiếu tín nhiệm, ai cũng bỏ phiếu cho tớ. Các quan cứ lần
lượt chết, còn tớ cứ tuần tự như tiến.
GẶP
BẠN Ở QUÊ
Dịp về quê giỗ ông cậu, vợ chồng tôi qua
nhà thắp hương gia tiên rồi đi Nam Định. Bất ngờ gặp Trần Phú Nhè, bạn từ thời
để chỏm, dắt thằng cháu nội ra cầu bến sông nhà tôi câu cá. Thế là tôi quyết định
lùi giờ xuất hành lại hai tiếng đồng hồ để hàn huyên cùng bạn. Chúng tôi cùng
ôn lại kỷ niệm thời trẻ con, tự hào kể những chiến tích thời đánh giặc, khoe về
cuộc sống hiện tại thanh bạch của mình, điểm từng bạn cùng lứa còn sống hay đã
chết...
Cách đây nửa thế kỷ, lứa chúng tôi lần
lượt đứa trước đứa sau lên đường vào Nam chiến đấu. Hòa bình điểm lại, mười thằng
chết bảy, còn ba thằng sống trở về thì hai thằng thương binh. Bố mất sớm, Trần
Phú Nhè là con trai duy nhất trong nhà, xã vẫn gọi đi nhập ngũ khi mới 17 tuổi.
Bị thương nặng, Nhè được ra Bắc, về quê lấy vợ sinh con nối dõi tông đường, may
thế! Ba bốn thằng con một cùng đi thời ấy hy sinh chưa tìm thấy hài cốt, giờ điểm
lại thì ra chẳng còn ai nối dõi và nhà đất cũng mất hết.
Gặp nhau, ông bạn từ thời để chỏm nổ như
ngô rang. Mà ông nổ toàn bằng thơ xuất thần mới kinh. Tôi nghe ông bạn chuyện
trò bằng thơ thấy hay hay, bèn ghi tốc ký mấy bài chẳng có tiêu đề, định bụng
đưa lên mạng chơi. Ông
bạn Trần Phú Nhè hỏi tôi ghi làm gì. Tôi bảo để lên mạng. Ông bạn giãy nảy rằng
thơ nôm na, thơ nông dân, đưa lên mạng người ta cười chết. Tôi bảo chả sao cả,
tôi sẽ đưa nguyên văn các bài thơ của ông.
Đây là một trong số mấy chục bài xuất khẩu
của ông bạn Trần Phú Nhè, chẳng có tiêu đề:
Đoàn quân cứu nước vượt Trường Sơn
Vạn dặm đường xa gót chẳng mòn
Thác dữ ta qua vươn sức trẻ
Cầu treo lính bước vút sườn non
Quên mình xốc tới lòng tin Đảng
Bạn ngã nằm đây dạ chẳng sờn
Mộ chí hàng hàng nghiêm đội ngũ
Anh hùng liệt sĩ nhớ công ơn
Bài này nữa, cũng chẳng có tiêu đề:
Nghèo chẳng cao sang cũng chẳng hèn
Xông pha trận mạc đã bao phen
Sông quê yên ả buông cần trúc
Phố xá ồn ào dạo bước chen
Bạc bẽo người đời thôi phớt hết
Ân tình bạn hữu chẳng nào quên
Cơm canh cũng đủ ngày hai bữa
Đạm bạc lâu rồi cũng hóa quen
Tôi đề nghị ông bạn đọc lại bài trên để tôi soát có
sai từ nào không. Ông bạn đang mải nổ ngớ ra một lát rồi đọc lại, chả nhớ bài
đó, lại đọc lái thành ra như sau:
Dẫu chẳng cao sang cũng chẳng hèn
Xông pha trận mạc đã bao phen
Sông quê mát mẻ buông cần trúc
Rượu nếp thơm lừng rót chén xuân
Mấy bạn tri âm thường tụ họp
Vài đồng đội cũ vẫn qua thăm
Cơm canh đạm bạc lòng thanh thản
Cuộc sống đua chen lão chẳng thèm!
Tôi bảo:
- Ông có vẻ thạo món thơ Đường luật gớm
nhỉ!
Ông bạn lại ngớ ra hỏi:
- Thơ Đường luật là gì vậy ông?
Thế này thì tài ứng khẩu thành thơ của
ông bạn vào loại quá siêu. Nghĩ mình có học, cũng làm thơ được tuyển in trong
sách và in báo, nhưng không thể ứng khẩu thành thơ đến độ mỗi lần đọc lại là một
dị bản siêu hạng như ông bạn. Ông Trần Phú Nhè mới có bằng tốt nghiệp cấp Một
(lớp 4) ngày trước. Dĩ nhiên là ông chẳng biết gì về yêu cầu niêm, luật, vần, đối
của thơ Đường. Ông nói chuyện bằng lời vần vò tự nhiên, từ chính vốn sống của
mình mà thành thơ Đường luật. Nghĩ rồi tôi bỗng rùng mình kinh hãi, thầm bái phục
ông nông dân bạn từ thời để chỏm của mình.
Một lần gặp bạn cũ, một lần vui cười thoải mái. Tôi mong cho bạn tôi giữ mãi được cái ngây thơ trẻ trung, yêu đời, tự nhiên thoải mái, thanh thản như thế.
GIẢI
THƯỞNG
Một ông nhà thơ câu lạc bộ đăng lên mạng
bài thơ khoe chiếm giải nhất một cuộc thi thơ cấp toàn quốc. Ông còn tổ chức mấy
chục mâm mời bạn thơ ăn mừng. Tôi đọc bài thơ xong cứ băn khoăn tự hỏi không biết
bài thơ này hay ở chỗ nào mà lại được giải nhất. Càng nghĩ càng hoang mang, hay
là mình già lẩm cẩm mất khả năng thẩm thơ rồi?
*
Vừa thấy tôi đến, nhà thơ họ Trình đã
khoe:
- Bài “Chợ làng” của tôi được Ban tổ chức
cuộc thi thơ toàn quốc do một Tòa soạn tạp chí ngành gửi thông báo đoạt giải Nhì
chú ạ. Họ yêu cầu tôi nộp 500.000 đồng làm Cúp kỷ niệm, còn bài thơ thì họ in
trong sách giá 250.000 đồng một cuốn, mua mấy cuốn thì đăng ký. Họ đề nghị tôi
đóng góp ủng hộ cho họ tổ chức trao giải. Tôi đang định điện hỏi xem cụ thể thế
nào đây. Chú ngồi uống nước chờ tôi một lát.
Nói rồi nhà thơ bấm máy gọi.
- A lô! Tôi là nhà thơ Trình đây ạ. Tôi
đã nhận được thông báo của Ban tổ chức. Tôi muốn hỏi cụ thể đóng góp thế nào ạ…
Mười tám triệu? Thế tiền giải Nhì của tôi được bao nhiêu, cô trừ đi còn thiếu
tôi nộp được không ạ?... Giải nhì 6 triệu nhưng lại không được nhận là sao ạ?…
Vâng, vâng, cảm ơn cô, tôi hưu trí lấy đâu ra 18 triệu để mua giải ạ. Chào cô.
Nhà thơ tắt máy, nét mặt khó coi:
- Tôi đang mừng vì họ thông báo tôi đoạt
giải Nhì, giờ họ đòi góp 18 triệu mà tiền giải lại không được nhận, để họ lo tổ
chức lễ trao giải, mời truyền hình tuyên truyền.
Tất nhiên là cái giải Nhì của nhà thơ họ
Trình đã bị Ban tổ chức cuộc thi phế bỏ.
*
Tôi nghĩ mãi không biết thơ của mấy bố
nó hay ở chỗ nào mà lại được giải thì ra là vậy. Cứ lấy bài thơ được giải Nhất
của ông câu lạc bộ nêu trên mà so sánh thì cái đất thành Đông này có biết bao nhà thơ xứng đáng được giải chứ chả bỡn.
ĐỜI
LÀ THẾ
Bận về quê một tuần mới lên, tôi vội vào
thăm ông bạn già ốm nặng nằm viện tỉnh. Nhìn ông bạn nằm co ro như một nhúm
xương da bọc trong quần áo, lòng tôi bỗng hụt hẫng lặng buồn. Loay hoay mãi mới
đỡ được ông bạn ngồi dậy theo yêu cầu của ông. Tôi buột miệng:
- Nhà thơ P đã vào thăm bác chưa?
Thấy ông bạn xịu mặt, tôi cứ trách mình
vì câu buột miệng đó. Ông bạn tôi và nhà thơ P cùng là đồng nghiệp, sinh hoạt
trong một tổ chức văn nghệ với nhau. Nhớ trước đây, nhiều lần nhà thơ P ốm đi
viện, mấy lần nằm viện Lao, ông bạn tôi chẳng ngại bị lây nhiễm, kéo tôi cùng
đi thăm nhà thơ P, cư xử tận tình, chu đáo. Ông bạn tôi gặp hoạn nạn thì lẽ
đương nhiên ông nhà thơ P phải là người thăm sớm, ít ra cũng là để đáp lại cái
tình của ông bạn tôi. Vậy mà…
Ông bạn già trầm ngâm một hồi lâu rồi
tâm sự:
- Tôi buồn lắm ông ạ. Tôi quý trọng và
cư xử tốt với nhà thơ P, nhà thơ P cũng thường nói với tôi bằng những lời thân
tình. Vậy mà tự nhiên… có cảm giác P tránh mặt tôi.
Chợt nhớ lại nhận xét của nhiều bạn bè,
các thư nặc danh nói về nhân cách của nhà thơ P, mà tôi không muốn tin, láng
máng trong đầu nhận thức mới. Tôi quyết định làm cho ông bạn tỉnh mê:
- Nhiều lần bác đi viện, có lần bị tai nạn
xe máy, vậy ông P có thăm không?
- Chưa một lần!
- Liệu có phải ông P không biết bác đi
viện không?
- Có một lần chắc chắn là biết. Vì lúc
đó P gọi điện nhờ tôi mượn hộ một cuốn sách hiếm. Tôi trả lời rằng hiện tôi
đang nằm viện thành phố vì mới bị đột quỵ, chờ tuần sau ra viện, tôi sẽ mượn
giúp.
- Nghe bác nói thế, mà P không tới thăm,
không hỏi thăm sao?
- Không. Sau này mượn trả sách xong cũng
chẳng đả động đến chuyện tôi nằm viện.
- Bác quý người ta thật lòng, nhưng người
ta chỉ xã giao đãi bôi và thậm chí chỉ lợi dụng bác thôi. Với những người như vậy,
bác nên quên đi cho thanh thản.
Câu chuyện phải dừng lại vì có người vào
thăm ông bạn tôi. Khách thăm về rồi, ông bạn bảo:
- Ông H cùng Câu lạc bộ thơ văn với tôi
đấy. Thơ ông này xoàng, bị tôi phê bình đến nơi đến chốn. Tưởng ông ấy giận từ
tôi chứ, vậy mà lần nào tôi ốm ông ấy cũng thăm nom tử tế.
- Ôi! Đời là thế mà bác!
Nói rồi tôi cười ha ha làm ông bạn tôi
cũng phải cười theo.
TÁN
DÓC
Nhà thơ Lê Tâm Quang đưa cho tôi tập bản
thảo một bài viết, bảo:
- Ông bạn tôi muốn in một tập thơ, có
thuê nhà thơ Nguyễn Lục Bát viết cho bài bình in trên đầu tập sách. Tôi chưa kịp
đọc, nhờ chú đọc rồi nhận xét giúp tôi nhé!
Tôi lướt qua bài viết rồi trả lại nhà
thơ Lê Tâm Quang:
- Tán dóc cả
thôi. Đọc làm gì cho mất thời gian.
Nhà thơ Lê Tâm
Quang phật ý:
- Chú chẳng nhiệt tình với tôi gì cả.
Sao chú không đọc đã phán như đinh đóng cột thế?
- Ô hay. Em đọc rồi mà. Không tin bác cứ
đọc xem em nói có đúng không.
Sáng sớm hôm sau, nhà thơ Lê Tâm Quang
điện cho tôi, bảo:
- Đúng là ông Nguyễn Lục Bát toàn tán
dóc, ca ngợi kiểu bịt mũi khen hay thôi. Sao chú mới lướt qua mấy phút mà đã biết
vậy? Chú tài thật đấy!
- Tài giỏi gì đâu bác. Em chỉ đọc những
câu thơ trích dẫn trong bài, thấy dở ẹt. Thơ dở mà ông Nguyễn Lục Bát lại chọn để bình thì chả tán dóc còn gì!
THÀ MÌNH ÍT BẠN
Hắn tặng tôi tập thơ đầu tay từ khi hắn xin gia nhập hội thơ tỉnh
mà lần xét duyệt đầu hắn rớt. Tôi nghĩ hắn là nông dân, chắc thật thà và ngờ
nghệch, nên ủng hộ hắn. Nghĩ sao làm vậy, tôi liên tục giới thiệu tập thơ của hắn.
Đôi lần hắn theo mấy nhà thơ cựu trào đến thăm tôi, tỏ ra ngoan lắm. Hắn cũng
liên tục gửi nhờ tôi đăng blog thơ và tiểu luận của hắn. Nhiều người biết đến hắn
qua blog của tôi.
Khi hắn được kết nạp vào Hội thơ tỉnh, tôi cùng một đồng nghiệp
về tận nhà chúc mừng hắn.
Hồi ấy tay Chủ tịch hội liên tục ép tỉnh dẹp blog của tôi vì tôi
phanh phui tiêu cực của ông ta. Hắn bỗng trở mặt quay ngoắt 180 độ với tôi. Hắn
viết bài chửi blog của tôi, chửi những người bất đồng chính kiến với tay Chủ tịch,
chửi những ai dám tố cáo tiêu cực của lãnh đạo. Hắn công khai rêu rao rằng hắn
không có gửi bài cho blog của tôi mà tôi cứ tự tiện đăng. Hắn nâng bi lãnh đạo
lộ liễu và sống sượng.
Tôi tâm sự với bạn bè:
- Tôi có làm gì xấu với hắn đâu. Tôi từng ủng hộ hắn, sao hắn lại
trở mặt với tôi thế?
Một đồng nghiệp cho tôi biết lý do sự trở mặt của hắn:
- Tay Chủ tịch lôi
kéo mua chuộc để hắn làm tay sai, làm công cụ tấn công ông và những người lên
tiếng phanh phui tiêu cực của lãnh đạo Hội. Tay Chủ tịch hứa hẹn sẽ cho hắn một giải thưởng.
Thì ra là vậy.
Bây giờ quan thầy hắn đã đổ. Không thấy hắn ngỗ ngược như trước
nữa. Nhưng ai đảm bảo rằng hắn sẽ không bán mình cho một quan thầy mới và bán bạn
để cầu lợi. Nghĩ vậy, tôi bỗng rùng mình và tự nhủ thà mình ít bạn còn hơn là
có những bạn như hắn.
THI NÓI PHÉT
(Truyện cũ tân trang)
Bốn ông văn nghệ sĩ tỉnh
Nọ tụ tập ở quán cà phê, chợt nảy ra tổ chức thi nói phét cho vui. Thể lệ như vầy:
Mỗi ông kể một chuyện, ai kể chuyện mà ba người còn lại công nhận là bốc phét
thì đoạt giải nhất, sẽ được ưu ái cho làm chủ chi cuộc tụ họp hôm nay.
Ông nhà thơ kể trước:
- Tháng trước tôi được
thằng cháu làm Tổng Giám đốc du lịch cho đi chuyến tên lửa lên thăm Ngọc Hoàng.
Ở trên thượng giới cuộc sống đúng là tươi đẹp hết ý!
Ông nhà văn xì một tiếng,
phán:
- Chuyện lên trời có gì
lạ đâu. Từ thời xửa thời xưa Từ Thức chả đã theo Tiên lên trời sống là gì.
Đến ông họa sĩ kể:
- Cách đây 13 năm, tôi
từng bị Diêm Vương bắt giải xuống âm phủ để trị tội bồ bịch. Diêm Vương đập bàn
quát hỏi: “Táo công nhà ngươi báo cáo với ta nhà ngươi ngày nào cũng quần tam tụ
ngũ đi chơi cái món ô kê bồ mà bỏ bê việc nhà. Cái món ô kê bồ nó thế nào mà
làm các ngươi say mê thế? Ngươi hãy mau
khai cho ta nghe!” Tôi bảo: “Xin ngài cho tôi vải bút và sơn dầu, tôi sẽ khai ạ!”
Khi các thứ tôi yêu cầu được mang ra, tôi liền vẽ ngay một bức tranh lấy nguyên
mẫu là một trong số các cô bồ của tôi, đặt tên tranh là THIẾU NỮ VÀ HOA. Diêm
Vương ngắm tranh, ngài đập tay cái “đét” lên đùi kêu lên: “Cha chả! Trông ngon
thế này thì đến ta cũng muốn có một ô kê bồ! Thảo nào các ngươi mê say là phải.
Ngươi hãy mau trở lại dương thế, vẽ sẵn mấy bức tranh ô kê bồ đẹp, khi nào tròn
100 tuổi thì mang xuống đây tặng cho ta, nghe chửa!”
Ông nhà thơ nhận xét:
- Chuyện hấp dẫn đấy,
nhưng cũng không có gì lạ. Ở chùa Hương chả có đường xuống âm phủ là gì.
Đến lượt ông nhà văn kể:
- Còn nhớ thời chống Mỹ,
tôi là sĩ quan Hải quân chỉ huy tàu. Một đêm không trăng sao, tôi bị một nhóm
người ngoài hành tinh bắt giải xuống một chiếc tàu ngầm, bắt tôi lái tàu cho họ
đi thám hiểm vùng biển Bắc cực...
Ông họa sĩ cắt ngang:
- Ồ, chuyện người ngoài
hành tinh, chuyện đi vòng quanh thế giới bằng tàu ngầm có gì lạ đâu. Truyện
“Hai vạn dặm dưới biển” ai cũng biết còn gì.
Đến ông đạo diễn sân khấu
kể:
- Các ông đã biết tin sốt
dẻo này chưa? Hôm thứ bảy vừa rồi, họp Ban Chủ nhiệm Câu lạc bộ Văn Nghệ xã ta,
một thành viên cao tuổi chất vấn phê bình ông Chủ nhiệm rất gay gắt. Tưởng ông
Chủ nhiệm phản kháng, ai ngờ ông lại cảm ơn và thành khẩn tiếp thu bằng một bản
tự kiểm điểm rất thống thiết và sâu sắc...
Nghe ông đạo diễn kể đến
đây, cả ba ông nhà thơ, nhà văn, họa sĩ đồng thanh hét lên:
- Bốc phét! Bốc phét! Bốc
phét! Lên trời, xuống âm phủ còn tin. Chứ nói ông Chủ nhiệm Câu lạc bộ xã ta mà
nhận khuyết điểm thì... đếch tin được!
He he he...
BÀI
THƠ ĐƯỜNG LUẬT ĐẦU TAY
Là hội viên Bộ môn
Nghiên cứu phê bình Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, tôi viết chủ yếu trong lĩnh vực
nghiên cứu phê bình, còn các bộ môn khác, nhất là thơ, tôi là người “ngoại đạo”.
Lần về quê, được mời dự
buổi bình thơ của Câu lạc bộ thơ Đường luật, toàn các bậc cha chú. Các cụ yêu cầu
tôi phê bình để các cụ tham khảo. Tôi bốc lên, chỉ ra hàng loạt lỗi trong thơ
các cụ như điệp ý, đối không chỉnh, bình đầu, tịnh cước, mạ đề… lại còn lấy một
bài đã được giải cao trong cuộc thi thơ Đường luật cấp quốc gia ra “chê bai”. Một
số cụ tự ái, nhưng không bắt bẻ được, bèn nói với nhau cố ý cho tôi nghe thấy:
“Nói thì hay lắm, có làm được đếch bài thơ Đường luật nào đâu!”.
Tôi vờ như không nghe
thấy, nhưng trong bụng khó chịu lắm. Cái món thơ luật Đường này rất khó làm, vì
nó đòi hỏi niêm luật khắt khe, gò bó. Phê bình thì có thể học, chứ làm thơ phải
có năng khiếu. Biết vậy, vẫn bụng bảo dạ: Thử làm một bài xem thế nào, nếu được
thì khoe với các cụ.
Một đêm
tháng năm, nửa khuya chợt tỉnh, bắt gặp ánh trăng vằng vặc soi cửa sổ, cảm hứng
dâng trào, bèn rót rượu nhâm nhi, lời thơ tự bật ra không kìm lại được. Nhưng
không biết đặt tên là gì, đành gọi “Vô đề”.
VÔ ĐỀ
Nửa đêm thức giấc ngỡ
mình mơ
Một khoảng trời vuông đẹp
sững sờ
Dát bạc không gian vầng
nguyệt tỏ
Lung linh nền sẫm giọt
tinh mờ
Thiên nhiên cảnh sắc
như tranh vẽ
Cuộc sống muôn màu tựa
áng thơ
Lúng liếng hằng nga
trong đáy chén
Rượu tình chửa uống đã
lơ ngơ.
Sáng sớm đến ngay tòa
soạn Tạp chí Văn Nhân, hăm hở nộp bài cho Tổng biên tập. Tổng biên tập dội cho
“gáo nước lạnh”:
- Ông làm nghiên cứu,
viết thơ làm gì. Để tạp chí đăng thơ cho hội viên Bộ môn thơ.
- Ô hay! Các ông Bộ môn
thơ cũng vẫn viết phê bình đấy thôi!
- Thôi được. Để tôi xem
sau!
Qua ba kì Văn Nhân,
không thấy bài được đăng, tôi chất vấn Tổng biên tập:
- Xin Tổng biên tập cho
biết bài thơ của tôi niêm luật có đạt không, có dùng được không?
Tổng biên tập:
- Ông nói bài gì nhỉ?
- Bài “Vô đề” tôi gửi
chín tháng trước, ông bảo để ông xem sau.
- À… Để tôi tìm… Đây rồi…
xem nào… Thơ ông mòn sáo quá! Ông viết
“trời vuông” là thế nào? Trời sao lại “vuông” được?
Tôi thất vọng:
- Thôi tôi về. Đăng hay
không tùy ông!
Tôi cứ băn khoăn, “văn
mình vợ người”, mình tự đánh giá thơ mình thường chỉ thấy hay, không thấy dở. Tổng
biên tập là nhà thơ chính hiệu, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đã phán như thế…
Đưa bài thơ cho thằng
cháu ngoại đang học lớp tám, bảo đọc và nói cho ông biết cháu hiểu thế nào, tại
sao trời lại vuông? Thằng cháu đọc xong, nói luôn:
- Nửa đêm tác giả tỉnh
giấc thấy trăng soi qua cửa sổ cảm hứng viết thành thơ. Hai câu đầu vào đề, cho
ta biết khái quát một cảnh thiên nhiên đẹp. Hai câu tiếp tả cái đẹp cụ thể, chi
tiết. Hai câu 5 và 6 liên hệ với cuộc sống. Hai câu kết tóm lại tình yêu thiên
nhiên.
- Nhưng sao lại là “trời
vuông”?
-
Nửa đêm tỉnh giấc thì tác giả đang nằm ở trên giường, đúng không ạ? Tác giả thấy
khoảng trời trăng, sao qua cửa sổ, đúng không ạ? Cửa sổ thường hình chữ nhật đứng,
nằm dưới nhìn lên thấy nó vuông, đúng không ạ? Mà ở đây là sáng tác nên cái cửa
sổ ấy nó vuông có sao đâu, đúng không ạ? Nhìn trời qua cửa sổ vuông thì chỉ thấy
“một khoảng trời vuông” chứ thấy sao được trời tròn. Đúng không ạ?
Nghe thằng cháu ngoại cứ
luôn mồm “Đúng không ạ?” mà nở ruột nở gan, thấy cái giọng nói, câu hỏi của nó
sao mà đáng yêu đến thế.
Khi tôi đã quên chuyện
Tổng biên tập không chịu đăng bài thơ của mình thì bất ngờ Văn Nhân (số 62 năm
2008 trang 31) lại trương bài “Vô đề” của tôi lên.
ĂN
MIẾNG TRẢ MIẾNG
Một ông Nhà văn Việt Nam đến nhà bạn thơ ngoài hội, lên giọng:
- Ông là nhà thơ mà nhà chả có lấy một bức
tranh, phù điêu gì. Tôi khuyên ông nên mua một bức chữ TÂM, một bức chữ ĐỨC
treo giữa nhà để tỏ cho mọi người biết ông ít nhiều cũng có tâm, có đức chứ!
Một thời gian sau, ông nhà thơ ngoài hội
đến chơi nhà ông Nhà văn Việt Nam, thấy hai bức chữ TÂM
và chữ ĐỨC to tướng treo giữa nhà thì gật gù đầy ngụ ý. Ông Nhà văn Việt Nam khoe khoang, giải thích ý nghĩa chữ
Tâm, chữ Đức một hồi rồi hỏi:
- Ông thấy hai bức chữ Tâm, chữ Đức này
của tôi có hoành tráng không?
- Rất hoành tráng. Rất cần cho những người
quá thiếu hai chữ này.
VĂN
NGHỆ SĨ THẬT BÉ NHỎ
Ông bạn hàng xóm là cựu giáo chức có kiến
văn đáng kính nể, hỏi:
- Trưa nay ông đi đâu về mà mặt mũi tươi
tỉnh vậy?
Tôi hào hứng khoe:
- Đi ăn khao mừng ông bạn đồng nghiệp được
lĩnh giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh ạ.
- Thế à? Bảo sao cả tháng nay ông quặt
quẹo ủ rũ, hôm nay lại vui thế. Ông nào được giải vậy ông?
- Nhà nghiên cứu Đồng Ngọc Hoa ông ạ.
- À, tôi biết ông này, cũng nhiều người
khen lắm. Nhà nghiên cứu Đồng Ngọc Hoa, nhà thơ Đồng Thị Chúc là hai trong số
các danh nhân văn hóa đương đại của họ Đồng Việt Nam đây mà.
- Vâng, đúng ông ấy đấy ạ.
- Cuốn nào của ông ấy được giải vậy ông?
- Cuốn “Lịch sử Phật giáo tỉnh Nam Định” ông ạ.
- Cuốn này tôi có được đọc. Tám trăm
trang của cuốn sách thể hiện kiến thức về Phật giáo Nam Định toàn diện và khá sâu. Nghe nói để hoàn thành cuốn sách,
tác giả mất ba bốn năm điền dã khắp các chùa đền trong tỉnh, miệt mài nghiên cứu,
tốn rất nhiều sức lực, chất xám và tiền bạc. Cuốn sách được giải là xứng đáng
ông ạ.
- Vâng! Đúng vậy ông ạ.
- Chắc giải của ông ấy to lắm. Mấy chục
triệu hả ông?
- Những ba triệu cơ ông ạ.
Ông hàng xóm dường như nghe không rõ,
tròn mắt, dằn từng tiếng, hỏi lại:
- Ông bảo sao? Những – ba – triệu?
- Vâng! Ba triệu!
Ông hàng xóm nghe rõ thì nhìn tôi bằng
ánh mắt thương hại:
- Khổ! Giải thưởng của các ông không bằng
cái tốc váy của ca sĩ!
Cảm thấy như mình bị xúc phạm, tôi gằn
giọng:
- Ông nói vậy là sao?
- Ông còn nhớ ngày trước có lần tỉnh mời
ca sĩ về hát ở sân vận động Thiên Trường chứ! Bữa ấy con ca sĩ nó vừa hát vừa
nhảy múa bằng động tác tốc vảy cho mà xem. Mà nó chỉ hát đớp, chứ có hát thật
đâu. Nó mở cát xéc ghi âm thôi. Thế mà cát xê của nó hai chục triệu một bài đấy!
Tính ra tiền trượt giá ngày nay thì hai mươi triệu ngày ấy bằng bốn mươi triệu
bây giờ. Tôi nói ba triệu giải thưởng của bạn ông không bằng cái tốc váy của ca
sĩ không đúng à?
Mặt tôi nóng bừng.
Với lòng tự ái cao độ của một văn nghệ sĩ chân chính, tôi định nổi điên choác lại
ông bạn, nhưng chợt nhớ có lần nhà báo Nguyễn Giang Phong đưa lên FB ý kiến so
sánh tương tự, đành nuốt cục tức cục tủi vào lòng.
Ông bạn lại nhìn tôi thương cảm:
- Văn nghệ sĩ các ông thật bé nhỏ đáng
thương quá.
Cái lạnh se se thấu vào tận gan ruột.
Tôi vừa bỏ về nhà, vừa vô thức lẩm nhẩm “Văn nghệ sĩ thật bé nhỏ đáng thương.”
NHUẬN
ĐỌC
Ngày xưa, bài thơ được
đăng báo là vinh dự tự hào của tác giả. Nếu in sách thì nhà nước lo từ A đến Z.
Tác giả vừa được nhuận bút, vừa được bạn đọc kính nể. Bây giờ, tác giả bỏ tiền
ra in sách, đem biếu tặng không, cũng chẳng mấy ai thèm đọc.
Hôm rồi, Bộ môn thơ Hội
VHNT quyết nghị hội viên đóng tiền tự in ấn tuyển thơ chung. Một nhà thơ tâm sự:
- Mình cảm thấy bị xúc phạm khi đóng tiền in thơ. Nhưng
in ra để ai đọc? Hay là mấy ông tác giả tự sướng với nhau?
- Làm cách nào để có bạn
đọc?
Một nhà thơ bàn:
- Phải tuyên truyền
trên công luận thì bạn đọc mới tò mò đọc, không thì áo gấm đi đêm à?
Một nhà thơ khác:
- Mời các nhà phê bình
viết bài khen.
- Thuê nhà thơ nổi tiếng
viết lời giới thiệu.
- Tổ chức các buổi giới
thiệu sách có bồi dưỡng bạn đọc như kiểu ai vào nghe cũng được phát 200.000 đồng,
ai phát biểu tham luận được nhận 5 triệu đồng như ông nhà thơ thiền suýt ẵm giải
No Ben đã làm.
Rất nhiều giải pháp được
nêu ra nhưng không giải pháp nào được đồng thuận. Chợt một nhà thơ nổi danh về
truyện cực ngắn vỗ đùi cái bộp, reo lên:
- Có rồi! Đề nghị nhà
nước bổ sung chế độ NHUẬN ĐỌC cao hơn nhuận bút.
Giải pháp được đồng thuận
ngay.
Hoan hô! Giải pháp chắc
chắn góp phần tích cực giải quyết công ăn việc làm cho những cử nhân, thạc sĩ
hiện đang thất nghiệp. Hoan hô!
BỮA
TIỆC ĐẮNG
Ông X. là chủ doanh nghiệp có tiếng yêu
văn học nghệ thuật. Một lần tôi được ông mời dự bữa cơm thân mật tại gia cùng
nhiều quan khách lãnh đạo và văn nghệ sĩ, nhà báo địa phương, để lấy cảm hứng
viết ca ngợi doanh nghiệp của ông chủ “Mạnh Thường Quân” này.
Những mâm cỗ thịnh soạn, những thực
khách mặt đỏ phừng phừng, nói cười ồn ã, rượu Tây nổ bôm bốp, cốc chạm chan
chát… cùng thái độ nhiệt tình, chu đáo của gia chủ làm tôi bị tác động tâm lý
nên buồn… đi tiểu không chịu được. Khi đi qua nhà bếp đến nhà vệ sinh, tôi bất
ngờ thấy ông bạn đồng nghiệp già dúm dó ngồi ăn ở góc bếp. Tôi ngạc nhiên:
- Sao ông lại ngồi đây? Ông là thế nào với
ông chủ?
Ông bạn gạt nước mắt:
- Tôi là bố đẻ thằng chủ bữa tiệc này.
Nó bảo tôi trông nhếch nhác, không cho lên ngồi cùng khách, sợ làm xấu mặt nó.
Tôi nghe ông nói mà đắng chát trong miệng.
Lặng lẽ chuồn lối cửa sau, ra đến đường cái, tôi phóng xe máy đi như bị ma đuổi.
THẰNG
HÀO LÀ THẰNG NÀO?
Chú em con cậu tôi, hồi trẻ rất ngỗ ngược.
Chú nổi tiếng “anh chị” ở làng, ai cũng kiềng mặt chú. Đám thanh niên ba trợn
quanh vùng bị chú dùng vũ lực thần phục, tôn chú làm đại ca.
Một lần chú khoe:
- Ở cái đất Trà Lũ này, chỉ có mọi người
sợ tao, chứ tao chẳng sợ thằng đếch nào hết.
Nghe chú nói thế, cậu tôi hỏi:
- Thế mày có sợ thằng Hào không?
Chú ngạc nhiên hỏi:
- Thằng Hào là thằng nào? Sao con không
nghe tiếng?
Cậu tôi vỗ vào ngực mình, bảo:
- Thằng Hào là thằng này chứ còn thằng
nào!
- !!!
ĐỘNG
LỰC
Chuyện này tôi nghe ông bạn đồng môn Phạm
Hữu Du nguyên Trưởng khoa Tại chức Trường Đại học Văn hóa Hà Nội kể trong một lần
bù khú tếu táo chuyện cười. Nay chép lại thành văn cùng các bác đọc xả trét
ngày Chủ nhật, ngoài ra chẳng có ý gì đâu ạ.
Chuyện rằng:
Cuộc thi bơi tự do quy mô toàn cầu diễn
ra ở một nước phương Tây có bề dầy văn hóa văn minh nổi tiếng. Bên cạnh các tuyển
thủ thân hình săn chắc, to lớn đại diện cho các nước ở châu Âu, châu Mỹ, châu
Phi… một tuyển thủ của một nước ở rất xa bé nhỏ trông như đứa trẻ lẫn vào giữa
các tuyển thủ khác.
Cuộc thi diễn ra được hai phần ba quãng
đường, tuyển thủ bé nhỏ đã rớt lại sau rất xa so với các tuyển thủ khác. Nhưng
đến giai đoạn “nước rút”, bất ngờ tuyển thủ bé nhỏ lao lên như tên bắn, hai
chân đạp nước mạnh như chân vịt tàu thủy, hai tay guồng như chong chóng, lần lượt
vượt lên trước các tuyển thủ khác và chạm đích đầu tiên. Vừa chạm đích, nhà vô
địch nhảy vội lên bờ, mặt thất sắc, mắt thất thần, mũi mồm tranh nhau thở hổn hển.
Khán giả, các nhà báo hoan hô vang dội, ào ào vây quanh tuyển thủ vô địch. Một
nhà báo hỏi:
- Anh đã lập được một kỳ tích. Xin anh
cho biết động lực để anh chiến thắng phải chăng là vì danh dự dân tộc, vì màu cờ
sắc áo của đất nước anh?
- Đ… mẹ!... Cá… Cá sấu!...
THÓI
QUEN
Bà xã tôi đi sớm trông cháu cho vợ chồng thằng út đi
công việc, không kịp nấu miến cho chồng ăn sáng như mọi ngày, phải đưa tiền cho
tôi đi quán.
- Ôi trời ơi! Hôm nay ông ăn sáng quán tôi thì chắc trời
mưa đây! Mời ông vào bàn VIP chờ một chút.
Bà chủ quán bún đầu ngõ niềm nở khi thấy tôi đột ngột
xuất hiện ở quán ăn sáng của bà. Cùng ngõ nhưng đây là lần đầu tôi ăn bún quán
bà.
Tôi ngồi xuống bàn VIP theo hướng dẫn của chủ quán và
nhìn ông già đối diện đang xì xụp bát bún thập cẩm đầy tú hụ. Lão khách mặc bộ
comple caravat cũ nhưng được là cẩn thận. Thỉnh thoảng lão ngước nhìn trộm tôi,
khi bắt gặp ánh mắt tôi thì lão vội vàng cụp mắt xuống bát bún. Trông lão này
gian gian. Nhưng qua cách ăn mặc thì ra vẻ nguyên một cán bộ nhà nước. Tôi vừa
ăn vừa tò mò tế nhị theo dõi lão. Ăn xong, lão quẹt đôi đũa hai phát lên hai
bên mép, lấy tờ giấy vệ sinh lau cái thìa nhôm. Lão nhìn trộm tôi một cái rồi
thọc tay bỏ chiếc thìa vào túi áo.
Nhìn lão cưỡi con Ablex lao đi, tôi nói nhỏ với bà chủ
quán:
- Bà này, lão khách vừa ra ăn cắp chiếc thìa nhôm đấy!
Bà chủ quán bình thản:
- Tôi biết! Nhưng không sao, không mất đâu ông ạ!
Tôi nhạc nhiên:
- Bà nói sao, tôi không hiểu!
- Ông muốn biết thì sáng mồng một đầu tháng, cũng tầm
này, mời ông ra ăn sáng thì rõ.
Sáng mồng một, tôi ra quán bà hàng xóm sớm hơn hôm trước,
ngồi sẵn bàn VIP chờ lão khách. Tôi quan sát ống đũa thìa, đếm được 5 cái thìa
nhôm. Lát sau lão khách comple caravat bước vào ngồi đúng chỗ hôm trước. Lão xì
xụp bát bún thập cẩm tú hụ. Ăn xong, lão quẹt đôi đũa hai phát hai bên mép, rút
tờ giấy vệ sinh lau cái thìa. Khi lão đứng lên ra xe, tôi vội nhìn đếm thìa
trong ống đũa. Trong ống đũa chỉ còn 3 cái thìa. Cộng một cái tôi đang dùng vẫn
thiếu một cái. Nhưng bên chân ống đũa ở đâu lại lòi ra ba buộc thìa. Tôi tò mò
đếm được đúng 30 chiếc.
Bà chủ quán bảo:
- Ông hiểu rồi chứ!
- Vâng, thật là lạ!
- Không có gì lạ đâu ông ạ. Lão ấy nguyên là lãnh đạo
một Sở hàng tỉnh đấy. Thói quen ấy mà.
- Thói quen???!!!
KỂ THÊM THAY CHO LỜI BÌNH:
Khi tôi đăng truyện này lên mạng, một bạn đọc bảo:
- Đọc “Thói quen” em không hiểu.
Tôi đùa:
- Vâng, tôi quan sát cuộc sống thế nào thì ghi lại như
vậy, chứ chính tôi cũng chả hiểu.
Tôi hỏi thằng cháu ngoại đang học Đại học Nội vụ:
- Cháu hiểu chuyện ông viết thế nào?
Thằng cháu bảo:
- Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt mà ông. Ông khách
vốn là một quan hưu. Khi đương chức, ông ấy ăn cắp công quỹ, ăn cắp thuế dân lặp
đi lặp lại nhiều lần nên nó thành thói quen rồi, thấy cái gì hay hay không lấy
thì không chịu được.
- Vậy tại sao ông ấy lại trả lại vào ngày đầu tháng?
- Có lẽ ông ấy về hưu, sống gần dân nên muốn trở lại làm
người tử tế. Có điều cái thói quen cố hữu khó bỏ nên cái chu kỳ ăn cắp, đem trả,
lại ăn cắp… nó còn diễn ra tới khi nào ông ấy vượt được chính mình để thực sự
thành người tử tế ông nhỉ.
Lại một ông bạn hưu quan trách tôi:
- Ông vơ đũa cả nắm là không được đâu. Có phải cứ làm
quan là ai cũng ăn cắp đâu.
- Ô hay! Thì tôi
cũng chỉ nói cá nhân ông quan ấy thôi, chứ có kết luận tất cả quan các ông đều
ăn cắp đâu! Việc gì ông phải động lòng nhỉ!
Thế còn bạn đã đọc truyện này, bạn nghĩ sao?
DỞ
RỒI LẠI HAY
Hồi mới được kết nạp
vào Hội Văn học Nghệ thuật địa phương, tôi viết bài “Từ người lính kèn trở
thành nghệ sĩ nhân dân” (viết về Nhạc sĩ Đinh Ngọc Liên) gửi Tạp chí
Văn nghệ tỉnh. Một vị trong lãnh đạo Ban biên tập đọc xong, phán:
- Bài kém quá! Anh viết thế này thì đăng
sao được. Anh phải viết thế này…
Tôi nổi tự ái, bảo:
- Không đăng được thì thôi!
Tôi bèn trao đổi với nhà nghiên cứu
Hoàng Dương Chương, khi đó là Giám đốc Thư viện tỉnh, nơi tôi công tác:
- Chắc tạp chí
coi thường người không có chức tước nên không đăng bài của em. Vậy em ghi tên
anh đồng tác giả xem sao.
- Ừ!
Tôi lấy nguyên
bài viết cũ, ghi thêm tên Giám đốc Thư viện tỉnh Hoàng Dương Chương đồng tác giả
rồi gửi cho Tạp chí Văn nghệ tỉnh.
Khi Tạp chí được
phát hành, chính vị lãnh đạo biên tập trước đây chê bài của tôi dở nên không
đăng, bây giờ lại xuýt xoa cảm ơn nhà nghiên cứu Hoàng Dương Chương:
- Em đang bí vì thiếu bài về danh nhân,
vớ được bài của anh, thật là buồn ngủ gặp chiếu manh. Bài viết hay quá!
- !!!
PHẢI
CHI NGHE VỢ
Giám đốc nhớn gọi Phó Giám đốc nhỏ lên
phòng riêng:
- Kỳ này anh đôn thằng Giám đốc nhỏ lên
giữ chức Phó Giám đốc nhớn hầu hạ anh. Anh quyết định chú lên Giám đốc nhỏ.
Phó Giám đốc nhỏ cảm ơn rối rít và chắc
mẩm phen này chức Giám đốc nhỏ cầm chắc trong tay. Tối vợ bảo:
- Anh này! Giám đốc nhớn đã nói thế, hay
là em đi vay mượn thu xếp lấy mấy chục triệu để anh cảm ơn anh ấy?
Phó Giám đốc nhỏ gạt đi:
- Anh ấy đã nói thế rồi thì cứ yên tâm.
Sáng mai nhận quyết định xong, mình cảm ơn anh ấy cũng chưa muộn.
Sáng hôm sau, Trưởng phòng Tổ chức đọc
Quyết định bổ nhiệm chức Giám đốc nhỏ. Phó giám đốc nhỏ tư thế sẵn sàng lên nhận
Quyết định. Nhưng khi Trưởng phòng Tổ chức đọc đến tên người được phong chức lại
không phải Phó Giám đốc nhỏ, Phó Giám đốc nhỏ đứng chết lặng, ngơ ngác, không
hiểu chuyện gì đang diễn ra.
Phải chi tối qua nghe vợ.
KHEN ĐỂU
Nhà thơ họ Chu gọi điện
bảo:
- Tôi vừa đọc bài của
tác giả họ Phạm giới thiệu tập thơ của nhà thơ họ Đỗ đăng trên blog của chú.
Sao chú lại đăng một bài khen đểu vậy?
Tôi nóng mặt, gằn giọng:
- Bác nói thế là sao?
Bài của bác Phạm viết hay, bình đâu ra đấy, thơ trích dẫn hay tuyệt như vậy, bạn
đọc comments khen lắm cơ mà, sao bác lại bảo là khen đểu?
- Thì chính là câu thơ
hay tuyệt ấy đấy. Câu ấy ông Đỗ ăn cắp của ông Vũ, nhờ câu thơ ấy mà ăn gian được
giải thưởng thơ, bị đồng nghiệp Minh Thư viết bài phanh phui trên báo Người Hà
Nội, chú không biết à?
- Ớ… ớ…!!!
KHEN
CHO NÓ CHẾT!
- Anh là một nhà nghiên
cứu thuộc hàng cây đa cây đề của làng văn học nghệ thuật tỉnh. Hắn chỉ là một
tác giả làng nhàng. Tư cách đạo đức hắn thuộc loại đầu đường xó chợ. Vậy mà anh
lại công bố một bài viết trên tạp chí văn học nghệ thuật ca ngợi, ví hắn với vĩ
nhân là sao?.
- Ồ, thằng này là loại
rác rưởi, khen cho nó chết ấy mà!
ÔNG
MÀ CÓ QUYỀN…
-I-
Đang lên lớp giảng bài ở huyện Nghĩa
Hưng thì điện thoại di động của lão réo chuông. Lão định tắt máy, nhưng nhìn thấy
tên người gọi đến là Nhà thơ Trần Đắc Trung mà lão rất kính nể, lão liền xin lỗi
học viên rồi bắt máy:
- Dạ, em nghe
đây bác!
- Sáng nay liên hoan mừng công ra mắt cuốn
“Thơ 1000 năm Thăng Long Hà Nội - Thiên Trường Nam Định”, sao bác không tới dự?
- Thế à? Có ai báo em đâu!
- Hội gửi giấy mời từ tuần trước cơ mà.
Thôi không cần giấy mời, bác tới hội ngay cho vui nhé!
- Nhưng em đang dạy ở Nghĩa Hưng. Nếu có
giấy mời trước khi họp ít nhất một ngày thì em mới bố trí đổi lịch được.
Lão nghĩ: Mình
là đồng tác giả sưu tầm, tác giả dịch, tác giả thơ, người biên soạn cuốn sách
này, vất vả nửa năm trời, giờ liên hoan mừng thắng lợi lại không được dự. Chỉ tại
cái bọn Bưu điện làm ăn tắc trách. Ông mà có quyền, ông kiểm điểm chúng mày đến
nơi đến chốn.
-II-
Họp bộ môn, chủ tịch Hội bảo:
- Sáng mai bác đi nhận giải thưởng Lương
Thế Vinh nhé!
- Thế à? Mình có giấy mời đâu!
- Giấy mời gửi cả tuần rồi, bác chưa nhận
được à? 8 giờ sáng mai bác ra nhận giải nhé!
Sau hôm lão nhận giải 5 ngày thì Bưu điện
mới đưa giấy mời tới nhà.
Lão nói một mình: May mà họp bộ môn trước
hôm lĩnh giải một ngày, biết được. Cái bọn Bưu điện này làm ăn tào lao chi
khươn quá. Ông mà có quyền, ông cúp lương chúng mày.
-III-
Nhà nghiên cứu Đồng Ngọc Hoa từ huyện Trực
Ninh điện:
- Sáng mai hẹn gặp ông ở Hội nhé!
- Có việc gì đến thẳng nhà tôi, ra Hội
làm đếch gì!
- Ơ cái ông này! Ông chưa nhận được giấy
mời họp tổng kết Bộ môn Nghiên cứu Phê
bình à? Tôi nhận giấy mời từ tuần trước cơ mà!
Lão bực mình điện hỏi Phó Chủ tịch Hội:
- Này, các bộ môn họp đông họp tây, còn
Bộ môn Nghiên cứu Phê bình bao giờ họp mà mình chẳng thấy giấy mời gì vậy?
- Bác để em kiểm tra lại bộ phận hành
chính…
Lát sau Phó Chủ tịch Hội điện lại cho
lão:
- Hành chính gửi giấy mời rồi mà bác. Địa
chỉ của bác là 13/398 đường Trường Chinh phải không ạ?
- Thì đúng thế!
- Vậy chắc Bưu điện chuyển thư chậm.
Sáng mai 8 giờ mời bác ra Hội tổng kết bộ môn ạ!
Lão quát to một mình: “Lại cái bọn Bưu
điện làm ăn du dơ vô trách nhiệm, chuyển thư chậm như rùa. Nhà ông cách trung
tâm Bưu điện hai cây số, cách Hội Văn học Nghệ thuật già một cây số, cách Bưu
điện đường Hàn Thuyên phường Vị Xuyên 400 mét, cách Bưu điện trên đường Trường
Chinh cạnh sân vận động Thiên Trường 300 mét mà thư hai tuần chưa tới, có khi
chúng nó vứt mẹ nó thư của người ta đi cũng nên. Ông mà có quyền, ông sa thải hết
chúng mày!”
Lão bà nghe lão quát, biểu:
- Con giai ông, cháu gái ông, con rể ông
đương chức công nhân bưu điện tỉnh cả đấy! Nếu ông có quyền, ông có giám cách
chúng nó không? Hay ông cách luôn cái chức “NGUYÊN KẾ TOÁN TRƯỞNG BƯU ĐIỆN TỈNH”
của em gái ông?
- Ơ… ơ…!!!
ĐIẾU
CÀY VẪN ĐỢI BẠN TÌNH
Tự nhiên tôi đau sụn lưng rồi đau ra các khuỷu tay
chân không thể làm được việc gì. Khám chữa mãi không khỏi, đành chịu đựng và
trông chờ tác dụng thần thánh của Khương Thảo Đan như VTV1 quảng cáo. Nhớ bạn,
tôi gọi điện than vãn với Đồng Ngọc Hoa:
- Cuối chầu rồi ông ạ, sức khỏe tôi xuống cấp nhanh
quá, đành bỏ hết việc nghiên cứu, bỏ viết sách của bộ môn, nằm nhà buồn muốn chết.
Đồng Ngọc Hoa bảo:
- Có tuổi rồi, lắm bệnh. Tôi cũng cứ đau khắp mình mẩy
ông ạ. Để Tết tôi ra thăm ông.
Tôi sai cháu ra chợ mua cái điếu cày và gói thuốc lào
Vĩnh Bảo, để ông Hoa ra chơi khỏi phải đi quán nước. Lần nào qua thăm tôi, ông
Hoa cũng mấy lượt tạt ra quán nước, bắn mấy phát “Badôca”. Ông Hoa nghiện thuốc
lào, điếu cày là bạn tình của ông, không gặp là không chịu được. Ông vê vê viên
thuốc lào ấn đầy lõ điếu, tay phải bấm bật lửa ga dí vào lõ điếu, tay trái nâng
điếu lên, miệng hít một hơi thật dài. Điếu cày cười sòng sọc liên thanh như cô
nàng hứng tình được thỏa mãn. Từ miệng ông, một luồng khói trắng tròn tuôn ra
thẳng băng. Ông vỗ bàn tay phải vào miệng điếu nghe cái bộp, hất tàn thuốc ra
ngoài, lại vê một điếu mới…
Tôi thì không thuốc, không chè, không rượu, không cà
phê. Vậy mà khi ông Hoa hút thuốc, tôi vô thức hếch mũi lên khịt khịt, cảm thấy
thú vị ngửi mùi thơm ngai ngái của khói thuốc từ miệng ông bay ra.
Tôi bày sẵn điếu cày mới mua trên bàn chờ ông Hoa.
Nhưng dịch covid-19 Vũ Hán xảy ra, ông Hoa không ra
Nam Định vào dịp Tết được. Ông nhắn tin: “Dịp Ba mươi tháng Tư và mồng Một
tháng Năm, thể nào tôi cũng ra thăm ông”.
Điếu cày và gói thuốc lào Vĩnh Bảo vẫn nằm trên bàn chờ
ông ngày đêm, mong mau tới Ba mươi tháng Tư.
Nhưng rồi Ba mươi tháng Tư, mồng Một tháng Năm cũng
không thấy ông Hoa ra Nam Định. Tôi điện hỏi thì được người nhà ông cho biết
ông đang bệnh trọng không đi đâu được.
Đúng là cánh mình thất bát tuần rồi ông Hoa ơi, cái
mong muốn rất bình thường là gặp nhau mà cũng không thực hiện được. Sinh lão bệnh
tử là quy luật đời người, bọn mình đều đến thời bệnh rồi chăng, biết làm sao. Lực
bất tòng tâm, chỉ còn biết lòng hướng về nhau, cầu cho nhau khỏe mạnh.
Ông Hoa ơi, điếu cày vẫn đợi bạn tình.
ĂN DẤU
(Sưu
tầm và kể)
Hai anh bạn thân lâu ngày mới đến thăm nhau, chủ nhà sai vợ giết
gà đãi khách. Khổ nỗi nhà nghèo, có mỗi con gà mái đẻ lấy trứng làm thức ăn
hàng ngày, đành phải giết cho chồng đãi khách, chị vợ xót ruột lắm. Thương chồng,
chị chỉ giữ lại cái mề gà cho mình, còn bao nhiêu thịt gà luộc đều bày hết ra
mâm cho chồng và khách. Hai anh bạn vừa uống rượu, vừa hàn huyên rôm rả. Chị vợ
ở trong buồng chờ chồng sai phái. Trước khi ăn, khách đề nghị chủ:
- Nhân có mâm thịt gà luộc, tôi và bác chơi trò ăn dấu cho vui,
hỉ?
Chủ bất đắc dĩ hưởng ứng:
- Vâng, thế bác định chơi thế nào?
- Bây giờ thế này, tôi và bác quy định: nếu bộ phận nào của gà
có dấu sắc thì nhường bác, còn dấu huyền là của tôi. Bác đồng ý chứ, hỉ?
- Thôi được, tôi đồng ý.
Khách thao thao bất tuyệt:
- Ôi, đùi, đùi là của tôi.
Vừa nói, khách vừa gắp lên bát hai cái đùi gà, xé ăn ngấu nghiến.
Trong khi chủ tìm mãi chưa được cái dấu sắc nào thì khách lại reo lên:
- A, đây rồi, lườn, lườn là của tôi.
Khách cầm cả hai cái lườn gà xé ăn ngon lành. Đĩa thịt gà chỉ
còn lại cái cánh xương xẩu. Chợt khách phát hiện ra chủ chưa ăn miếng nào,
khách nhồm nhoàm bảo:
- Ô kìa, bác ăn đi chứ, đây này, cánh, cánh là sắc của bác đấy.
Dấu huyền của tôi chả còn.
Chị vợ trong buồng nghe thế, liền đưa cái mề gà chưa kịp ăn ra
cho khách:
- Dạ, em còn một cái dấu huyền, mời bác xơi nốt ạ.
- !!!
VÔ
TƯ
Trong một lần bù khú với Nhạc sĩ Lê Huy
Tập và Nhà thơ Tống Đức Hiển, tôi nghe hai ông liên hoàn đọc bài thơ có tiêu đề
là “Vô tư”. Tôi chợt liên tưởng đến hiện thực ở một số cơ quan nhà nước. Vậy là
tối về, tôi soạn thành câu chuyện…
Chuyện rằng:
Thủ trưởng trẻ mới nhậm chức thay thủ
trưởng già về hưu. Để tỏ ra là tay chịu chơi và hòa mình với quần chúng, thủ
trưởng trẻ mở tiệc buổi tối chiêu đãi toàn bộ công nhân viên chức trong cơ
quan. Không khí trịnh trọng nghiêm trang ban đầu nhanh chóng nhường chỗ cho
không khí cởi mở thoải mái gần gũi sau lời tuyên bố của thủ trưởng trẻ:
- Thưa anh chị em, tôi mới nhậm chức còn
bỡ ngỡ, xin được tất cả ủng hộ. Bữa tiệc tối nay là để chúng ta hòa mình với
nhau. Tính tôi thoải mái vô tư. Tiền chi tiệc là tiền chùa. Vậy chúng ta cứ vô
tư đi, uống dài dài, lai rai dài dài không hạn chế.
Tiếng vỗ tay rào rào, tiếng mở nút chai
bôm bốp, tiếng chạm cốc như súng liên thanh, tiếng cười muốn vỡ phòng tiệc.
Khi các cái bụng thực khách đã chứa đầy
sơn hào hải vị và rượu tây rượu ta, các cái đầu đã nóng lại càng nóng thêm, các
cái miệng luôn cười khe khé, nồng nặc hơi men. Cậu phụ trách công tác văn hóa
văn nghệ cơ quan dùng cái xương đùi gà vừa gặm hết thịt gõ cheng cheng vào cái
đĩa men dùng đựng rau thơm:
- Im lặng! Im lặng nghe tôi nói. Hôm nay
tân thủ trưởng cho chúng ta vô tư nhậu, nhậu dài dài bằng tiền chùa, thật là đã
quá. Vậy tôi đề nghị ta cùng làm bài ca dao lấy tên là VÔ TƯ để ghi nhớ cái buổi
hôm nay. (Vỗ tay). Tôi xin đọc câu mở đầu như vầy:
Vô tư là cái dài dài
Phó thủ trưởng miệng còn đang nhai miếng
lẩu dê, trợn mắt nuốt vội, hưởng ứng:
- Tôi xin làm câu tiếp như sau:
Vô đi vô lại sáng mai vẫn còn.
Đến lượt bà trưởng ban nữ công tham gia:
- Thưa các anh, theo kinh nghiệm bản
thân, em xin định nghĩa cái “vô tư” thế này.
Nói rồi bà hắng giọng đọc liền hai câu
như hát:
Vô tư là cái tròn tròn
Vô đi vô lại vẫn còn... vô tư.
Tiếng vỗ tay rào rào, tiếng mở nút chai
bôm bốp, tiếng chạm cốc như súng liên thanh, tiếng cười muốn vỡ phòng tiệc, tiếng
tán thưởng “Hay quá! Hay quá!” rền rền.
Cậu phụ trách công tác văn hóa văn nghệ
cơ quan lại đập cheng cheng cái xương đùi gà lên mặt đĩa men:
- Bây giờ đến lượt thủ trưởng. Đề nghị tất
cả im lặng nghe thủ trưởng tổng kết. Xin trịnh trọng mời thủ trưởng cho lời
vàng ngọc.
Thủ trưởng mặt đỏ như gà chọi, miệng líu
ríu:
- À... ừ... Đáp lại tấm lòng ủng hộ của
anh chị em, tôi tổng kết thế này, e hèm...
Vô tư là cái... vô tư.
Trưởng phòng hành chính cười toác cả miệng:
- Thủ trưởng đã kết luận rồi: “Vô tư là
cái... vô tư”. Vậy tôi đề nghị:
Đã vô tư, cứ từ từ mà vô...
Tiếng vỗ tay rào rào, tiếng mở nút chai
bôm bốp, tiếng chạm cốc như súng liên thanh, tiếng cười muốn vỡ phòng tiệc, tiếng
tán thưởng “Hay quá! Hay quá!” rền rền.
Tiếng la hét “Cứ từ từ mà vô” điệp
khúc...
Cứ từ từ mà vô... đến sáng.
Cứ từ từ mà...
Cứ từ từ...
Cứ từ...
Cứ…
SỜ... XỜ...
(Sưu tầm và biên soạn)
Cô giáo miền xuôi lên công tác ở miền
núi. Cô giảng mãi mà học sinh vẫn không phân biệt được S với X. Một đồng nghiệp
bảo:
- Đối với trẻ em dân tộc thiểu số thì phải
dùng hình tượng chúng mới hiểu được.
Cô cho là phải, bèn nghĩ ra cách dạy dễ
hiểu hơn. Hôm sau lên lớp, cô vừa viết chữ S thường lên bảng vừa nói:
- Chữ S trông giống con chim, trên là đầu,
dưới là đuôi, cái bụng vòng bên phải. Đúng chưa nào?
Cả lớp đồng thanh:
- Thưa cô, đúng ạ!
Cô lại viết chữ X thường lên bảng và hỏi:
- Chữ X trông giống con gì nào?
Một học trò thưa:
- Thưa cô chữ X giống con bướm ạ!
Cô giáo khen:
- Đúng rồi! Em giỏi lắm! Vậy các em đã
phân biệt được chữ S với chữ X chưa nào?
Cả lớp đồng thanh trả lời:
- Thưa cô, rồi ạ! S
giống con chim, X giống con bướm ạ!
Đến giờ chính tả, cô vừa đọc đến từ “sản
xuất” thì một học sinh rụt rè hỏi:
- Thưa cô, “sản xuất” phải viết... sờ
chim hay xờ bướm ạ?
- !!!
NỠM
CÔ BẠN DẠY TIẾNG ANH
Có cô giáo dạy Anh văn rất xinh vẫn thường hay
khoe mình giỏi tiếng Anh. Cô nàng tốt
nghiệp Cao đẳng Anh văn Ha-vớt (Là nghe người ta hay gọi người tốt nghiệp trường
tại chức thế).
Có lần mình đọc một bài thơ của Henry Long Fellow và
nói dóc là thơ của mình cho cô bạn nghe. Cô bạn nghe rồi chê ỏng chê eo rằng
thơ dở, viết sai ngữ pháp.
Mình lại đọc một bài thơ ngắn viết bằng tiếng Anh của
mình và nói dóc là thơ của Henry Long Fellow. Cô nàng nghe xong tấm tắc khen
hay.
Thực ra bài thơ mình làm từ năm 1968 khi ấy đang học đại
học năm thứ nhất, để trả bài thầy dạy tiếng Anh. Thầy bảo “Bài thơ của em có ít
nhất một từ dùng sai cơ bản”. Mình hỏi: “Thưa thầy, từ nào sai ạ?”. Thầy bảo:
“Cậu phải tự mình suy nghĩ tìm ra lỗi mới nhớ lâu được!”.
Hai nhăm năm sau mình vẫn không tìm ra từ dùng sai
trong bài thơ. Mình hỏi cô bạn vẫn tự khoe mình giỏi tiếng Anh:
- Em đọc kỹ lại bài thơ xem có từ nào dùng sai không?
- Không sai lỗi từ nào cả. Một bài thơ rất hay.
Bài thơ ấy thế này:
As if your youth is crossing
And to you the old is coming
I love you again very deep
Forever you are my darling
Nay đã lại hai nhăm năm qua rồi, em gái thường khoe
mình giỏi tiếng Anh chắc giờ giỏi lắm. Em đã phát hiện ra cái lỗi trong bài thơ
của anh (chứ không phải của Henry Long Fellow) chưa?
Bạn nào phát hiện ra lỗi trong bài thơ xin chỉ giáo
cho tôi và cô bạn thường hay khoe mình giỏi tiếng Anh với ạ! Xin chân thành cảm
ơn các bạn!
CHỈ CHO HÔN CHỖ ẤY
(Sưu tầm và biên soạn)
Hai anh bạn đồng hương cùng tuổi. Một
anh con nông dân nghèo, học giỏi, bị động viên vào lính, đi chiến trường, phải
bỏ học giữa chừng. Một anh con nhà lãnh đạo, học dốt, được cử đi học ở nước ngoài. Hơn chục năm
sau, số phận sắp đặt thế nào mà hai anh bạn lại cùng công tác ở một viện nghiên
cứu khoa học. Một anh làm bảo vệ, còn anh kia là Tiến sĩ làm cán bộ chủ chốt của
viện. Anh bảo vệ ngày ngày cần mẫn làm nhiệm vụ bảo vệ, canh cổng cơ quan. Anh
Tiến sĩ đến cơ quan bằng xe con của viện. Mỗi lần qua cổng viện, anh Tiến sĩ
thường nhìn bạn đồng hương bằng ánh mắt thương hại.
Trong viện có một cô kỹ sư xinh đẹp mặn
mà hiền dịu. Đặc biệt trên má phải của cô có một vùng da trắng đẹp nổi bật. Cô
kỹ sư xinh đẹp là mục tiêu cho các chàng trai trẻ khỏe trong viện mơ ước và tán
tỉnh. Chàng Tiến sĩ là một trong số ấy.
Một thời gian sau, chàng Tiến sĩ đã
chinh phục được cô kỹ sư. Chàng lấy làm tự hào trước các đối thủ của mình. Nhưng
có điều rất lạ là không hiểu làm sao, cô kỹ sư chỉ cho phép chàng Tiến sĩ hôn
vào chỗ da trắng đẹp nhất trên má phải của cô. Tò mò, chàng Tiến sĩ gặng hỏi:
- Tại sao em chỉ cho anh hôn vào vị trí
da đẹp nhất trên má phải của em?
Cô kỹ sư bảo:
- Vì trên cơ thể của em chỉ có chỗ ấy là
đẹp và có giá trị nhất mà em trân trọng yêu quý. Đó còn là chứng tích kỷ niệm
chiến trường mà em không thể quên.
Tình cờ một lần cùng tắm hơi, chàng Tiến
sĩ thấy trên mông trắng của anh bảo vệ có vết sẹo sần sùi, bèn hỏi:
- Này, hình như thân thể ông chỉ có vùng
mông là đẹp nhất, nhưng sao lại có vết sẹo xấu xí vậy?
- À… ngày tôi là chiến binh, tôi tình
nguyện để các bác sĩ lấy vùng da mông ghép má cho một cô gái trẻ phục vụ chiến
trường bị thương ấy mà!
THƯ
VIỆN HY LONG
Cuối
thế kỷ 19, ở làng Hành Thiện, phủ Xuân Trường (nay là thôn Hành Thiện, xã Xuân
Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) có một thư viện tư nhân nổi tiếng đương
thời. Đó là thư viện Hy Long của Nhà giáo Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng.
Năm 1888 Đặng Xuân Bảng mở trường dạy học. Học
trò theo học có hàng nghìn người, nhiều người đỗ đạt, tiêu biểu là Phó bảng Vũ
Tuân, nhà thơ Phạm Mạnh Doanh... Sĩ phu đương thời tôn Đặng Xuân Bảng là
"Bậc học nhiều biết rộng". Để giúp học trò thuận lợi trong học tập,
ông phát triển tủ sách gia đình thành thư viện lớn, lấy tên là Thư viện Hy
Long.
Thư viện Hy Long có 6 gian nhà ngói thường xuyên chất
đầy sách, một xưởng in có hai thợ khắc gỗ Liễu Tràng (Gia Lộc, Hải Dương)
chuyên khắc mộc bản và ba thợ in ấn đóng sách làm việc thường xuyên. Xưởng in của
Thư viện Hy Long đã in ấn, phát hành nhiều tác phẩm của Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng
và của các sĩ phu yêu nước khác. Ngoài sách có nội dung yêu nước, Thư viện Hy
Long còn có nhiều sách giáo khoa luyện thi (Hương, Hội, Đình), các bài làm
trong các kỳ thi của học trò, sách văn học, địa lý... Đối tượng phục vụ của Thư
viện Hy Long chủ yếu là hàng nghìn học trò của Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng và các
nhà nho trong toàn Bắc Kỳ. Hình thức phục vụ chủ yếu là bán sách và cho học trò
nghèo mượn đọc. Hàng tháng, người nhà của nhà giáo Đặng Xuân Bảng chia nhau
gánh sách đi bán ở các tỉnh xa như Bắc Ninh, Hải Dương, Hà Nội... Nhiều nhà
buôn sách ở Hà Nội, Nam Định cũng thường xuyên về Hành Thiện lấy sách của Thư
viện Hy Long để bán lẻ.
Trong suốt hơn hai mươi năm tồn tại (1888 - 1910), Thư
viện Hy Long hoạt động mạnh mẽ, "nhộn nhịp" và có tác dụng không nhỏ
trong việc phục vụ học tập và khích lệ lòng yêu nước của nhân dân. Thư viện Hy
Long của nhà giáo Đặng Xuân Bảng được người đương thời đánh giá là thư viện tư
nhân lớn nhất Bắc Kỳ giai đoạn cuối thế kỷ 19 - đầu thế kỷ 20, được coi ngang với
Thư viện Long Cương của cụ Cao Xuân Dục ở Trung Kỳ. Năm 1898, cụ Cao Xuân Dục
đã gửi tặng Thư viện Hy Long số tiền tương đương hai lạng vàng khuyến khích việc
in sách có nội dung yêu nước.
(Giai thoại về nhà văn Trần Huy Thuận)
Cố nhà văn Trần Huy Thuận là người thẳng
tính, trung thực, không kiêng nể ai, thấy ngang tai trái mắt là phê phán liền.
Cứ đọc “Ngang qua cuộc chơi” của ông là rõ.
Ông có thời gian tham gia Hội Văn nghệ địa
phương cùng thời với ÔNG TA, và từng làm Trưởng ban Kiểm tra, nhưng bất mãn với
người chủ trì, ông đã xin ra khỏi Hội. Còn ÔNG TA, sau “Đại hội hạ bệ” chủ tịch
Chu Văn, ÔNG TA được ngồi vào ghế Chủ tịch.
Kỷ niệm 20 năm thành lập hội, ÔNG TA đã
không cho mời nguyên Trưởng ban Kiểm tra Trần Huy Thuận.
Kỷ niệm 30 năm thành lập hội, Chủ tịch Hội
đã mời nguyên trưởng ban kiểm tra Trần Huy Thuận và các vị nguyên chánh phó Chủ
tịch Hội về dự. Ngồi cạnh nhau, ÔNG TA ghé tai Trần Huy Thuận bảo:
- Ngày ấy ông bỏ Hội là đúng. Chúng nó
toàn là những thằng đểu cả.
Trần Huy Thuận nhìn thẳng vào mặt ÔNG
TA, trả lời:
- Vâng, ông nói đúng. Ngay tôi là nguyên
Trưởng ban Kiểm tra mà kỷ niệm 20 năm thành lập Hội nó cũng không mời.
ÔNG TA nghệt mặt ra như ngỗng ỉa.
SỐNG LẠI ĐỂ NGHE VĂN
(Giai thoại nhà văn Trần Quốc
Tiến)
Nhà văn Trần Quốc Tiến - Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam là người
có khiếu văn thơ từ nhỏ. Ông được rất nhiều bạn đọc nông dân mến mộ không chỉ
vì ông là nông dân tự học thành tài, mà còn vì những tác phẩm của ông viết về
nông thôn rất hấp dẫn.
Làng bên có cụ Ngô Đức, một người thông
thạo chữ Hán rất hâm mộ văn của Trần Quốc Tiến. Năm ngoài tám mươi tuổi bị ốm nặng,
cụ sai con trai mời Trần Quốc Tiến đến nhà để cụ thưa chuyện. Khi Trần Quốc Tiến
đến, cụ trình bày nguyện vọng:
- Trước khi từ giã cõi trần, tôi muốn được
anh viết cho bài điếu để tôi sai con cháu sao thành hai bản, một bỏ vào quan
tài, một để vào khám thờ tôi. Nghĩa tử là nghĩa tận, mong anh giúp cho.
Nhà văn vui vẻ nhận lời. Nhưng công việc
cuốn hút, lại nghĩ chắc cụ Ngô Đức chưa vội quy tiên đâu nên Trần Quốc Tiến lần
khân rồi quên khuấy đi. Một buổi trưa, Trần Quốc Tiến được tin cụ Ngô Đức vừa
qua đời. Nhà văn hốt hoảng như rụng rời tay chân. Anh lao vào bàn, xé vội hai tờ
giấy vở học sinh, cầm bút viết lia lịa trong niềm ân hận, vừa viết vừa khóc. Viết
xong, anh chạy ngay sang nhà cụ Ngô Đức, xin người nhà dừng khóc và nhường lối
cho anh vào bên giường cụ nằm. Anh vái cụ hai vái, rồi xin đọc bài điếu cho
linh hồn cụ nghe. Khi đọc được một phần ba bài điếu, anh thấy hình như cụ chớp
mắt. Đọc được nửa bài, bỗng nghe cụ nói thành tiếng “Hay lắm”. Nghe xong bài điếu,
cụ yêu cầu sửa lại số lượng con cháu cho đúng thực tế, vì bài điếu nói chưa đủ.
Sau này người nhà kiểm tra lại thì hoá ra số liệu con cháu do con trưởng cụ
cung cấp là sai, số liệu cụ yêu cầu sửa mới là đúng. Nhà văn kính cẩn nâng đầu cụ dậy, đặt bài văn
xuống gối. Cụ thì thào:
- Cảm ơn! Anh ở lại, tôi đi.
Nói xong, cụ nhắm mắt rồi đi hẳn.
Chuyện người chết sống lại để nghe văn lần
đầu tiên tôi được biết. Tôi rất tin chuyện này là có thực, vì tác phẩm văn học
nghệ thuật có sức truyền cảm rất mạnh. Nếu ai không tin, cứ về xã Nam Vân, ngoại
thành Nam Định, hỏi chính nhà văn Trần Quốc Tiến, hoặc hỏi con cháu cụ Ngô Đức
thì sẽ rõ.
(Giai thoại nhà thơ Nguyễn Thị Kim Ngân)
Nguyễn Thị Kim Ngân- cô giáo dạy toán
Trường THCS Phùng Chí Kiên (Tp. Nam Định) là tác giả có thơ được in trong một số
tuyển thơ. Tập “Bến đợi” của cô do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành cuối năm
2005 được bạn đọc quan tâm tìm đọc.
Ông Trần Minh là một bạn đọc lâu năm của
thư viện tỉnh Nam Định, năm nay đã ngoài 60 tuổi. Ông rất thích bài thơ “Phải
lòng” của Nguyễn Thị Kim Ngân. Nguyên văn bài thơ như sau:
Sớm nào thả bước trên đê
Bên anh bỗng thấy say mê tình đời
Dưới sông thuyền cứ êm trôi
Trên bờ hai đứa - hai người lang thang
Cánh cò chấp chới bay ngang
Mặt trời nghiêng nắng nhuộm vàng mặt
sông.
Cớ sao sông cứ lượn vòng?
Để con đê - Kẻ phải lòng... lượn theo?
Ông Trần Minh cứ đọc đi đọc lại hai câu
kết của bài thơ “Cớ sao sông cứ lượn vòng / Để con đê - Kẻ phải lòng... lượn
theo?” Rồi ông ngắm kỹ bức hình tác giả - một cô gái xinh như mộng in ở đầu
bài thơ, càng ngắm càng mê mẩn. Ông liều gọi điện thoại xin được làm quen với
Nguyễn Thị Kim Ngân. Ông như mở cờ trong bụng khi Nguyễn Thị Kim Ngân nhận lời
tới thăm và tặng thơ cho ông. Thế rồi chờ mãi không thấy Nguyễn Thị Kim Ngân đến,
ông bức bối trút sự oán trách trong lòng bằng bài lục bát có tên là “Nỡ nào”
như sau:
Thơ em thương đến là thương
Yêu thơ nên phải đánh đường tìm... em.
Nỡ nào em hẹn rồi quên
Mặc ai đứng lửa ngồi than... Nỡ nào?
Tình thơ thánh thiện thanh cao
Phải chi ong bướm tầm phào mà e?
Hay là chưa tỉnh cơn mê
Lượn theo dòng chảy, đê về nơi đâu?
Một mai sông tới biển sâu
Còn riêng đê với khối sầu... giống ai.
Ông chưa kịp gửi thơ đi thì Nguyễn Thị
Kim Ngân bất ngờ xuất hiện và tặng ông tập thơ vừa xuất bản. Thế là mọi bức bối
trong lòng ông tan biến đi.
Tôi trêu ông:
- Hay là ông phải lòng tác giả bài thơ
“Phải lòng” rồi?
Ông cười thật hiền :
- Đâu có! Mình phải
lòng bài thơ “Phải lòng” đấy chứ!
Một bài thơ nhỏ mà làm xao động tâm hồn
ông già ngoài 60 tuổi. Sức truyền cảm của văn học thật mạnh mẽ.
THI CUỒNG TRƯỜNG LOẠN –
HỘI NÁT CƠ TEO
(Giai thoại về Văn Nhân)
Nhân dịp về thăm quê được mời dự buổi
sinh hoạt bình thơ đầu xuân của Câu lạc bộ hưu trí xóm, tôi tặng các cụ cuốn tạp
chí Văn Nhân, trong đó có đăng vế mời đối của tác giả Đỗ Thanh Dương như sau:
Người văn nhân làm báo Văn Nhân, Nhân
hòa Văn sáng
Tôi đề nghị các cụ hưởng ứng đối cho
vui. Cụ Trần Khắc Cánh – một cây bút thơ được các bạn thơ xếp loại là “nhà thơ
xóm” nêu ý kiến trước:
- Kính thưa các cụ! Các cụ đều biết là
tình trạng mất đoàn kết trong lãnh đạo Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh ta kéo dài
nhiều năm. Gần đây lại lùng bùng chuyện xét Giải thưởng Văn học Nghệ thuật định
kỳ 5 năm mà nhiều tờ báo đã phản ánh. Như thế là nhân chưa hòa. Nhân chưa hòa
thì văn làm sao mà sáng được. Vậy tôi xin cứ lấy cái thực tế ấy mà nhại lại vế
xuất đối của tác giả Đỗ Thanh Dương như sau:
Thơ trường thi tự thưởng Trường Thi, Thi
cuồng Trường loạn
“Nhà thơ xã” Trần Hùng Thắng tiếp lời:
- Vâng! Đúng như cụ Trần Khắc Cánh đã
phát biểu, “nhân hòa văn sáng” vẫn còn là mục tiêu phấn đấu, tức là còn ở thì
tương lai đối với Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh ta. Vậy vô phép các cụ, tôi xin lấy
cái thực tế ấy để nhập đối hưởng ứng tác giả Đỗ Thanh Dương.
Nói đoạn, “nhà thơ xã” hắng giọng rồi trịnh
trọng đọc vế nhập đối của mình như sau:
Phường cơ hội kéo bè Cơ Hội, Hội nát Cơ
teo
Tôi hết sức bất ngờ là dường như ngay lập
tức các cụ hưu xóm tôi đã nắm bắt được mã khóa câu mời đối của nhà nghiên cứu
văn học Đỗ Thanh Dương, từ lối chơi chữ đồng âm khác nghĩa, khác âm đồng nghĩa,
đến lối chiết tự ghép thêm định ngữ. Khẩu khí các cụ đúng là của con cháu cụ Tú
Xương.
Khi các cụ “xin ý kiến của nhà nghiên cứu
cấp tỉnh để được mở rộng tầm mắt” thì tôi chỉ còn biết chắp hai tay vái các cụ,
miệng lắp bắp: “Bái phục! Bái phục! Bái phục!”.
GIAI
THOẠI NHÀ NGHIÊN CỨU
HOÀNG
DƯƠNG CHƯƠNG
Hoàng Dương Chương là
nguyên mẫu của một số ký sự và truyện "Dũng sĩ diệt cá sấu" mà một thời
được bạn đọc nhỏ tuổi say mê. Hiện ở bảo tàng đặc công rừng Sác có bức tượng
dũng sĩ diệt cá sấu đề rõ tên tuổi anh. Anh còn là tác giả hàng trăm bài nghiên
cứu đăng báo chí, đồng tác giả trên chục công trình nghiên cứu và sách đã xuất
bản, nguyên Uỷ viên Ban chấp hành,
Trưởng ban Thanh tra Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định. Tôi
đã viết bài dựng chân dung anh đăng nhiều báo, tạp chí. Xin kể hai giai thoại về
anh:
1 -
CHỈ CÓ MỘT CÁI CHƯA BIẾT
Ông HV là một tác giả
"tầm tầm" cỡ địa phương có tính rất thích khoe sự hiểu biết của mình.
Một lần đi cơ sở, ông ta thao thao bất tuyệt hết chuyện trên trời đến chuyện dưới
biển, không còn để cho ai nói chen vào được. Quan khách nói đến lĩnh vực nào
ông cũng tham gia bàn luận say sưa, tỏ ra hiểu biết hơn người.
Trong số những người phải
ngồi "chịu trận" trước ông HV có nhà nghiên cứu - phê bình văn học Thạc
sĩ Hoàng Dương Chương tình cờ cũng đi điền dã ở cơ sở đó. Chờ cho ông HV nói
chán chê rồi, Hoàng Dương Chương mới nhận xét:
- Thưa ông, quả là cái
gì ông cũng biết, nhưng có một cái hẳn ông chưa biết.
Ông HV ngạc nhiên:
- Cái mà tôi chưa biết
là cái gì?
Hoàng Dương Chương thẽ
thọt:
- Thưa, cái mà ông chưa
biết chính là cái ông không biết mình chưa biết cái gì.
- !!!
2 -
KHÔNG CHẤP
Hoàng Dương Chương thường
được mời vào Ban giám khảo các cuộc thi về nhiều lĩnh vực ở địa phương. Một lần,
Hội đồng nghệ thuật tỉnh N. gặp khó khăn trong việc xét giải thưởng thường kỳ
cho một tác phẩm hiện có nhiều ý kiến đánh giá trái ngược nhau, bèn mời anh thẩm
định giúp để tham khảo. Bản thẩm định của anh đã có tác động mạnh tới các thành
viên Hội đồng nghệ thuật. Kết quả là tác phẩm đó (được Hội đồng nghệ thuật cơ sở
đề xuất loại A) đã bị hạ xuống loại C. Trong khi dư luận bạn đọc đồng tình với
nội dung bản thẩm định của anh thì tác giả của tác phẩm bị hạ loại lại phản đối
quyết liệt bằng đơn thư kiến nghị gửi các cơ quan chức năng và thơ văn nặc danh
với lời lẽ rất thiếu văn hoá bôi nhọ anh. Thấy anh cứ bình thản, không có phản ứng
gì trước việc người ta bôi nhọ mình, tôi hỏi:
- Là nhà nghiên cứu -
phê bình văn học có uy tín của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh mà anh lại để yên
cho cái tay học vấn chưa qua phổ thông nó điên cuồng bôi nhọ mình là làm sao?
Anh điềm tĩnh trả lời
tôi bằng một câu hỏi làm tôi "ớ" người ra:
- Thế ông bảo tôi có
nên chấp với một kẻ điên khùng không?
- !!!
GIAI THOẠI TIẾN SĨ VŨ HUY TRÁC
(Sưu tầm và biên soạn)
Tiến sĩ Vũ Huy Trác hiệu Giác Trai, (1730 - 1793) người ấp
Lộng Điền, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam (nay là thôn Lộng Điền, xã
Nghĩa Đồng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định) nổi tiếng là quan thanh liêm và
cương trực. Thời gian làm Hiến sát sứ Kinh Bắc, ông đã xử nhiều vụ án rất
nghiêm minh, bênh vực người dân vô tội, trấn áp bọn quan lại và kẻ giàu có cậy
quyền thế hà hiếp nhân dân, được nhân dân hết lời ca ngợi. Vụ phạt Đặng Mộng
Lân là một trong những vụ án Vũ Huy Trác đã xử là một ví dụ. Chuyện kể rằng:
LÀM QUAN KHÔNG SỢ UY QUYỀN
Đặng Thị Huệ người làng Phù Đổng, huyện
Tiên Sơn, sứ Kinh Bắc là người có nhan sắc nhưng vô cùng xảo quyệt và đầy tham
vọng. Sau khi được tuyển làm cung nữ, thị Huệ tìm mọi cách quyến rũ Thái tử Lê
Duy Vĩ. Nhưng khi biết vua Lê không có thực quyền, thị Huệ lại tìm cách chạy
sang phủ chúa để quyến rũ Trịnh Sâm. Từ một cung nữ, Đặng Thị Huệ trở thành
Tuyên phi đầy quyền lực, được chúa Trịnh vô cùng yêu chiều. Đặng Mộng Lân (thường
gọi là Ba Trà) là em trai Đặng Thị Huệ, đã ỷ thế của chị tha hồ tác oai tác
quái, làm nhiều điều ngang ngược côn đồ mà không ai giám trị tội. Khi Vũ Huy
Trác về làm Hiến sát sứ Kinh Bắc, có người đánh bạo kêu lên ông là Ba Trà tự do
giết người cướp của, hãm hiếp phụ nữ giữa ban ngày, ai chống cự thì bị cắt vú xẻo
tai. Nhân dân vô cùng căm phẫn nhưng các quan sở tại đều phải làm ngơ vì sợ uy
quyền nhà chúa. Vũ Huy Trác cho gọi Đặng Mộng Lân đến công đường xét xử nhưng y
không đến. Ông liền sai lính đến bắt giải y tới công đường, kể tội và ra lệnh
phạt 30 trượng rồi tống giam y vào ngục. Việc đến tai nhà chúa, Tuyên phi vô
cùng tức giận, nhưng chúa Trịnh đành phải làm thinh vì biết Vũ Huy Trác là người
cương trực. Vua Lê thì hết lời khen ngợi và thưởng cho ông 500 quan tiền.
Làm
quan nghiêm minh, không sợ uy quyền, quyết giữ nghiêm phép nước như Vũ Huy Trác
là tấm gương sáng muôn đời.
ĐỐI ĐÁP VỚI SỨ GIẢ TÂY SƠN
Tiến sĩ Vũ Huy Trác nổi tiếng về văn học.
Người đương thời gọi ông là “Thần phú Giác Trai”. Dân gian có câu “Gà Văn Cú,
phú Lộng Điền, tiền Đức Hậu” ca ngợi tài làm phú của ông. Giai thoại Đối đáp với
sứ giả Tây Sơn là một minh chứng về tài văn học của ông.
Chuyện kể rằng:
Sau khi bình định Bắc Hà, vua Quang
Trung có chủ trương sử dụng những quan lại có năng lực của nhà Lê. Xét thấy Tiến
sĩ Vũ Huy Trác là vị quan nhà Lê có tư cách đạo đức trong sáng và có tài thu phục
nhân tâm, vua Quang Trung sai sứ giả về tận quê mời ông ra làm quan với triều
Tây Sơn. Nhưng ông mang nặng tư tưởng "Tôi trung không thờ hai chúa",
cho rằng mình hưởng lộc nhà Lê mà lại ra giúp Tây Sơn thì sẽ bị người đời chê
cười nên ông đã từ chối, không ra làm quan nữa.
Khi sứ giả Tây Sơn về quê mời Vũ Huy
Trác ra làm quan với nhà Tây Sơn, ông viện cớ mắt thong manh để từ chối. Sứ giả
không tin, liền lấy cây kim nhọn bất ngờ dứ dứ vào mắt ông. Thấy ông mắt không
chớp, nét mặt vẫn bình thản, sứ giả liền đọc một vế đối:
Con ngươi lồng lộng trong như ngọc.
Ông ứng khẩu đáp lại ngay:
Thằng bé ngăm ngăm cứng tựa đanh.
Vế đối của sứ giả thanh mà tục, tỏ ý xấc
xược lại nhắc đến tên làng Lộng Điền của Vũ Huy Trác. Vế đối của Vũ Huy Trác
dùng chữ "nghiêm trang" nói đến tên làng Ngăm của sứ giả (Vị sứ giả
này là người làng Nghiêm Trang), cũng rất thanh mà rất tục, tỏ rõ ý coi khinh sứ
giả (coi vị sứ giả này cũng như... cái chim thằng bé mà thôi). Vế đối của Vũ
Huy Trác rất chuẩn, chữ đối chữ, ý đối ý làm sứ giả tím mặt mà không chê vào
đâu được. Sau sự kiện này, vua Quang Trung biết không thể thuyết phục được Vũ
Huy Trác nên đành cho biên tên ông vào sổ nhiêu lão và để yên cho ông sống ở
quê.
Dân gian lưu truyền và nhiều sách ghi lại
chuyện Vũ Huy Trác đối đáp với sứ giả Tây Sơn như là một giai thoại xác nhận
tài năng văn học của ông.
(Giai thoại Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Liên)
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Liên hiệu Châu Phong
(1852 – 1937) người làng Hành Thiện, huyện Giao Thuỷ
(nay là thôn Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định) nổi tiếng
là người có khí phách.
Năm 1892 Toàn quyền Đông Dương De
Lanessan đi kinh lý Hải Dương. Tổng đốc Hải Dương đã thông báo cho các Tri phủ,
Tri huyện trong tỉnh phải có mặt tại Nha công sứ Hải Dương đúng ngày giờ đã định
để đón chào viên Toàn quyền. Khi ấy Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Liên làm Tri phủ Nam
Sách. Phủ lỵ Nam Sách chỉ cách thành Hải Dương 6 cây số và qua 1 con đò mà Tri
phủ Nguyễn Ngọc Liên lại đến địa điểm tập trung rất muộn. Khi ông đến nơi thì
các quan trong tỉnh đã có mặt đầy đủ, viên Toàn quyền đang đọc lời hiểu dụ. Ông
lẳng lặng đứng vào hàng với các bạn đồng liêu. Thấy Tri phủ Nam Sách đến muộn
đã không xin lỗi, lại không thèm lạy chào mình, viên Toàn quyền rất tức giận. Hắn
cho là Nguyễn Ngọc Liên có tinh thần chống Pháp nên đã đề nghị Nha Kinh lược Bắc
Kỳ phải kỷ luật ông thật nặng.
Trong thời gian này lại xảy ra vụ nghĩa
quân Bãi Sậy do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo đã tấn công đồn lính Pháp trong huyện,
giết chết 4 tên lính Pháp trong đó có tên Thiếu uý đồn trưởng, thu 17 khẩu súng
và rút lui an toàn. Đồn lính này chỉ cách phủ lỵ của Tri phủ Nam Sách Nguyễn Ngọc
Liên chưa đầy nửa cây số nhưng ông đã "án binh bất động", để cho
nghĩa quân tự do hành động. Việc này làm cho bọn Pháp nghi ngờ ông có liên hệ với
nghĩa quân Bãi Sậy. Nha Kinh lược Bắc Kỳ đã ra nghị định phạt ông nghỉ không
lương một năm. Sau đó mấy lần nha Kinh lược có ý định tái bổ chức Tri phủ, rồi
Đốc học Nam Định cho Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Liên nhưng ông quyết không nhận. Từ đó
ông ở nhà làm nghề thuốc và dạy học, đào tạo nhiều nhân tài cho đất nước.
Bằng hành động "Bất bái Toàn quyền",
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Liên đã nêu tấm gương sáng về khí tiết nhà Nho, khích lệ
tinh thần bất khuất và tự hào dân tộc.
Thời nay, không biết các hèn sĩ có biết
xấu hổ với sĩ phu thời xưa không nhỉ!
CHUYỆN Ở MỘT NHÀ GA
(Kịch bản phác thảo nhanh)
Cảnh I:
Lớp 1:
Tại phòng bán vé tàu ga N.
Một bà khách ăn mặc tuềnh toàng, năn nỉ
hai cô nhân viên bán vé:
- Các chị làm ơn cho tôi trả lại vé, xin
lại tiền… Tôi có việc đột xuất chưa thể đi chuyến này được.
Nhân viên bán vé xẵng giọng:
- Rách việc! Vé đâu?
- Đây ạ!
- Tiền đây!
Bà khách đếm đi đếm lại tiền, rụt rè:
- Cô ơi! Cô trả lại tiền còn thiếu
300.000 đồng ạ!
- Bà vớ vẩn, nhà ga quy định vé trả lại
phải trừ 30%. Vé gốc của bà 1 triệu, tôi trả bà 700.000 đồng, còn thiếu gì nữa.
- Sao trừ nhiều thế hả cô?
- Bà đi mà hỏi lãnh đạo. Không đồng ý
thì đưa lại tiền, cầm lấy vé mà đi.
- Thôi đành vậy!
Bà khách nước mắt lưng tròng, lầm lũi ra
khỏi ga.
Lớp 2:
Trong phòng bán vé, nhân viên Hoa và
nhân viên Nụ nói nhỏ với nhau.
- Hôm nay các đại lý trả lại bao nhiêu vé?
- Gần hai chục đại lý, trả lại 40
vé đi các ga ạ!
- Để bán cho khách lấy tiền chênh
lệch 30%, đến sát nút giờ tàu chạy hãy nhập máy số vé trả lại còn thừa.
- Vâng ạ!
- Nhớ chia phần cho sếp nhiều nhiều một
chút để làm ăn lâu dài.
- Biết rồi. Lần nào chị cũng nhắc. Nhờ
khoản chênh lệch này, cộng với nhiều khoản thêm thắt khác, chị em mình thu nhập
hàng tháng gấp mấy lần lương đấy! Không chi cho sếp có mà sếp cho ra bã.
Lớp 3:
Một ông khách dáng lọm khọm, vai đeo ba
lô bạc phếch ghé mặt vào cửa bán vé:
- Cô ơi! Cô cho mua một vé đi ga Đ. ạ!
Nhân viên bán vé tên Hoa đang thao tác
máy vi tính:
- Hết rồi! Chỉ còn vé đi ga H. Mua thì
đưa tiền đây.
- Vé đi ga H. bao nhiêu ạ?
- 1.000.000 đồng!
- Tôi chỉ đi ga Đ. Vé có 700.000 đồng.
Sao lại bắt tôi mua vé đi ga H. những 1.000.000 đồng?
- Đã bảo hết vé đi ga Đ. Chỉ còn
vé đi ga H. Không đi chuyến này thì tránh ra cho người khác mua. Rách việc!
- Tôi cần đi gấp, thôi đành vậy. Một triệu
đây ạ!
Cảnh II
Tại cửa soát vé ra ga chờ tàu. Nhân viên
nhà ga tên Cành nói với ông khách đang nhăn nhó than phiền với hành khách về
chuyện phải mua vé quá ga cần đến:
- Tôi chứng kiến từ đầu đến cuối cảnh
hai nhân viên bán vé ép bác mua vé quá ga với thái độ hách dịch. Tôi là người
trong ngành cũng bất bình với thái độ cửa quyền của mấy nhân viên này. Ông Bộ
trưởng đang cải cách ngành đường sắt. Bác làm đơn hoặc nhắn tin tố cáo vụ việc
với Bộ trưởng, thế nào Bộ trưởng cũng chỉ đạo kỷ luật hai nhân viên để làm
trong sạch đội ngũ cán bộ ngành đường sắt.
- Khổ quá, tôi già cả có biết gửi tin,
đơn từ làm sao đâu. Rất bất bình với thái độ hống hách của cán bộ nhà tàu nhưng
đành chịu.
- Thôi được, tôi sẽ phản ánh vụ việc
thay bác!
- Nếu ông Bộ trưởng hiểu được nỗi
khổ của dân mà ra tay chỉnh trị nghiêm minh thì dân chúng tôi mừng lắm!
Nhân viên Cành trao đổi qua điện thoại với
bạn ở thành phố H.:
- Nga à, Cành đây. Mình lại vừa chứng kiến
hai con Hoa và Nụ ăn hiếp khách với thái độ hách dịch. Mình muốn Bộ trưởng biết
xử lý những việc tiêu cực, nhưng mình cùng cơ quan không tiện. Vậy nhờ Nga nhắn
tin cho Bộ trưởng giúp mình. À… ừ… mình nhắn tin cho cậu, cậu nhắn chuyển tiếp
cho Bộ trưởng nhé. Cám ơn cậu!
Cảnh III:
Tại phòng làm việc của Bộ trưởng.
Tiếng “tút ti tút” từ máy điện thoại di
động báo có tin nhắn vang lên. Bộ trưởng cầm điện thoại đọc tin, mặt tỏ rõ sự bực
dọc. Ông bấm máy gọi cho Tổng giám đốc
ngành đường sắt:
- Tổng giám đốc đường sắt phải không. Bộ
trưởng đây! Mình vừa nhận tin nhắn của hành khách phản ánh hai nhân viên ga N.
có thái độ hách dịch và ép khách mua vé quá ga. Cậu cho xem xét và xử lý rồi
báo cáo mình ngay nhé.
Cảnh IV:
Nhà riêng Trưởng ga N.
Hoa và Nụ xách túi quà đặt lên bàn.
- Dạ, chúng em có chút quà biếu anh ạ!
- Hai cô liều quá. Để khách người ta nhắn
tin phản ánh tới Bộ trưởng. Chuyện này
không coi thường được đâu. Các anh trên Tổng công ty yêu cầu kỷ luật thật nặng,
có thể phải buộc thôi việc. Trước mắt, tôi tạm đình chỉ công tác hai cô để làm
rõ sự việc. Hai cô về làm tường trình nộp cho tôi!
- Dạ anh cứu chúng em. Trăm sự
chúng em nhờ anh lo lót cho, chúng em nguyện làm trâu ngựa cho anh cả đời.
- Thôi được rồi, hai cô về đi, tôi cố hết
sức cứu nhưng không dám hứa hẹn gì đâu… còn tùy tình hình. Nhớ là phải chối bay
vụ việc nhé! Nhận là chết đấy!
- Dạ vâng ạ!
Hoa và Nụ ra khỏi cửa.
Trưởng ga khép cửa xong, thò tay vào túi
quà, mở phong bì ra đếm, miệng lẩm bẩm một mình:
- Mấy cô này… thật là… thật là… Lần
này hai đứa biếu mình những mấy nghìn đô cơ đấy. Hai cô em có biết là cứu hai
cô cũng chính là cứu anh không nhỉ!
Cảnh V:
Hội trường ga N.
Trưởng ga:
- Sở dĩ tôi phải triệu tập đột xuất các
đồng chí tổ trưởng bộ phận, Ban lãnh đạo cơ quan gấp là do lệnh của đồng chí Tổng
giám đốc ngành. Đồng chí ấy yêu cầu điều tra làm rõ, xử lý nghiêm vụ cô Hoa và
cô Nụ ép khách mua vé quá ga với thái độ hách dịch để răn đe giáo dục. Hiện tôi
đã lệnh đình chỉ công tác của hai cô để làm rõ sự việc. Đề nghị các đồng chí
bàn bạc hiến kế cách giải quyết vụ việc cho êm đẹp.
Phó trưởng ga:
- Thưa anh, nếu vụ việc đúng như khách
phản ánh thì buộc phải kỷ luật cô Hoa cô Nụ. Hai cô bị kỷ luật thì anh và ban
lãnh đạo ga cũng phải chịu kỷ luật.
Chánh thư kí công đoàn:
- Em đề nghị trước hết ta điều tra xem
ai nhắn tin và điều đình với họ rút ý kiến. Việc này phải nhờ bên công an giúp
mới được ạ!
Trưởng ga:
- Tôi giao cho đồng chí Phó trưởng ga
làm việc với bên công an. Phải bảo toàn uy tín ga bằng bất cứ giá nào. Báo cho
bộ phận bán vé, từ hôm nay, hành khách trả lại vé tàu chỉ trừ 10%.
- Anh yên tâm, em sẽ làm hết sức
mình ạ!
Cảnh VI:
Tại phòng làm việc của Trưởng ga N.
Phó Trưởng ga:
- Báo cáo anh, việc anh giao em hoàn
thành rồi ạ. Công an báo kết quả: Người nhắn tin cho bộ trưởng là cô Cành thông
qua cô Nga ở thành phố H.
Trưởng ga nói qua điện thoại:
- Cho gọi cô Cành lên gặp tôi ngay.
Cô Cành bước vào:
- Thưa anh, anh cho gọi em ạ?
Trưởng ga đập tay cái rầm xuống bàn làm
việc, gằn giọng:
- Cô là kẻ ăn cháo đá bát. Tại sao cô nhắn
tin cho Bộ trưởng bôi nhọ cơ quan mình? Sinh mệnh cô do chúng tôi quyết định.
Cô không sợ bị đuổi việc à?
- Dạ thưa anh. Em chỉ nói sự thật theo
tinh thần tất cả vì hành khách thân yêu mà lãnh đạo ngành phát động.
- À cô này bướng hả. Thôi cô về làm tường
trình nộp cho chúng tôi xem xét. Việc này chưa xong đâu! Cô cứ liệu đấy!
Cảnh VII:
Tại nhà riêng cô Cành.
Phó trưởng ga – người yêu cũ của Cành:
- Anh đã bàn với Trưởng ga và ban
lãnh đạo. Các anh ấy đều thừa nhận động cơ và việc làm của em là đúng đắn, tinh
thần xây dựng. Nhưng em thử nghĩ mà xem: Em tố cáo vụ việc tới Bộ trưởng đâu chỉ
có hai con Hoa và Nụ bị kỷ luật, mà còn kéo theo ban lãnh đạo cũng bị liên đới
chịu kỷ luật, rồi cả cơ quan mất điểm thi đua, nhân viên không được thưởng,
không lên lương, chi bộ không được trong sạch vững mạnh. Lẽ nào em lại muốn hại
cả cơ quan, để rồi mọi người ghét bỏ, hận em? Em là nhân viên, người ta muốn thải
loại khỏi cơ quan thì thiếu gì lý do, lúc nào chả được.
- Em đâu có muốn như vậy. Em chỉ nghĩ cần
phải ngăn chặn việc làm xấu của Hoa và Nụ. Em có ngờ đâu vụ việc lại thành ra
như thế. Theo anh em phải làm thế nào bây giờ?
- Vì nghĩ đến tình cảm trước đây với em,
anh đã nói trước với Trưởng ga rồi. Nếu em chịu thiệt thòi trước mắt để cứu cả
cơ quan mọi người sẽ biết ơn em. Tức là em nhận do mâu thuẫn cá nhân nên nhắn
tin rác hại Hoa và Nụ. Việc đó cùng lắm cũng chỉ bị khiển trách hoặc cảnh cáo,
quá lắm là chuyển công tác một thời gian. Một mình em chịu kỷ luật để cả cơ quan
an toàn. Các sếp ga không để em thiệt đâu. Chỉ một thời gian ngắn, các sếp sẽ bố
trí em vào vị trí công tác thuận lợi hơn và tăng lương bù lại cho em.
- Vâng. Thôi thì tùy các anh vậy…
Cảnh VIII:
Tại hội trường ga N. Đông đủ cán bộ nhân
viên. Trưởng ga:
- Thưa tất cả các đồng chí. Tôi vui mừng
thông báo để các đồng chí biết: Sau khi điều tra xác minh vụ việc, cơ quan công
an kết luận: Do có mâu thuẫn cá nhân với hai nhân viên bán vé Hoa và Nụ nên
nhân viên Cành đã soạn sẵn tin nhắn “tố tội” trên điện thoại rồi nhờ bạn là Nga
(hiện đang công tác tại thành phố H.) gửi phản ánh đến Bộ trưởng với ý đồ “hại”
đồng nghiệp. Hai cô Cành và Nga đã thú nhận mọi hành động sai trái và có báo
cáo tường trình lại sự việc. Nay tôi tuyên bố phục hồi lại vị trí công tác đối
với hai nhân viên Hoa và Nụ, trả lại sự trong sạch cho hai cô. Còn đối với cô
Cành, chúng tôi sẽ họp ban lãnh đạo đơn vị phân tích và xử lý nghiêm khắc đối với
những sai phạm mà nhân viên Cành mắc phải, đề nghị trên quyết định hình thức kỷ
luật thích đáng. Theo chỉ đạo của đồng chí Tổng giám đốc công ty, với hành động
vu khống của nhân viên Cành, đơn vị quyết sa thải và vĩnh viễn không cho quay
trở lại ngành. Đồng chí Bộ trưởng rất vừa lòng vì ga ta đã xử lý vụ việc kịp thời,
chính xác. Chiều nay Bộ trưởng về họp mặt đồng môn tại quán Trúc Vàng. Mời tất
cả các đồng chí ngay bây giờ tới quán Trúc Vàng chào đón Bộ trưởng và dự liên
hoan do cơ quan tổ chức!
- Hoan hô! Hoan hô! Sếp sáng suốt!
Sếp sáng suốt!
Tất cả ào ào đi ra. Hội trường chỉ
còn mình Cành. Cô đổ ập người xuống, ngơ ngác như mất hồn:
- Không thể!... Không thể
nào!... Lẽ nào... Lẽ nào… Các sếp lại lừa mình???!!!
Đèn mờ dần cho tới tối hẳn.
Màn hạ.
BÁNH CHƯNG BÀ THÌN
(Giai thoại họa
sĩ Nguyễn Văn Chẩm)
Khoảng năm 1984, lần đầu đi công tác
huyện Hải Hậu (tỉnh Hà Nam Ninh) tôi được họa sĩ Nguyễn Văn Chẩm (cán bộ Bảo
tàng tỉnh) hẹn đi cùng. Thời đó phương tiện giao thông rất khó khăn, đường xá
đâu có tốt như bây giờ. Do đi bằng xe đạp, lại nghỉ mấy chặng nên mãi 13 giờ
chúng tôi mới tới nơi. Vì đã quá bữa, lại không muốn làm phiền Phòng Văn hoá
nên bác Chẩm mời tôi đi ăn bánh chưng bà Thìn.
Biết bánh chưng bà Thìn ngon có tiếng
từ lâu, nhưng lần này tôi mới được ăn. Quả là trăm nghe không bằng một... ăn thật,
bánh chưng bà Thìn đúng là ngon tuyệt. Tôi ăn thật chậm để kéo dài thời gian
thưởng thức hương vị tuyệt vời của gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn... đã được bàn
tay tài hoa của bà Thìn biến thành thứ... bánh chưng bà Thìn.
Bác Chẩm vừa ăn vừa rủ rỉ nói chuyện
với bà. Bỗng bác Chẩm như chợt nhớ ra chuyện gì đó, kêu lên:
- Ôi trời! Tôi suýt quên không báo
cho bà biết...
- Có chuyện gì vậy ông? – Bà Thìn vui
vẻ hỏi.
- Bà còn nhớ lần trước về công tác Hải
Hậu, tôi mua của bà chục bánh làm quà không?
- À vâng, kỳ nào về đây mà ông chả
mua bánh hàng tôi làm quà.
- Nhưng mà cái lần gần đây nhất, tôi
đem bánh của bà biếu mấy người bạn khu Bốn. Không hiểu sao, sau khi ăn xong, bọn
họ đều lăn đùng ra chết...
Bà Thìn tái mặt:
- Ối giời ơi! Họ chết thật à ông?
Bác Chẩm nói giọng tỉnh khô:
- Vâng, đúng là vì ăn bánh chưng bà
Thìn mà họ lăn ra chết... lịm đi, bà ạ!
CÒ
THÀNH
Mẹ cò Thành bệnh phải mổ tim… Cò Thành trong bụng mẹ
được 7 tháng thì mẹ không chịu được, các bác sĩ phải mổ cho cò Thành ra đời sớm.
Có lẽ do thai non tháng nên cò Thành hay ốm đau, tính tình rất thất thường. Ba
tuổi tròn, có Thành phải đi trường mẫu giáo. Ba bốn nhà mẫu giáo đều chỉ nhận
cò Thành được hai ba tuần là trả cò Thành về cho gia đình. Từ khi đến Trường Mầm
non số 2 phường Vị Xuyên, cò Thành mới được các cô chấp nhận.
Thời gian dài, cò Thành đến trường, cứ ôm khư khư ba
lô, ngồi ngoài cửa chờ bố đón.
Mẹ cò Thành cho Thành đi bác sĩ ở Hà Nội. Bác sĩ bảo
cò Thành bị tự kỷ, cần phải cho vào cơ sở chạy chữa dài ngày. Bố mẹ cò Thành
đưa con đến chữa bệnh ở một cơ sở trên Hà Nội. Nhưng tiền chữa bệnh, tiền trọ,
tiền ăn hàng tháng tốn gấp ba lần lương của bố mẹ nên cò Thành lại phải về Nam
Định. Bố mẹ cò Thành thuê một bác sĩ tâm lý mỗi tuần ba buổi chữa cho cò Thành.
Thế rồi đến lúc cò Thành vào lớp 1. Cô chủ nhiệm không
chịu được cái tính tự do, thích chơi là chơi, thích học mới học. Mỗi khi cô chủ
nhiệm phạt thì cò Thành lại lăn ra đất giãy đành đạch… làm cô chán không chịu
được. Bố mẹ cò Thành lại phải chạy cho cò Thành về trường tiểu học Lê Quý Đôn,
giao cho bác Thanh là giáo viên dạy lớp 1 chăm sóc cháu. Được bác ruột dạy dỗ,
kèm cặp, dần dần cò Thành cũng tiến bộ.
Năm học lớp 3, bác Thanh xin cho cò Thành tham gia cuộc
thi Olympie cấp trường để cò Thành tập dượt làm quen. Cô chủ nhiệm rất lo cò
Thành không làm được bài sẽ làm mất uy tín của cô. Nể đồng nghiệp, cô đành phải
đồng ý cho cò Thành dự thi. Nhưng thật bất ngờ là kỳ thi ấy cò Thành đoạt giải
Nhì.
Ông nội khen:
- Cò giỏi lắm! Ông tự hào về cháu.
Cò tiếc rẻ:
- Cháu phải nhất mới đúng ông ạ.
Ông hỏi:
- Sao cháu lại nói thế?
Cò:
- Tại vì cháu tự làm bài. Còn bạn giải nhất quay cóp
bài ông ạ!
- Thế à? Cháu tự làm bài là đúng thực lực của cháu. Vậy
năm sau cháu cố gắng học tốt, làm bài thật tốt để lấy giải nhất nhé!
- Vâng ạ!
Năm lớp 4, cò Thành đoạt giải Nhất cuộc thi Olympie cấp
trường. Cò Thành khệ nệ ôm chồng vở phần thưởng cùng giấy khen, giấy chứng nhận
giải nhất khoe ông nội. Ông nội ôm cò Thành, khen:
- Cháu ông giỏi lắm! Ông tự hào về cháu.
Cò Thành bảo:
- Cháu cũng thường thôi ông ạ. Nhiều bạn còn giỏi hơn
cháu nhiều cơ ông ạ.
Ông nội thoáng ngạc nhiên, rồi cười thật sung sướng:
- Cháu ông ngoan lắm! Đúng là còn nhiều bạn giỏi hơn
cháu, so với người khác thì cháu cũng thường thôi. Nhưng cháu khi sinh ra thiếu
tháng, thể lực gầy yếu, nhiều bệnh tật hơn những trẻ bình thường. Bố mẹ cháu lại
quá khó khăn về kinh tế và sức khỏe nên không lo cho cháu bằng con nhà
giàu. Cả nhà ai cũng lo cháu không thể học
được. Vậy mà cháu phấn đấu được như vậy đã là rất đáng khen rồi. Điều quan trọng
nhất là cháu cố gắng học tập hết sức mình là ông tự hào lắm rồi cháu ạ. Nào,
ông thưởng cho cháu một trăm nghìn để cháu thích mua gì thì mua nhé!
Cò Thành bảo:
- Ông ơi! Không cần thưởng nhiều tiền đâu ông ạ. Ông
thưởng cho cháu mười nghìn là được rồi.
Ông lại ngạc nhiên, cảm động:
- Ừ! Cháu xứng đáng được thưởng.
ĐÔI
GIÀY CON RỂ BIẾU
Thời @ rồi mà hắn vẫn giản dị như nông dân đi làm đồng.
Mùa hè hắn đánh bộ quân phục, mùa đông thêm cái áo bông đại cán mà hắn được cấp
ngày còn trong quân ngũ. Đặc biệt, đôi giày da vàng hắn dùng đã trên chục năm,
da nứt nẻ như ruộng gặp hạn, gót mòn vẹt, chiếc bên phải rách thò cả ngón út.
Đi làm việc hàng ngày ở cơ quan, đeo đôi giày cóc gặm cũng không sao, nhưng khi
dự hội nghị, chường cái đồ phế thải ấy ra trước mắt quan khách thì thật là…
Đồng nghiệp nói mãi, buộc lòng hắn phải bỏ đôi giày đó
vào thùng rác. Vứt giày đi buổi sáng, buổi chiều chả biết tiếc rẻ thế nào, hắn
lại ra bới thùng rác định lấy lại. Không thấy giày, hắn thẫn thờ cả người. Biết
chuyện, cô hót rác cho hắn hay:
- Lúc phân loại rác, thấy
đôi giày, em cho một lão ăn mày nhưng lão không thèm lấy nên em vứt lên xe rác
chở đổ đi rồi.
Tôi gặng hỏi vì sao quý đôi giày rách như vậy, hắn bảo:
- Đôi giày ấy là của con rể
biếu. Cái giá của đôi giày con rể biếu là đứa con gái độc nhất mà tôi quý như
báu vật đấy ông ạ!
KỶ
NIỆM NGÀY NHÀ GIÁO
Ngày nhà giáo Việt Nam năm 1990 là một ngày đặc biệt đối
với tôi. Đã gần 30 năm qua rồi mà mỗi khi nhớ lại ngày ấy, nước mắt tôi cứ trào
ra.
Những năm 1985 – 1995 là thời gian khốn khó nhất trong
cuộc sống của tôi. Vợ chồng tôi đều là cán bộ thư viện mà phải chạy ăn từng bữa
nuôi ba con nhỏ. Gian nhà cấp bốn của tôi bị dỡ bỏ để cơ quan lấy mặt bằng xây
dựng. Cơ quan, chính quyền không đền bù, không hỗ trợ. Ban ngày các con tôi đi
học hoặc vật vờ ngoài đường chờ hết giờ làm việc để vào phòng bố mẹ ngủ trên
bàn qua đêm. Hồi đó tôi được mời thỉnh giảng mỗi năm 200 tiết tại Trường Trung
học Văn hóa Nghệ thuật tỉnh Hà Nam Ninh. Sáng tôi đạp xe đạp 30 cây số lên thị
xã Phủ Lý giảng bài, chiều đạp xe về thành phố Nam Định để tối ra ngã ba Nguyễn
Du – Lê Hồng Phong bơm vá xe kiếm thêm mớ rau bát gạo.
Ngày Nhà giáo Việt Nam, gần chục em học sinh lai nhau
từ Phủ Lý về Nam Định chúc mừng thày. Con lớn tôi dẫn các anh chị ra phố gặp
tôi. Các em mang hoa chúc mừng và tặng tôi 4 mét vải pô pơ lin trắng may áo.
Tôi dở khóc dở cười, không biết ứng xử thế nào. Các em nhìn tôi lặng người đi,
rồi tất cả bỗng sôi nổi hoạt bát tranh nhau bơm xe cho khách. Các em vừa giúp
tôi bơm vá xe, vừa truyện trò vui vẻ đến 22 giờ mới đèo nhau về Phủ Lý.
Ngày Nhà giáo Việt Nam năm ấy khắc sâu trong tâm khảm
tôi với bao cảm xúc vui buồn không thể nào quên được. Mảnh pô pơ lin may áo đã
không còn dùng được, nhưng tấm tình thày trò thì còn mãi trong tôi.
LÚC
XUỐNG… KHI LÊN
Từ 1982 đến 2010, tôi đã gắn bó với công tác phong
trào của Thư viện tỉnh Hà Nam Ninh – Nam Hà - Nam Định. Trong gần ba mươi năm
công tác phong trào, tôi đã có mặt ở hầu hết các thư viện huyện và cơ sở mà Thư
viện tỉnh giúp củng cố và xây dựng. Những năm tháng công tác phong trào để lại
trong tôi nhiều kỉ niệm vui buồn thật khó quên.
Lúc xuống… ăn mày
Cán bộ thư viện chúng tôi đi cơ sở là việc rất gian
nan. Chuyện đạp xe năm ba chục cây số, nhiều khi phải nhịn uống, nhịn ăn thì
chúng tôi chẳng coi ra gì. Cái khổ nhất của chúng tôi là không được cơ sở đón
nhận. Không ít cơ sở hờ hững với thư viện, có khi còn đối xử như là đối với người
đến xin xỏ, làm phiền họ. Lần tôi và anh Thanh Hồng xuống Ý Yên công tác, đạp
xe từ 7 giờ tới 9 giờ mới tới nơi. Phải chờ đến gần 11 giờ mới được gặp ông Trưởng
phòng Văn hoá tên là V. Làm việc xong thì gần 12 giờ. Ông Trưởng phòng hỏi:
- Còn việc gì không?
Anh Thanh Hồng cười:
- Công việc nhà nước đã xong. Giờ chỉ còn việc ra
quán.
Ông V. thản nhiên:
- Vậy các ông đi nhá!
Ngày Thư viện huyện Xuân Thuỷ đóng ở Giao Thuỷ bị bão
tan nát cả, chúng tôi được ông Phó Giám đốc An Viết Đàm thay mặt lãnh đạo Sở
Văn hoá Thông tin và ông Trần Văn Điểm giám đốc Thư viện tỉnh trực tiếp truyền
đạt tinh thần chỉ đạo của Bí thư tỉnh uỷ: “Bằng mọi giá phải xây dựng lại Thư
viện huyện Xuân Thuỷ”. Nhân có đoàn thực tập sinh Trường Cao đẳng Văn hoá Hà Nội
về thực tế ba tháng (do thày Phạm Hữu Du, đồng môn lớp đại học thư viện khóa 6
với tôi, dẫn đầu), tôi đưa đoàn đi thực tế ở Xuân Thuỷ. Chúng tôi hăm hở xuống
huyện. Nhưng thật bất ngờ là ông Trưởng phòng văn hoá huyện tên là M. nêu ra
nhiều lí do không thể đón tiếp chúng tôi. Về thì không thực hiện được nhiệm vụ,
ở thì không ai đón tiếp. Tối ấy chúng tôi đành ăn cơm quán rồi tìm cách tháo gỡ.
Chầu chực tới 21 giờ chúng tôi cũng được gặp ông Bí thư huyện uỷ tên là Nhi.
Nghe chúng tôi trình bày đầu đuôi sự việc, ông Nhi rất bất bình trước thái độ ứng
xử của Trưởng phòng M. Ông chỉ thị cho Phòng Văn hoá phải bố trí cho chúng tôi
thực hiện nhiệm vụ. Anh Du bàn giao học sinh cho tôi rồi về Hà Nội. Suốt hơn một
tháng trời chúng tôi làm việc ngày 10 tiếng để nhanh chóng tổ chức lại thư viện
huyện. Ông M. không mấy khi tới xem chúng tôi làm ra sao. Ông còn yêu cầu chúng
tôi phải tự túc tiền ăn. Nhờ anh Thích phó phòng đề nghị, chúng tôi mới được
ông M. duyệt cho học sinh thực tập tiền ăn hàng ngày theo chế độ nhà bếp uỷ
ban. Còn tôi là cán bộ phải nộp tiền ăn theo giá thị trường suốt hơn một tháng
làm việc tại huyện. Hoàn thành việc củng cố Thư viện huyện, chúng tôi lặng lẽ
đi giúp thư viện các xã Giao Hải, Xuân Phương, Giao An… Cả đoàn 6 người chỉ có
tôi có xe đạp. Từ huyện xuống xã lại chẳng có ô tô khách. Phó phòng Thích và
cán bộ thư viện huyện thương tình, đem xe đạp chở “tăng bo” đoàn xuống xã. Chuyến
đi phong trào liền ba tháng kết thúc, chúng tôi thở phào như vừa vượt qua một
thử thách. Riêng tôi còn không thể quên chuyện lương nộp tiền ăn không đủ, khi
về được thanh toán công tác phí đủ chi tiền… chè nước. Gian khổ thế mà những
cán bộ phong trào chúng tôi vẫn hăng say
công tác, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Chuyện như thế lớp trẻ ngày nay nghe cứ
như nghe cổ tích.
Khi lên... thượng khách
Đó là lần tôi và anh Thanh Hồng đi xây dựng Thư viện
xã Khánh Phú (Tam Điệp). Ngày ấy, thư viện xã do hợp tác xã nông nghiệp quản
lí. Hai anh em tôi ăn ở ngay tại nơi làm việc. Chúng tôi làm cả trưa và tối, đến
bữa tới bếp hợp tác xã ăn tiêu chuẩn quy định. Ba ngày đầu không có ai thăm hỏi.
Ngày thứ tư, anh Điền phụ trách Thư viện xã thông báo rằng cụ Phúc mời chúng
tôi đến ăn cơm tối tại nhà. Nhìn mâm cỗ thịnh soạn, tôi không dám tin là mình lại
được đón tiếp như thượng khách thế này. Cụ Phúc vừa rót rượu vừa nói:
- Tôi chứng kiến rất nhiều cán bộ đi giúp cơ sở thường
“chỉ tay năm ngón” mà chẳng thiết thực gì cho cơ sở. Theo dõi ba ngày qua, thấy
hai ông thực sự tích cực giúp cơ sở, tôi
mời hai ông dự bữa để cám ơn.
Hai tuần làm việc còn lại, cứ hai ngày một lần cụ Phúc
tiếp chúng tôi tại nhà. Mỗi khi tiếp khách, cụ Phúc lại mời chúng tôi cùng dự
liên hoan. Anh Thanh Hồng to cao có tướng đẹp, nói năng ra dáng lãnh đạo, giao
tiếp rất có hiệu quả. Nhiều cán bộ xã cứ chắc chắn anh Thanh Hồng là lãnh đạo Thư
viện tỉnh. Khi chúng tôi hoàn thành công việc một cách mỹ mãn, cụ Phúc mời
chúng tôi đi tham quan vườn cây của hội người cao tuổi, lò mật mía, trại lợn,
trại trâu Mu - ra… của hợp tác xã. Trước khi chúng tôi về tỉnh, cụ Phúc sai người
biếu chúng tôi quà (nào táo, nào mật, gạo, thịt lợn…) và hẹn mời chúng tôi về dự
khánh thành Nhà văn hoá xã. Tưởng cụ hẹn xã giao, ai ngờ cụ gửi giấy mời đích
danh chúng tôi cùng giấy mời đại biểu Ban giám đốc Thư viện tỉnh. Tôi và anh
Thanh Hồng cùng anh Điểm về dự lễ. Trong giao tiếp, cụ Phúc và lãnh đạo xã cứ một
điều “báo cáo bác Thanh Hồng”, hai điều “báo cáo bác Thanh Hồng”, cứ như anh
Thanh Hồng mới là Giám đốc Thư viện tỉnh chứ không phải là anh Điểm.
Kỷ niệm 60 năm thành lập Thư viện tỉnh Nam Định (1956
– 2016), anh Trần Thanh Hồng, anh Lê Luân, anh Tuấn, Chủ nhiệm Thư viện tỉnh Trần
Hữu Viển, bác Đặng Đình Môn, cô Trần Thị Khang, chị Vũ Kim Dung, chú Ninh Đình
Khoa đã đi xa, nhưng những kỉ niệm về những ngày đi cơ sở và công tác với các
anh, các chị, các bác như mới diễn ra hôm qua. Hình ảnh và những cống hiến của
các bậc tiền bối đồng nghiệp Thư viện tỉnh nhà sống mãi trong lòng tôi.
NGÀY
ĐẦU ĐI HỌC CỦA BÉ HẰNG
Bố làm công nhân bưu điện. Mẹ dạy ở trường tiểu học.
Ban ngày bố mẹ đi làm, bé Minh Hằng ở với ông bà ngoại. Tối mẹ đón về. Năm Hằng
lên ba, bà ngoại chuẩn bị tâm lý cho Hằng đi học mẫu giáo. Ngày ngày hai bà
cháu đóng vai cô giáo và học sinh. Bà ngoại thường rót vào tai cháu:
- Nào, ăn nhiều chóng lớn để đi học. Đi học có nhiều bạn,
có nhiều đồ chơi, có cô giáo yêu như mẹ hiền, được học hát múa, học chữ vui lắm.
Nào ngoan, đi học biết chữ để đọc báo, đọc sách, rồi làm cô giáo nào.
Thỉnh thoảng cháu lại hỏi bà:
- Bà ơi! Cháu đã lớn chưa? Bao giờ cháu được đi học hả
bà?
Bà bảo:
- Ừ, cháu sắp được đi học rồi. Cháu ăn nhiều cho cao
lên để chóng được đi học nhé!
Cháu ăn ngon lành, không cần phải ép như trước. Mỗi lần
ăn xong, cháu đứng dựa vào tường, chân kiễng lên, hỏi bà:
- Bà xem cháu đã cao chưa?
- Ừ! Cháu bà cao sắp bằng anh Phương rồi. Mai bà cháu
mình đi mua cặp sách cho Hằng đi học nhé!
*
Mẹ Hằng nói với ông bà ngoại:
-
Bố mẹ ạ, con đã xin cho cháu vào lớp 4 tuổi Trường Mầm non Phụ nữ là trường tốt
nhất thành phố rồi, mai con cho cháu đến lớp ạ.
Chín giờ tối, mẹ lại lai Hằng
ra ông bà ngoại:
- Con Hằng nhõng nhẽo đòi ra
ông bà bằng được, để ông bà cho cháu đi mua cặp sách đây này.
Ông săng sái lấy xe máy đèo hai
bà cháu ra phố. Bà chọn cái cặp da đắt tiền. Hằng không chịu. Hằng thích cái cặp
nhựa có gắn những hình con gấu, con thỏ, siêu nhân màu đỏ, vàng, xanh...
Bố mẹ cho vào cặp bộ quần áo,
bút chì, vở tập tô màu. Hằng đi ngủ, ôm cặp không rời.
Ngày đầu tiên đi học, Hằng hào
hứng phấn khởi, hát luôn miệng. Chiều mẹ đón về, Hằng ỉu sìu, mắt đỏ còn hoen
nước.
Sáng ngày thứ
hai, Hằng nhất định không chịu đi học. Mẹ hỏi:
-
Sao hôm qua con thích đi học, hôm nay lại không chịu đi?
Hằng một mực nói: “Con không đi học đâu!” và đòi mẹ
lai đến nhà ông bà ngoại.
Vừa tới cửa, mẹ Hằng đã tru
chéo:
- Đây, ông bà lai đi học mà con
không đi thì mẹ đánh nhừ đòn! Ông bà xem này, nó đi học được một ngày, hôm nay
giở quẻ không chịu đi. Nói mấy nó cũng không chịu. Nó gào khóc đòi ra ông bà
đây này.
Ông
đón cháu vào nhà. Hằng ôm chặt cổ ông, hai chân quặp chặt bụng ông, miệng vừa
khóc vừa cầu cứu:
-
Ông ôm chặt cháu vào! Cháu ứ đi học đâu! Ông ôm chặt cháu vào!
Mẹ quát:
- Ông ôm chặt thì mẹ cũng giật con ra được. Con không
đi học thì mẹ đánh đòn. Hư quá!
Hằng gào lên:
- Ứ đâu! Con không đi học đâu! Con học cô giáo bà cơ,
con học cô giáo bà cơ!
Bà bảo:
- Thôi mẹ nó cứ đi làm đi, để rồi ông bà thí nó đi học
sau.
Mẹ đi rồi, bà bảo:
- Nào cháu ngoan kể cho bà hôm qua cháu đi học có vui
không nào? Cô giáo dạy hát bài gì nào? Có những bạn gì nào?
Hằng nói trong tiếng nấc:
- Bà ơi cháu sợ cô giáo lắm! Cháu không dám đi học
đâu!
- Cô giáo như mẹ hiền, sao cháu lại sợ?
- Không đâu! Cô ác lắm! Cô ác lắm! Cô lấy cái dao to
dài như thế này này – Hằng lấy hai tay mô tả con dao – Cô dứ dao vào cổ cháu.
Cô quát: “Mày có nín đi không? Tao chém cho một phát đứt cổ bây giờ!”...
- Sao cháu lại khóc để cô mắng?
- Cháu xúc cơm bị vãi ra ngoài, cô cốc vào đầu, nên
cháu khóc.
Ông hỏi:
- Cháu nói có đúng không? Ông hỏi các cô mà cháu nói
sai là bị phạt đấy!
Hằng
mở to đôi mắt đen láy ngây thơ nhìn ông:
-
Cháu nói đúng ông ạ! Cháu sợ cô giáo lắm!
Bà thở dài:
- Cô yêu cháu, cô mắng yêu đấy cháu ạ. Bà cháu mình cứ
đi học, cô giáo mà mắng cháu như thế nữa thì bà cháu mình báo cáo Hiệu trưởng
phạt cô. Hễ cô dọa thì cháu nói cho bà biết ngay nhé! Nào, bây giờ bà cháu mình
đi học nào. Bà cháu mình hát bài “Cô và mẹ ấy hai mẹ hiền” nào.
*
Chuyện ngày đầu đi học của cháu
tôi rồi cũng qua đi. Cháu Hằng vẫn đi học ở Nhà mẫu giáo đó, nhưng nó không còn
cái hồ hởi háo hức như trước khi đi học. Năm vào lớp 1, cháu nằng nặc đòi học
“cô giáo Mẹ”, nhất quyết không học ai khác. Mẹ Hằng đành xin cho Hằng học trái
tuyến về trường mẹ dạy.
Năm nay bé Hằng lên lớp ba. Sáng sáng mẹ lai Hằng đến
lớp, bán trú, tối mới về nhà. Nhà lại chuyển ra đô thị Hòa Vượng, cách nhà ông
bà ba bốn cây số nên ít khi Hằng được về thăm ông bà. Ngày chủ nhật, Hằng đòi bố
lai vào với ông bà. Ông bà lại rót vào tai Hằng viễn cảnh tươi đẹp của nhà trường,
của các mẹ hiền và tương lai của học sinh. Hằng vẫn chăm chú lắng nghe, gương mặt
thơ ngây, đôi mắt đen trong như nước hồ thu lặng gió nhìn xa xăm bất định.
Nhân ngày khai trường 2012
BÍ
BÁCH… THƠ
Lâu rồi không làm thơ. Chẳng có đủ thức ăn nuôi con FB
hàng ngày, lại thử làm thơ xem sao. Cắn bút cả ngày, thơ vẫn tắc tị như bệnh
táo bón nặng. Chán quá, xoay ra bắt chước các nhà thơ đủ các trường phái đông
tây nam bắc. Vậy mà thật lạ, thơ cứ tuôn xối xả ghi không kịp, như Tào Tháo đuổi
không bằng. Trong vài cái chớp mắt, làm liền ba bốn bài thơ. Hí hửng đi ngủ, để
mai đọc lại rồi cho FB ăn.
Hôm sau rỗi rãi, giở mấy bài thơ ra đọc duyệt lại định
bụng bắn lên FB trong ngày, bỗng giật mình kinh hãi.
Bài thì ẩn dụ tầng tầng lớp lớp, chả còn biết mình muốn
nói gì trong thơ ấy. Đến tác giả mà còn chả hiểu thơ mình nói gì thì bạn đọc bố
ai mà hiểu.
Bài
thì có vẻ cảm xúc dâng trào, từng từ từng câu cứ trượt theo cảm xúc, chẳng có tứ,
hoặc tứ hổ lốn như nồi lẩu thập cẩm. Tỉ như:
“Tôi chạy bằng đôi chân trần trên cánh đồng vừa gặt
còn trơ những gốc rạ tua tủa như bãi gỗ Bạch Đằng
Cái nắng lửa thiêu đốt làm khô héo đôi môi khát khao
giấc mơ thi nhân lừng danh thế giới ẵm giải Nô Ben
Bỗng lắc thắc những hạt mưa của cơn mưa bóng mây không
ngăn được cơn hứng tình của người đàn bà góa đang thì xuân sắc”…
Bài thì nghe xủng xoảng ngôn từ rất vui tai, nhưng đọc
xong thì cái âm thanh xủng xoảng ấy cũng tắt lịm như chưa từng có trên đời…
Bài thì có đầu có đuôi kể việc như diễn ca, như vè, chả
thấy cảm xúc, hình ảnh, chất thơ ở đâu.
Càng
đọc càng hoang mang, bi quan.
Trời ạ, xấu hổ chết đi được. Thôi đừng xả rác thêm ra
môi trường văn học vốn đã ô nhiễm nặng rồi.
Chợt nhớ lời một ông bạn thơ:
- Nói về thơ, không thằng nào dạy được thằng nào. Cũng
không thằng nào học được thằng nào!
Mình bảo:
- Ông cứ cực đoan.
Bây giờ ngẫm lại thấy lời ông bạn không phải là không
có lý. Thì đấy, mình vừa bắt chước các nhà thơ tầm cỡ Nhà văn Việt Nam, Nhà thơ
Hội Văn Nghệ địa phương mà có được bài nào ra hồn đâu, có bài nào có cảm xúc
chân thật đâu. Cứ cái trò bắt chiếc như thế khéo lại thành đạo văn chứ chả
chơi!
Lại nhớ ông anh họ thời hơn nửa thế kỷ trước học chưa
hết lớp ba mà thơ phú cứ tuôn như suối. Bà con gọi anh là “Nhà thơ Trần Xuân Bội”.
Trong bài “Về quê” của anh được in trong một tuyển thơ cổ động Hợp tác xã bằng
giấy rơm, nhà xuất bản Phổ thông ấn hành, có câu:
Lâu rồi tôi mới về quê
Bâng khuâng lại nhớ con dê con bò.
Ai ngờ cái tứ ấy lại được một cô học trò, sau đó là
hai Nhà văn Việt Nam cũng sáng tạo gần y thế. Chả biết có phải đạo nhau không,
nhưng ai đọc cũng thấy chúng cứ như những giọt nước vậy.
Nhân
đây trích chép lại mấy câu (sợ chép cả bài rất dài thì nhàm chán quá) trong một
bài thơ ghi sổ tay từ hơn nửa thế kỷ trước để đọc xả trét, giải tỏa tâm thần của
mình. Bác nào muốn có cớ cười xả trét thì cùng đọc với em nhé!
Chiều chiều ra ngẩn vào ngơ
Bâng khuâng phong cảnh hững hờ bâng khuâng
Đèo cao leo dốc gót mòn
Chồn chân đá dựng bên sườn chồn chân
Hắt hiu xao xác tần ngần
Rơi rơi cánh lá bạch đàn rơi rơi
Mắt tù sau những thành đồi
Con con chỉ thấy mảnh trời con con
Trời ơi khát nhớ quê hương…
Ngày xuân kể
chuyện đấu vật:
NHỮNG ĐÔ VẬT NỔI TIẾNG LÀNG
TRÀ LŨ XƯA
Làng Trà Lũ (huyện Giao Thuỷ,
trấn Sơn Nam) là một làng nổi tiếng về đấu vật. Nơi đây cũng là căn cứ địa chủ
yếu của nghĩa quân Phan Bá Vành hồi đầu thế kỷ 19. Địa danh Trà Lũ có tên trong
sách sử vào năm 1533. Vũng đất Trà Lũ xưa nay bao gồm vùng đất các xã Xuân Bắc,
Xuân Trung, Xuân Phương, Nam Điền (Xuân Vinh) đều thuộc huyện Xuân Trường, tỉnh
Nam Định. Những họ đầu tiên đến khai phá thành lập làng là họ Trần, họ Bùi, họ
Phan từ làng Phượng Lũ (có thuyết nói thuộc Thanh Trì, Hà Nội; Thuyết khác nói
thuộc Hưng Yên).
Khi xưa Trà Lũ là vùng đất ven
sông biển, sình lầy, lau sậy um tùm, dân đi lại chủ yếu bằng đường sông nước.
Người dân Trà Lũ phải vật lộn với thiên nhiên khắc nghiệt và thường xuyên phải
chiến đấu chống giặc phỉ, bảo vệ làng. Hoàn cảnh sống đòi hỏi họ phải có sức
khoẻ, tinh thông võ nghệ để tồn tại. Nhiều người dân Trà Lũ đã thi đỗ Cử nhân,
Phó bảng võ và làm quan. Đặc biệt làng có nhiều đô vật nổi tiếng trong lịch sử.
Truyền thống vật võ Trà Lũ nổi
tiếng nhất vào cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, gắn liền với khởi nghĩa Phan Bá
Vành, được nhiều sách tỉnh chí, huyện chí, xã chí, văn bia, gia phả... nói đến.
Đô chỉ huy sứ Trần Bá Khoản
(đầu thế kỷ 18) người thôn Trung, tinh thông võ nghệ, sức khoẻ phi thường. Vũ
khí ông thường dùng là cây đao cán liền bằng sắt luyện, lưỡi to như tàu lá
chuối, phải hai người mới khiêng nổi. Ông từng bỏ của nhà ra 80 vạn quan tiền
nộp thuế cho cả làng. Ngày nay ở xã Xuân Trung vẫn còn đền thờ ông.
Đặc biệt kỹ xảo đấu vật của
các đô Trà Lũ đã nổi tiếng khắp Bắc Kỳ, vang vào tận Huế. Họ Trần có ông Trần
Ba là người nổi danh tài vật. Ông hay đẩy thuyền đi ngao du thiên hạ và thường
đem theo bao vật. Có lần đến Bắc Ninh, gặp dịp một làng đang có hội vật, ông
vào xem. Đô lực sĩ của địa phương tên là Ngật đang giữ giải nhất, gần kết thúc
hội mà chưa có đối thủ. Ông Ba xin được vuốt giải nhất. Nhân dân địa phương rất
trọng vọng, mời ông ngồi lên bục đối diện với đô Ngập. Đô Ngập gườm gườm nhìn ông,
tay vê vê tà áo chợt bắt được con rận bèn để lên án thư giết đi. Ông Ba thấy lá
rụng xuống chiếu, chép miệng thổi chiếc lá bay vù. Đô Ngập xưng hiệu là Bè Cạn
(ý nói vững như cái bè mắc cạn). Ông Ba xưng hiệu là đô Trà Lũ (ý nói mạnh như
nước lũ). Đô Ngập không chịu đấu nếu ông Ba chưa thắng nổi đàn em của hắn. Ông
Ba miễn cưỡng phải vật với đô đàn em của đô Ngập. Chưa đầy một hiệp, ông Ba đã
ném đối thủ qua dóng vật. Đô Ngập tức giận đứng bật dậy, tay dứt đứt hàng cúc
áo. Thấy hai đô có ý đánh hiểm, dân làng yêu cầu phải làm cam đoan và hứa sẽ
đứng ra bảo hiểm cho ông Ba (vì ông là người nơi khác tới). Vào giao đấu, hai
đô quấn lấy nhau, ra đòn như rồng bay, phượng múa, hổ gầm, ngựa đá, voi dày...
trông thật là dũng mãnh. Gần hết hiệp đấu, đô Ngập biết mình khó có thể thắng
đối phương, bèn nằm bò, hai tay bám chắc rễ cây giữ thế, chờ hết hiệp. Ông Ba
thét lên một tiếng rồi bốc người đô Ngập, kéo theo cả gốc cây lớn, ném ra ngoài
đấu trường. Người xem kinh ngạc, hoan hô vang dậy. Đô Ngập sai bộ hạ mai phục
định hại ông. Ông nhờ dân làng khênh giải xuống thuyền, một mình vác một cây
cau đi sau bảo vệ. Bộ hạ đô Ngập sợ quá chuồn mất.
Hầu hết các đô nổi tiếng như
Ba Hầm, Trần Bất Hựu, Phan Ba, Phan Mã, Trần Diễn, Phan Khánh, Hai Đáng, Đỗ Thị
Hinh... đều là các vị tướng lĩnh trong cuộc khởi nghĩa Phan Bá Vành và hy sinh
trong trận quyết chiến cuối cùng của nghĩa quân.
Hai Đáng là Chưởng tả quân của
Phan Bá Vành. Ông có sức khoẻ hơn người, võ nghệ tài ba, khiên đao lừng lẫy, sở
trường bơi lặn. Nơi nào gặp nguy khốn, Phan Bá Vành thường cử Hai Đáng đến cứu
nguy và làm chỗ dựa tinh thần cho nghĩa quân. Trong trận quyết chiến cuối cùng
(1827), Phan Bá Vành bị thương nặng vào chân. Hai Đáng đã cõng chủ tướng chạy
thoát ra ngoài vòng vây, rồi trở lại tiếp tục chiến đấu và hy sinh. Sách “Trà
Lũ xã chí” của cụ Lê Văn Nhưng đã viết về Hai Đáng như sau:
"Hai Đáng cõng Phan Bá
Vành chạy băng băng trên ruộng lầy, hai giải khố của ông bay thẳng căng về sau
không lúc nào chùng."
Nhân dân Trà Lũ vô cùng tự hào
về Hai Đáng. Trong bài vè ca ngợi Phan Bá Vành có câu:
Vua Ba Vành trị nước lên ngôi,
Trà Lũ chúng tôi có ông Hai
Đáng.
Bà Vũ Thị Hinh, vợ của Hai
Đáng cũng là nữ tướng lo hậu cần cho nghĩa quân Phan Bá Vành. Bà rất giỏi võ.
Bà đã chém chết tên phản bội khi tên này thúc trống báo hiệu cho quân triều
đình biết lúc nghĩa quân tiến từ Thái Bình sang Trà Lũ. Có lần đi chợ, bị 4 tên
côn đồ trêu ghẹo, bà vung gươm giết chết cả 4 tên. Sau khi khởi nghĩa Phan Bá
Vành thất bại, không thấy tăm tích bà đâu.
Đô Vũ Tân, người thôn Bắc,
khoẻ như hổ, khi xuống tấn thì vững như trái núi, thường kiệu trên vai 4 người,
đi lại như không. Ông từng thắng nhiều đô vật của các lò vật nổi tiếng thời đó
như Hà Nạn, Đặng Xá, Hào Kiệt... Một lần làng Hà Nạn tổ chức hội vật, có một đô
giữ giải nhất đã mấy ngày mà chưa có ai giám giao đấu. Khi thao diễn, đô này rê
hai chân dũi đất như hai luống cày. Đứng ngoài xem thấy thế, Vũ Tân liền vỗ vào
róng tre làm các đốt tre nổ bôm bốp rồi nhảy vào vuốt giải. Hỏi ra biết là đô
Tân, mọi người liền vui vẻ nhường giải nhất cho ông, không đô nào giám đấu.
Một lần vì chủ quan mà thua
một keo vật, đô Tân bực lắm. Nghe nói vùng Bắc Ninh có đô Voi Cái rất giỏi vật,
ông liền tìm đến xin học. Khi tới nơi, gặp con mương vừa rộng vừa sâu, ông nhún
mình nhảy phắt qua. Chợt thấy một người đàn bà ôm con bê cũng nhảy qua mương,
ông biết chắc nơi đây lắm người tài cho mình học hỏi. Ông tìm vào nhà đô Voi
Cái, hoá ra chủ nhân chính là người đàn bà ôm con bê nhảy qua mương. Khi ông
ngỏ lời xin học vật, chủ nhà bảo:
- Ông đã tới đây thì hãy ăn
cơm đã rồi nói chuyện học vật sau.
Nói rồi chủ nhân lấy gạo đủ
thổi nồi ba cơm. Ông cười bảo:
- Tôi tuy đi đường xa có hơi
mệt, nhưng chỉ có từng ấy gạo thì chẳng khác nào cho voi uống thuốc gió.
Nói xong ông cởi bao gạo của
mình đổ ra đủ thổi nồi bảy cơm. Khi một mâm cơm thịnh soạn được bưng ra, ông ăn
hết trơn. Thấy chủ nhân muốn chuyển cái cối đá đi chỗ khác, ông bèn nhấc cối
lên, liệng một cái, cối đá rơi đúng nơi quy định.
Thời Tự Đức, có quan Thống chế
tên là Nhật, mỗi bữa ăn hết một con lợn, hai mâm sôi, là người giỏi võ nghệ,
thường không có địch thủ. Có người hỏi:
- Thống chế có thích đấu vật
không?
Thống chế bảo:
- Hay lắm!
Người đó bèn mời đô Tân giao
đấu. Mới được vài hiệp, đô Tân thừa cơ bốc cẳng đặt Thống chế vào cái bể cạn
trước dinh, nhẹ nhàng như đặt một em bé.
Vũ Tân truyền nghề cho cháu
ngoại là Phan Khánh. Phan Khánh có sức khoẻ, có đức, thông minh nên chẳng bao
lâu đã tinh thông 18 ban võ nghệ, sở trường kiếm thuật, kỹ xảo vật đạt đến độ
điêu luyện, độc đáo. Phan Khánh thường đi biểu diễn vật khắp Bắc Kỳ, tiếng tăm
vang lừng đến kinh thành. Thời Gia Long ông làm Đội trưởng quân doanh. Sau ông
theo Phan Bá Vành khởi nghĩa. Có trận quân triều đình thúc voi tiến lên, quân
khởi nghĩa tan vỡ phải bỏ chạy. Một mình Phan Khánh, hai tay cầm hai kiếm, dũng
mãnh chém đứt vòi voi làm voi phải bỏ chạy. Nghĩa quân quay lại tấn công,
chuyển bại thành thắng.
Lò vật Trà Lũ còn duy trì đến
sau kháng chiến. Trà Lũ Trung (xã Xuân Trung) có đô Ba, đô Tư, đô Tuyết là những
trụ cột của phong trào. Hàng năm (sau thì ba năm một lần) vào ngày mồng bốn
mồng năm Tết, làng mở hội, đấu vật là môn thể thao không thể thiếu. Thời kỳ
này, được chính quyền quan tâm, phong trào đấu vật ở Trà Lũ Trung khá sôi nổi.
Mỗi khi có hội vật, khán giả háo hức chờ xem đô Ba, đô Tư, đô Tuyết thao diễn.
Những miếng vật cơ bản như: vét, mói, dắt để hớt gót, gồng ngồi, gồng đứng,
gồng quỳ, đòn dọc, sườn tay ngoài, đốc khuỷu tay, bắt bò lật sườn, bắt bò xốc
bụng... các đô rất thuần thục, điêu luyện và vận dụng linh hoạt, biến ảo khôn
lường, sức của tay chân tăng lên gấp bội.
Bọn trẻ khoái nhất được xem
các đô làm động tác chuẩn bị. Hai đô vào sân, quỳ vái chào khán giả, bắt tay
nhau, rồi theo hiệu lệnh trống làm các động tác hai tay chống cạnh sườn, xe đài,
tiến ba bước và lùi ba bước, vừa đi vừa cuốn chỉ, múa hạc, vờn nhau trông thật
đẹp mắt. Các đô cởi trần, đóng khố, bắp thịt nổi lên săn chắc. Sau ba tiếng
trống, các đô chuyển thế thủ, lồng tay tư và bắt đầu cuộc đấu hết sức nhanh
mạnh. Đô Ba và đô Tuyết thường vật mở màn cho hội vật. Hai đô biểu diễn là chủ
yếu, không hề ăn thua, thường kết thúc hoà mà khán giả vẫn nhiệt liệt tán
thưởng.
Khoảng năm 1964, huyện Giao
Thuỷ có hội vật giao hữu với một đô tên là T., người dân tộc. Nghe đâu đô này
đang là hy vọng vô địch miền Bắc. Đô T. 25 tuổi, cổ bạnh, hơi thấp nhưng trông
khoẻ như trâu mộng. Các đô địa phương đều bị đô T. lần lượt hạ bằng miếng bắt
bò ngược. Khi đối thủ thất thế nằm bò, đô T. thường dùng tay trái chẹn gáy, tay
phải luồn qua háng bốc ngược đối phương từ chân lộn qua đầu, nếu đối phương cố
gồng không chịu thua có thể bị gãy cổ. Khán giả chỉ còn hy vọng ở đô Ba, mặc dù
khi ấy ông đã ngoài 50 tuổi.
Ông Ba cao một mét tám mươi
lăm, sở trường các miếng thượng, vậy mà khi đấu với đô T., ông lại nhào xuống
bốc cẳng rồi chuyển thế nằm bò. Đô T. loay hoay dùng miếng bốc bò ngược nhưng
không sao nhấc ông Ba lên được. Toàn thân đô Ba như đá tảng, bụng dán chặt
xuống đất. Khán giả reo hò vang dội.
Hiệp hai cũng diễn ra đúng như
hiệp một.
Hiệp cuối, đô T. mình nhễ nhại
mồ hôi, mồm thở như bò rống, đành xoay ra miếng bốc bò lật sườn (bò ngang),
nhưng cũng không lật được đô Ba.
Sắp hết hiệp, bỗng đô Ba lật
mình nằm ngửa chịu thua. Khán giả chết lặng, không còn tin vào mắt mình nữa.
Thằng Hai con ông Ba mới 17 tuổi, nhảy vào sới, đòi đấu với đô T. nhưng Ban tổ
chức không chấp nhận.
Theo dư luận của nhân dân, bắt
đầu từ thằng Hai con ông Ba tiết lộ thì đô T. thề nếu không thắng ông già ngoài
50 (là đô Ba) thì sẽ tự vẫn. Trước khi vào đấu chính thức, đô T. đến nhà thăm
và xin vật thử với đô Ba ba keo, thua cả ba. Ban tổ chức hội vật dàn xếp với đô
Ba nhường cho lớp trẻ thắng... Nghe đâu họ còn hứa mời ông Ba lên Trung ương
làm thầy dạy vật, nhưng ông không nhận. Sau họ nài nỉ mãi, ông Ba đành đồng ý
nhường đô T…
Từ đó về sau ông Ba giải nghệ
vật. Cũng từ đó phong trào vật võ của làng Trà Lũ Trung mai một dần...
Làng Trà Lũ từng có nhiều đô
vật nổi tiếng trong lịch sử như thế, thật cũng đáng tự hào lắm thay.
………………..
Nguồn: Tạp chí Văn Nhân. –
2018. – Số 117. – Tr. 33-36
TÔI
ĐI BỆNH VIỆN Y HỌC CỔ TRUYỀN NAM ĐỊNH
Tiểu
đường, huyết áp, đau lưng
Bệnh
già tổng lực không ngừng hành ta
Nhớ
thời trai trẻ xông pha
Đạn
bom nào có coi ra cái gì
Bây
giờ lọm khọm bước đi
Nằm
không dậy nổi khác gì trẻ thơ
Ti
vi ra rả hàng giờ
Thuốc
hay quảng cáo như mơ được vàng
Vội
mua, tiền mất tật mang
Toàn
quân lừa đảo, toàn hàng bất nhân
Thuốc
tây chữa cũng nhiều lần
Đã
không khỏi lại thêm phần nặng hơn
Cầu
đi y học cổ truyền
Gặp
thầy gặp thuốc khỏi phiền vợ con…
TUẦN
THỨ NHẤT 22/2/2021 đến 28/2/2021
7
giờ sáng, đi Bệnh viện y học cổ tuyền Nam Định với tâm lý cầu may. Trước đó, ba
lần vào Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh chữa thuốc tây không chuyển. Chụp
phim, thoái hóa toàn bộ cột sống, có gai. Nghe VTV1 quảng cáo Khương Thảo Đan
dùng hai tháng không đỡ sẽ hoàn lại tiền, uống liền bảy tháng, không ăn thua.
Trên FB nhiều GS. TS. quảng cáo thuốc chữa cột sống rất công hiệu, mua liền. Tốn
tiền bạc và thời gian, bệnh không đỡ. Vậy nên đi y học dân tộc tâm trạng có bệnh
thì vái tứ phương, không tin lắm…
***
Phòng
khám khá đông bệnh nhân. Khai báo y tế dăm phút nhận được giấy vào khám. Xếp
hàng chờ 30 phút khám xong, chuyển vào khoa châm cứu.
-
Các cô cho hỏi…
-
Ông là Mỹ Giống phải không ạ?
Chắc
phòng khám đã truyền dữ liệu về khoa trước.
-
Vâng, tôi là Trần Mỹ Giống.
Mấy
cô bác sĩ cười, có lẽ cười vì cái tên tôi nghe… buồn cười.
-
Ông đến lần đầu ạ?
-
Vâng! Lần đầu!
Định
thần, nhìn kỹ, toàn là các bác sĩ gái trẻ trung xinh đẹp. Một cô bác sĩ ôm chăn
màn, gối, quần áo dẫn tôi về phòng, bảo:
-
Chăn màn của ông đây. Để cháu trải ga cho ông.
Vừa
nói cô vừa thoăn thoắt trải chiếu, nệm, ga lên giường.
-
Ông nằm nghỉ đi, một lát nữa chúng cháu châm cứu cho ông.
Phòng
bệnh nhân kê 5 giường, vệ sinh khép kín. Nửa tiếng sau phòng đã tiếp nhận đủ bệnh
nhân. Hai ông cựu chiến binh dưới bảy mươi tuổi. Một ông chừng năm mươi đi chân
vẽ chân xóa. Một ông già, có lẽ gần tám chục, hay nói về thời sự chính trị. Tôi
bỗng nhiên giở tính, cứ nín lặng theo dõi mọi người. Ông cựu chiến binh tai biến
lần hai, có bà vợ đi phục vụ. Thỉnh thoảng ông tự nhiên bật ra một tràng cười,
rất vô tư tự nhiên thoải mái. Bà vợ ông bảo:
-
Trước nhà em còn khóc cơ bác ạ. Nhà em khóc giỏi, cười cũng giỏi.
Hai
ông bà bữa ăn chung một suất cơm bệnh viện 20.000 đồng.
Ngày
châm cứu một lần, tiêm một phát (không biết là thuốc gì). Bàn tay mềm mại của
bác sĩ thao tác khéo léo. Vừa làm vừa hỏi chuyện bệnh nhân về bệnh tình.
Cứ
ngỡ thầy lang phải là các ông lão râu dài, ai ngờ lại là các cô gái trẻ đẹp đến
vậy.
***
Ngày
thứ hai, bác sĩ đến giường bệnh lấy máu thử, rồi hướng dẫn sang khoa khám chụp
phim, đo xương gì đó. Được chụp chiếu ngay, không phải đợi. Ông bệnh nhân cùng
phòng ngồi chờ, nhìn qua vi tính, bảo:
-
Xương cốt ông chỗ đen chỗ trắng kinh quá!
Thì
chụp ở viện đa khoa trung tâm tỉnh đã biết từ lâu rồi, chả ngạc nhiên gì cả.
***
Ngày
thứ ba, nhận thuốc bắc 6 gói cho cả tuần, thuốc viên (Phong tê thấp) ngày uống
ba gói cũng được phát một tuần liền. Thêm điện phân, la ze mạch, xoa bóp. Phòng
xoa bóp toàn là trai trẻ.
-
Ban đầu sẽ đau lên, nhưng ông cứ kệ nó. Rồi sẽ quen ông ạ. Ông già rồi, đau lâu
năm, cứng hết rồi, phải từ từ mới mềm lại được…
Mấy
ngày đầu xoa bóp, tối về đau cả đêm mất ngủ.
***
Thứ
bảy chủ nhật chỉ có một bác sĩ trực, ai phải tiêm thì tiêm, ai không tiêm thì tự
do.
Thuốc
bắc sắc xong uống bụng sôi ùng ục, đi ngoài toàn nước. Bác sĩ cho thêm vị mới.
Vẫn đi ngoài. Bác sĩ bảo mang các gói thuốc đến để nhặt vị… đi ỉa ra cho. Vẫn
đi ngoài, uống béc be rin, đỡ. Nghỉ uống mấy ngày rồi tính.
Cô
bác sĩ có khuôn mặt giống mặt con cháu nội tôi vừa thao tác điện châm một cách
diệu nghệ, vừa bảo:
-
Ông cố theo ba tháng, nếu không chuyển thì đi tuyến trên. Mỗi đợt ba tuần, ông
ra viện lại vào viện đợt mới.
Không
xong rồi, tôi còn phải khám định kỳ lấy thuốc tiểu đường huyết áp ở Bệnh viện
đa khoa trung tâm tỉnh, phải ra viện lấy bảo hiểm về mới được khám. Nằm liên tục
ở đây ba tháng sao được. Thôi cứ nằm hết một đợt ba tuần rồi tính.
***
Bệnh
viện này ít bệnh nhân hơn Bệnh viện đa khoa trung tâm tỉnh nên đỡ mất thời gian
chờ đợi. Nhớ mỗi lần đi khám định kỳ tiểu đường huyết áp ở Bệnh viện đa khoa tỉnh
mất cả ngày, rất mệt mỏi. Tự nhiên thấy thích Bệnh viện y học cổ truyền, thấy
các cô các cậu bác sĩ trẻ đẹp thật đáng yêu.
TUẦN
THỨ 2, 3 VÀ XUẤT VIỆN 15-3-2021
Hàng
ngày cứ diễn ra một số việc như điệp khúc:
-
Đo huyết áp
-
Tiêm
-
Châm cứu
-
Xoa bóp bấm huyệt
-
Điện xung
-
La ze mạch…
Ngày
nào bác sĩ Trưởng khoa Nguyễn Thị Nguyệt người xã Nam Toàn (Nam Trực) cũng hỏi:
-
Ông thấy đỡ đau chưa?
Tôi
lặp lại một câu trả lời chân thực như điệp khúc:
-
Vẫn đau cô ạ. Đi lại thì đỡ. Ngồi lâu đứng lên mấy phút mới thẳng lưng lên được.
Đêm đau nhiều. Trở mình, ho cũng đau. Dậy phải nhờ bà lão kéo hoặc đẩy.
Nghe
mãi một câu trả lời, chắc bác sĩ Nguyệt sốt ruột lắm. Một bận bác sĩ Nguyệt bảo:
-
Hay là ông đi tuyến trên họ khám xem có bệnh gì khác ngoài thoái hóa không.
Bình thường chúng cháu chữa thời gian như vậy là giảm đau nhiều rồi. Chúng cháu
đã tập trung hết khả năng thuốc, thủ thuật, châm cứu cho ông mà không chuyển…
***
Chuyển
đề tài bệnh không chuyển, nói về mấy cụ cùng phòng cho đỡ nhàm chán sốt ruột.
Cụ
Kiên (ở Lộc Vượng) và cụ (không nhớ tên) quê Mỹ Lộc trên bát tuần vốn là lính
nhiều năm đi Căm Pu Chia. Hai cụ cùng cảnh hợp gu chuyện như ngô rang. Hình thức
hai cụ như hai anh em: đều đậm người, trán hói, tóc bạc, mặt chữ điền, giọng
sang sảng… Nghe các cụ tự hào kể về thời chiến binh oai hùng của mình mà vui
đáo để. Có vẻ bệnh hai cụ nhẹ, mới chớm đi chữa ngay.
Ông
cựu chiến binh tên Lý quê ở huyện Xuân Trường, mạn giáp Ngô Đồng bị tai biến nhẹ,
hiền lành, dễ gần. Đồng hương, cùng lính chống Mỹ nên tôi và ông Lý hay chuyện
trò với nhau về những người cùng quê mà cả
hai cùng biết. Trước ngày ra viện ba hôm, ông Lý nhận điện vợ báo tin mất trộm
toàn bộ đàn gà năm chục con cùng bảy con ngan tất cả gần hai tạ thịt. Ông Lý buồn
xịu. Mọi người chỉ biết an ủi ông:
-
Thôi của đi thay người ông ạ.
Ông
cựu chiến binh tên Hào cùng chiến trường Quảng Trị với tôi bị tai biến lần hai,
có vợ đi phục vụ. Nhà ông ở phố Vịt khu Năng Tĩnh. Tính ông hiền mà cục, nhiều
lúc vô cớ cười tràng dài không kìm được, có lúc lại văng tục khi không vừa ý.
Bà vợ nhẫn nhịn chiều chồng, thí thỏn ông, chăm sóc ông như chăm trẻ con. Bà vợ
ông thường chủ động xếp giấy cho cả phòng đi xoa bóp bấm huyệt, đi la ze mạch…
đỡ phải chờ đợi.
Ông
bệnh nhân tên Xuân Văn Tuyết nhà ở Nam Điền (Nam Trực) gần nhà bà giáo Ngát -
dì tôi, thật đặc biệt. Ông mới năm chục xuân, người cao to đẹp trai, vốn là đại
gia cây cảnh và bất động sản. Ông từng có bốn bà vợ ở thủ đô, thành phố, và ở
quê… với sáu con trai gái. Cách đây hơn chín năm, ông bị tai biến, cấm khẩu, bất
động. Chữa chạy ở Hà Nội hơn một năm trời, tốn bạc tỷ mới đi chân vẽ chân xóa
được, mới nói ú ớ được. Nghe ông nói phải luận mãi mới hiểu. Hỏi gì ông cũng bảo
chiều, hay ngày kia!
-
Đến lượt la ze mạch chưa?
-
Ngày kia!
-
Thế đã châm cứu chưa?
-
Chiều!
Mỗi
lần tiêm, ông đều phải nhờ người khác đặt bông cầm máu đúng vào vị trí tiêm và
dán băng giữ giúp. Tay trái ông dường như không cử động được.
Ông
nằm Viện y học cổ truyền Nam Định này đã tám năm rồi. Cứ hết ba tuần, ra viện một
tuần, lại vào ba tuần tiếp… Chả biết là bảo hiểm của ông có hay không, chế độ
gì mà mỗi đợt phải trả hơn 1,8 triệu đồng. Bác sĩ ở đây và ông quen nhau nhẵn mặt.
Ông và tôi hẹn khi nào có dịp sẽ thăm nhau.
***
Thứ
Bảy, Chủ nhật tuần thứ ba, về nhà nghỉ. Sáng thứ Hai (15-3-2021) vào viện châm
cứu và chiều ra viện. Qua hai ngày nghỉ, không xoa bóp bấm huyệt, không la ze,
không điện xung, không châm cứu… không gì cả. Bất ngờ giảm đau rõ rệt. Nằm tự dậy
được. Đi bộ nhanh và thoải mái.
Bác
sĩ Nguyệt vừa châm cứu vừa hỏi:
-
Ông thấy trong người thế nào?
-
Ồ, lạ quá. Càng thủ thuật, càng xoa bóp… càng đau. Vậy mà hai ngày chỉ nằm chơi
tự nhiên thấy giảm đau được sáu bảy phần. Tự dậy được, không cần vợ đỡ. Không
đau cơ, chỉ còn thấy đau cột sống mỗi khi nằm thôi.
-
Vậy thì tốt. Ông nên ra hiệu thuốc Đền Giếng mua can xi uống. Thiếu can xi cũng
làm đau. Ông vào châm cứu luôn một hai đợt nữa nhé!
-
Thôi để sau ngày 6-4-2021 khám tiểu đường huyết áp lấy thuốc đã cô ạ.
-
Vâng, vậy cũng được!
Cảm
nhận chung: Hầu hết các bác sĩ đều niềm nở, tâm lý, nhiệt tình, gần gũi… để lại
ấn tượng tốt cho bệnh nhân. Chỉ hơi gợn một tý ở bộ phận hành chính thu viện
phí và bảo hiểm. Tôi đến ký giấy ra viện lúc 2 giờ 45. Mấy cô nhân viên ngồi
chơi, lèo tèo hai ba người khách mà họ nhất định bắt tôi phải chờ đúng 3 giờ mới
làm thủ tục. Tôi đi loanh quanh ngó nghiêng không thấy bất kỳ cái biển báo lịch
làm thủ tục ra viện nào cả. Tôi có cảm giác họ là rô bốt chứ không phải người.
Một
ông bệnh nhân đồng hương quen biết đang làm thủ tục nhập viện bắt tay tôi bảo:
- Tay Giám đốc viện này là rể họ Trần làng ta đấy ông ạ!
Tôi
thờ ơ tạm biệt!
***
Về
nhà khoe vợ:
-
Lạ quá bà ạ. Càng thuốc men, tiêm, xoa bóp… càng đau. Nghỉ hai ngày chả thủ thuật
thuốc men gì lại thấy đỡ đau. Giảm đau tới sáu bảy phần rồi bà ơi. Cứ đà này,
có khi chả cần đi viện.
Bà
hàng xóm tham gia:
-
Không đau tạm thời thôi ông ạ. Ông cứ đi tuyến trên khám đi cho yên tâm.
-
Vâng! Cứ đợi mươi ngày xem tình hình sao đã rồi tính bà ạ!
TÔI ĐI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Sau ba bốn lần tôi khám chữa ở tỉnh cả
Tây y lẫn Đông y vẫn không đỡ đau lưng, vợ con bàn đưa tôi đi khám ở Bệnh viện
Bạch Mai. Tất nhiên là khám theo yêu cầu tự chi phí. Các con trai gái dâu rể
nhiều ít đều biếu tiền cho bố chi phí chuyến đi. Tôi vui vẻ bảo:
- Bố khám mỗi khoa cơ xương thì một
ngày là xong, chi phí thuốc men đôi ba triệu thôi.
Con dâu lớn bảo:
- Con đã lo một chuyến xe 7 chỗ ngồi
cho bố đi rồi ạ.
Tôi bảo:
- Thằng Minh và thằng Hưng một đứa đi
với bố.
Vợ tôi bảo:
- Cả hai thằng cùng đưa ông đi!
***
Sáng ngày 23-3-2021 hơn 7 giờ chúng
tôi đã tới Bạch Mai. Khai báo y tế dịch co vít 19 rồi xếp hàng mua phiếu khám.
Hồi này họ không phát phiếu khám trước, không bán phiếu qua trung gian. Thằng
Minh xếp hàng đến lượt phải gọi bố vào trình diện.
Ba bố con tôi chờ thang máy lên tầng
7 khu nhà 9 tầng khám tại phòng 704. Tầng nào cũng đông nghìn nghịt người bệnh
và người nhà người bệnh. Phòng chờ rộng như sân bóng đá mà vẫn cảm giác như
đang ở trong chợ. Có rất ít ghế nhựa cho người ngồi chờ. Tôi mệt mỏi tựa lưng
vào lan can cầu thang bộ vì ngồi bệt xuống sàn gạch men như mọi người thì đứng
lên rất khó khăn. Một cô gái trẻ ăn mặc như nông dân nhường cái ghế nhựa cho
tôi ngồi.
Khoảng 10 giờ, khi tôi đã ba lần đi vệ
sinh, thằng Hưng gọi:
- Bố ơi đến lượt vào khám rồi ạ.
Qua cửa vào hành lang chờ khám, họ chỉ
cho một người đi theo. Thằng Minh phải ở lại phòng chờ đại trà.
Bác sĩ hỏi bệnh và nhanh chóng đưa
phiếu xét nghiệm, x quang, siêu âm cho tôi. Thằng Minh đem phiếu đi nộp tiền ở
tầng một. Thằng Hưng xếp hàng chờ xét nghiệm cho bố ngồi nghỉ. Khi đến lượt,
tôi thế chỗ thằng Hưng trong hàng rồng rắn chờ lấy máu. Thằng Minh đem giấy xuống
tầng hai đăng ký siêu âm, rồi lại lộn lên tầng tám đăng ký x quang.
Tôi được lấy máu xét nghiệm xong thì
gần đến giờ nghỉ trưa. Họ hẹn 14 giờ 30 có kết quả.
Tôi chỉ muốn nằm quay ra bất kỳ chỗ
nào đó nên bảo:
- Hai đứa đi ăn trưa. Để cho bố cái
bánh mì, bố ở lại phòng chờ.
Thằng Minh bảo:
- Bố đi ăn cơm rồi con tìm phòng cho
bố nghỉ. Mẹ điện bảo thuê phòng cho bố nằm nghỉ trưa.
Ba bố con tôi ra phố sau bệnh viện, gọi
ba đĩa cơm bình dân. Còn đang ăn dở thì phục vụ đã đến thu đĩa. Khách ăn rất
đông còn xếp hàng chờ.
Minh thuê được phòng chừng 8 mét
vuông, có kê một cái giường rộng mét hai. Ba bố con tôi nằm sát bên nhau. Tôi nằm
bìa ngoài để dậy đi vệ sinh cho tiện. Cả trưa tôi mệt bã người mà không sao chợp
mắt được, ký ức ngày trước chợt hiện về. Có dễ đến gần ba chục năm tôi mới được
nằm cùng giường với hai thằng con trai giờ đã bốn năm mươi tuổi. Ngày ấy ba đứa
con và hai vợ chồng tôi ở trong nửa căn phòng tập thể Thư viện tỉnh Nam Định chừng
8 mét vuông như chiếc phòng này. Bốn mẹ con nằm dọc trên chiếc giường đôi rẻ quạt
mang từ quê lên. Tôi nằm ngang cuối giường… Các con tôi cứ vô tư lớn lên trong
cái nghèo khó của cha mẹ. Nghĩ về những ngày khốn khó vợ chồng con cái tôi trải
qua trong yêu thương mà tôi bồi hồi xúc động đến cay mắt. Cảm ơn trời Phật cho
tôi sống lại cảm xúc những ngày ba mươi năm trước.
Hai giờ chiều ba bố con tôi trở lại bệnh
viện. Tôi ngồi lay lắt ở tầng hai chờ siêu âm. Thằng Minh lên tầng tám chầu trực
đến lượt bố được x quang thì gọi điện tôi lên. Thằng Hưng chầu trực trước cửa
hành lang chờ siêu âm để bố ngồi nghỉ. Nhân viên y tế canh cửa gọi số bảo:
- Ông số 806 thì phải ba giờ rưỡi chiều
mới tới lượt.
Tôi vật vã ngồi mỏi lại đứng dậy đi
lom khom. Quanh tôi la liệt các bà các ông từ Lai Châu, Thanh Hóa, Thái Bình,
Nam Định… nằm ngồi vất vưởng chờ khám. Một bà chừng trên bảy mươi tuổi, người
quắt queo, bảo tôi:
- Sau đợt này thì tôi cạch đến chết
không đi khám theo yêu cầu thế này nữa.
Tôi thều thào trả lời bà không ra
hơi:
- Vâng.
Thằng Hưng gọi:
- Bố vào đi!
Nhìn điện thoại 4 giờ chiều. 4 rưỡi
siêu âm xong. Hai bố con hớt hải len vào cầu thang máy lên tầng tám x quang.
Thằng Minh ra cửa đón bảo:
- Vẫn chưa tới lượt bố ạ.
Cuối ngày cũng đã vãn khách. Phòng chờ
có mấy chục ghế ngồi. Tôi vặn vẹo thay đổi tư thế cho đỡ đau lưng. Mệt quá thiu
thiu mơ màng… Thằng Minh bảo:
- Bố cứ vào đại đi, 5 giờ chiều rồi bố
ạ.
Tôi cầm phiếu đưa cho một cô bác sĩ.
May quá, cô bác sĩ bảo ông vào phòng chụp đi. Nằm chụp hai ảnh ngửa và nghiêng.
Tôi không sao nghiêng người được, phải nhờ bác sĩ hỗ trợ. Lại chụp đứng lồng ngực.
Chờ nửa tiếng mới có phim. Ba bố con
vội xuống tầng bảy. Mãi 6 giờ chiều bác sĩ khám mới về phòng, chắc đi ăn tối.
Bác sĩ vừa xem kết quả vừa phán:
- Cột sống thoái hóa nặng, viêm xương
dính khớp, tổn thương phổi, xơ gan. Các ông cứ uống rượu bia thuốc lá cho lắm
vào rồi gan phổi hỏng hết.
Thằng Minh bảo:
- Anh ơi, bố em không uống rượu bia,
không hút thuốc ạ.
Bác sĩ bảo:
- Ngày mai ông nên khám thêm chuyên
khoa hô hấp nhé.
- Báo cáo bác sĩ, tôi xin khám khoa
hô hấp sau.
- Vậy tôi kê đơn cho ông về uống hết
thuốc thì lên khám lại nhé.
- Vâng, cảm ơn bác sĩ.
Qua mấy quầy mua thuốc vẫn thiếu một
loại. Tôi bảo:
- Về Đền Giếng mua cũng được.
Thằng Minh bảo:
- Thuốc của họ không đâu có đâu bố ạ.
Vừa khi ấy một thanh niên bảo đưa đi
mua thuốc giúp:
- Loại thuốc ấy chỉ có ở tổng kho
thôi, không nơi nào có đâu ông ạ.
Thằng Minh đi 10 phút đã đem thuốc về.
Tất nhiên là thuốc rất đắt tiền.
Chín giờ tối về tới nhà, chỉ kịp cởi
bộ quần áo ngoài, tôi lăn ra giường trong mệt mỏi quá tải thể xác, bải hoải
tinh thần, xen lẫn cảm giác sung sướng được nằm trên chiếc giường của mình
trong ngôi nhà mình.
Tôi mường tượng kịch bản mai đây khám
ở tỉnh sẽ diễn ra một trong hai cảnh:
1- Bác sĩ tranh thủ nghiên cứu học hỏi tuyến trên làm giàu kiến
thức cho bản thân, vui vẻ động viên và điều chỉnh thuốc men cho bệnh nhân.
2- Bác sĩ cau có, các ông lắm tiền thì cứ đi tuyến trên mà khám,
kết quả có khác gì ở tỉnh đâu, ai già chả thoái hóa, gan yếu một tí nhưng chả
sao cả, phổi di chứng viêm phế quản chứ có tràn dịch gì đâu. Thuốc thì họ đã kê
đơn đủ rồi, ông cứ uống hết đi đã…
Tôi chìm vào giấc ngủ trong suy nghĩ
vẩn vơ và cái cảm giác đau đau không chỉ ở lưng…
LAN MAN VỀ NHÀ THƠ BÙI ĐỨC VINH
Khi tôi còn
công tác ở Thư viện tỉnh Nam Định (năm 2009 tôi mới nghỉ hưu), nhà thơ Bùi Đức
Vinh thường xuyên đến chơi thăm tôi. Mỗi lần Vinh đến là không khí phòng tôi
sôi động hẳn lên. Vinh nói nhiều, nói say sưa về thơ, đọc thơ, khi cao hứng còn
hát rất hay nữa. Vinh mơ mộng, thơ thẩn như trên mây trên gió. Ông nhà thơ nào
mà chả mơ mộng ngẩn ngơ chứ! Làm thơ mà lúc nào cũng tỉnh, thuần lý trí thì chỉ
đẻ ra thơ không có cảm xúc, hay thế quái nào được.
Những năm hai nghìn, thơ Vinh được nhiều báo đăng
và giới thiệu, coi là một hiện tượng thơ trẻ, mới. Vinh được mời dự nhiều hội
thảo về thơ trẻ… Trong cuốn “Thư mục nhân vật Nam Định” tôi có ghi lại một số
bài viết về Bùi Đức Vinh như: “Gặp nhau để chia lửa” (Phương Thanh // Thế giới
trong ta. – 2007. – Số 188. – Tr. 29 – 30); “Lầm lụi và quyết liệt” (Phong Điệp
// Văn nghệ trẻ. – 2007. – Số 23); “Thơ Bùi Đức Vinh” (Nhân đạo và đời sống. –
2007. – Số 21); “Về một cánh đồng thi ca” (Trần Văn Lợi // Nam Định cuối tuần.
– Ngày 10 – 8))...
Khi được
Vinh tặng tập thơ “Những bước chân của bão”, tôi có ý định viết bài giới thiệu
với bạn đọc. Nhưng tôi đã bỏ ý định đó khi Tạp chí Văn Nhân đăng bài giới thiệu
tập thơ “Những bước chân của bão” của một tác giả có học hàm học vị viết rất
hay, ngôn từ rất phù hợp với giọng thơ Bùi Đức Vinh. Tôi tự biết mình viết thua
xa tác giả này.
Hoàn cảnh
Vinh thật ái ngại, bố mẹ mất, vợ rời xa đi kiếm sống, con phải nhờ ông bà ngoại
nuôi. Vinh không có việc làm, nuôi thân còn khó, nuôi sao được vợ con. Một thời
gian Vinh mắc chứng lẩn thẩn, ngẩn ngơ. Bệnh lui rồi vẫn để lại di chứng thẩn
thơ mơ mộng trên mây trên gió. Cái tính thẳng ruột ngựa, yêu nói yêu, ghét nói
ghét, ăn mặc lếch thếch, ngơ ngơ ngẩn ngẩn của Vinh làm nhiều người không
thích. Nhưng thơ Vinh vẫn đều đều được đăng báo.
Vinh thường
đến nhà thăm tôi. Vẫn thao thao bất tuyệt về thơ, mơ mộng thiên tài. Tôi chỉ
lắng nghe, vì biết có nói gì thì Vinh cũng bỏ ngoài tai khi đang trong cơn say
sưa mơ mộng không dừng lại được.
Nhớ một lần
Vinh bảo:
- Hội ta
đang thu bài in tuyển “Thơ Nam Định 5 năm đầu thế kỷ”, chú có tham gia không?
- Mình có
chuyên thơ đâu, gửi chắc cũng chả được chọn.
- Chú đưa
cháu mấy bài cháu duyệt cho.
Chiều Vinh,
tôi đưa bài thơ “Đêm Yên Dũng”. Vinh đọc xong, phán liền:
- Toàn bích!
Cháu đảm bảo bài này sẽ được tuyển. Mặt bằng thơ tỉnh ta cháu biết rõ! Tin cháu
đi!
- Ừ thì gửi
hú họa, có mất mát chi!
Ai ngờ bài
thơ lại lọt được vào mắt xanh của nhà thơ Phạm Trọng Thanh. Nhà thơ Phạm Trọng
Thanh đã chọn bài thơ của tôi vào tuyển.
Cũng không
ngờ, một ông nhạc sĩ lấy bài thơ đó để phổ nhạc thành ca khúc “Đêm Thành Nam”
nhưng phớt lờ tên tác giả lời. Lại không ngờ một ông tác giả chép bài thơ của
tôi, đổi tên thành “Đêm Thành Nam”, cắt bỏ một khổ giữa cho phù hợp tên bài,
rồi đăng lên tạp chí. Chuyện bung bét một dạo, tạp chí phải xin lỗi và in lại
bài thơ nguyên bản trả về cho tác giả đích thực.
Nhờ hai nhà
thơ Bùi Đức Vinh và Phạm Trọng Thanh mà bài thơ của tôi được chắp cánh!
***
Sáng
25-3-2021 Vinh đến tôi chơi rất lâu. Khi tôi mở FB trang ông Trần Văn Sản mới
giật mình bảo Vinh:
- Sáng nay
bộ môn Thơ họp đầu năm, sao Vinh không đi dự? Ông Sản thông báo đây này!
Vinh buồn
hẫng:
- Cháu có
biết gì đâu, không nhận được giấy mời, không ai báo!
Một nhà văn
đến thăm tôi đúng lúc Vinh đang thao thao bất tuyệt về thơ với tôi, nhà văn tỏ
ra khó chịu. Sau nhà văn khuyên tôi:
- Ông tiếp
làm gì thằng lôi thôi lếch thếch, lúc nào cũng trên mây trên gió, nói năng
chẳng coi ai ra gì ấy. Thơ của nó chẳng đâu vào đâu, tôi chả tiêu hóa được. Nó
đến tôi, tôi đuổi thẳng.
Nhà thơ có
tài nhiều khi cũng lôi thôi lếch thếch, sống lập dị, như Bùi Giáng, Văn Thùy…
đấy. Thơ của Văn Thùy chẳng in ấn, chỉ
chép tay, pho to mà bán đắt như tôm tươi. Thơ của khối nhà thơ nghiêm chỉnh có
nhà xuất bản đàng hoàng mà tặng biếu mấy ai chịu đọc. Thơ Vinh nhiều bài đúng
là lập tứ không được coi trọng, hoặc tứ hổ lốn không nhất quán, nhưng cảm xúc
được coi trọng thể hiện bằng những ngôn từ chọn lọc đẩy cảm xúc lên mức cao
nhất… Mỗi người có cái gu thẩm mỹ nghệ thuật riêng, không thể áp đặt cái gu
thẩm mỹ của mình lên người khác. Thơ truyền thống cách luật có bạn đọc của nó,
thơ mới có bạn đọc của thơ mới, thơ Bùi Đức Vinh có bạn đọc của thơ Bùi Đức
Vinh. Bằng chứng là Vinh từng một thời được dư luận khen ngợi, được nhiều giải
thưởng đấy thôi. (Giải thưởng thơ báo Áo Trắng năm 2000, Giải khuyến khích thơ
báo Mực Tím năm 2001, Giải Tư thơ tạp chí Sông Hương năm 2003, Giải khuyến
khích thi thơ lục bát báo Văn Nghệ năm 2003…). Thế còn mấy ông nhà thơ muốn
đuổi Vinh ra khỏi nhà có được như Vinh không nhỉ!
Lẽ nào cùng
giới văn nghệ sĩ mà chỉ vì không hợp gu thơ, cách sống lập dị của nhau mà đuổi
nhau ra khỏi cộng đồng? Lẽ nào mang danh là văn nghệ sĩ chúng ta lại không đủ
bao dung đồng nghiệp có phong cách, lối sống, gu thẩm mỹ, nghệ thuật khác mình?
TÔI LẠI ĐI KHÁM BỆNH
Kết
luận của Bệnh viện Bạch Mai “Xơ gan – Tổn thương phổi – Yêu cầu phải khám
chuyên khoa” từ tháng trước đi khám đau lưng ở đây, làm vợ tôi lo hơn cả tôi,
năm lần bảy lượt buộc tôi đi khám lại. Tôi vốn không thấy có triệu chứng gì rõ
rệt về hai bộ phận gan phổi, ngoại trừ nằm đầu thấp thì khó thở đã từ mấy chục
năm nay, uống nhiều thuốc tây chữa tiểu đường huyết áp nên hay đầy bụng chán ăn
và thường ngứa lưng, gãi một lúc mới ngủ được. Do sức ép của vợ con, tôi đồng ý
đi khám chuyên khoa gan phổi.
Thằng
út thăm dò bạn bè rồi quyết định đưa bố đi khám ở Bệnh viện Đại học y Hà Nội.
Chợt nghĩ đến ông bạn Đồng Ngọc Hoa, trước khi mất, cũng khám ở bệnh viện này
phát hiện ra ung thư giai đoạn cuối. Ông Hoa cũng chỉ đau lưng.
Bố
con tôi ra tàu lúc 5 giờ chiều 13-4-2021, đến 7 giờ tối đã nằm nghỉ tại phòng
trọ số 226 đối diện với Bệnh viện Đại học y Hà Nội.
6
giờ sáng 14-4-2021, ông chủ nhà trọ đập cửa gọi:
-
6 giờ rồi, khách trọ đã đi xếp hàng từ 4 giờ sáng, hai bố con ngủ quên à?
Bố
con tôi hấp tấp sang viện. Sân viện người đông tấp nập. Qua kiểm tra covid19 được
dán phù hiệu vào ngực áo, tôi vội xếp vào hàng rồng rắn nhận phiếu khám. Đông
thế này, khám hai khoa, cứ như bên Bạch Mai, chắc hai ngày mới xong. Đang suy
nghĩ thì nghe tiếng loa bác sĩ:
-
Mời cụ ông áo bộ đội lên nhận phiếu, đề nghị các bác nhường đường cho ông cụ.
Tôi
còn đang ngơ ngác không hiểu chuyện gì, thì người đứng trước tôi quay lại bảo:
-
Mời ông lên nhận phiếu trước ạ.
Lâu
lắm rồi, tôi mới lại có được cái cảm giác sung sướng của người bệnh được đối xử
tử tế. Cách đây gần nửa thế kỷ, tôi từng đi viện quân đội ở Vĩnh Yên và được đối
xử vô cùng tử tế so với bây giờ… xin kể vào dịp khác. Tôi nghĩ, các y bác sĩ ở
Trường đại học y đào tạo ra đội ngũ bác sĩ thì lời thề y đức vẫn nhắc nhở họ
hàng ngày. Lại nghĩ, chắc ông Giám đốc viện phải là người tử tế mới tuyển chọn
bồi dưỡng được lớp bác sĩ tử tế. Không kịp tìm hiểu ai là Giám đốc Viện đại học
y nhưng tôi thầm cảm ơn ông.
Không
kể lể con cà con kê nữa, tóm lại là công việc diễn ra như vầy:
-
Vào phòng đón tiếp, khi biết tôi khám phổi thì bác sĩ chuyển ra phòng sàng lọc.
-
Phòng sàng lọc kiểm tra hồ sơ bệnh tôi khám ở Bạch Mai xong, hỏi han cẩn thận rồi
viết phiếu cho đi hai nơi khám Gan và Phổi.
-
Phòng khám phổi chỉ định chụp cắt lớp phổi và siêu âm tuyến giáp.
-
Phòng khám gan chỉ định xét nghiệm máu và xét nghiệm nước tiểu, siêu âm ổ bụng.
Sau
khi thực hiện hết các chỉ định trên, bố con tôi quay về phòng khám gan. Tất cả
các kết quả xét nghiệm truyền về phòng khám nhờ nối mạng nên cũng đỡ vất vả cho
người bệnh.
Bác
sĩ khám gan bảo:
-
Các chỉ tiêu liên quan về gan của ông không có gì đột biến. Chỉ có bạch cầu hơi
tăng. Đường trong máu cao một chút. Ông cứ uống thuốc huyết áp tiểu đường bình
thường, khi nào gan không chấp nhận nữa thì chuyển sang tiêm. Già rồi các bộ phận
thoái hóa yếu đi. Ông về tiêm phòng viêm gan B nhé. Chưa cần thuốc đâu ông ạ.
Tôi
thắc mắc:
-
Sao Bạch Mai họ siêu âm kết luận xơ gan ạ?
-
Vấn đề là do máy móc và người nhìn khác nhau. Giải thích thì khó, nhưng các chỉ
tiêu xét nghiệm chưa có gì phải can thiệp. Ông không phải lo lắng quá mức đâu.
-
Cảm ơn bác sĩ.
Bố
con tôi sang phòng khám phổi. Bác sĩ trao đổi với thằng út:
-
Tuyến giáp của ông có một số hạt nhỏ, nhưng không vấn đề gì. Hình ảnh chụp phổi
ông xấu, mờ. Nhưng là do sẹo cũ, vôi hóa… không can thiệp được. Anh về theo dõi
nếu thấy ông khó thở, ho sốt, đau ngực, có đờm… thì đưa ông đi khám lại ngay.
Bình thường thì ba tháng sau cho ông khám lại nhé. Nếu khám lại nhớ mang hồ sơ
này. Hiện tại không cần uống thuốc gì đâu.
Tất
cả các công việc trên hoàn thành trong buổi sáng.
-
Bố có muốn khám cơ xương ở đây thì con đăng ký chiều nay khám luôn.
Tôi
nghĩ, Bạch Mai họ khám rồi, họ nắm rõ bệnh cũng tốt nên tôi quyết định sang Bạch
Mai khám lại theo hẹn của bác sĩ Bùi Hải Bình (phòng 704 khoa khám theo yêu cầu).
1
giờ trưa hai bố con tôi sang Bạch Mai. 2 giờ đã có mặt tại phòng khám. Tôi yêu
cầu bác sĩ chỉ cho tiếp đơn thuốc, mà không khám.
Khi
tôi đưa hồ sơ khám lần trước, bác sĩ hỏi:
-
Ông đã khám chuyên khoa hô hấp chưa?
-
Rồi. Không có vấn đề gì ạ!
Thằng
út giải thích thêm:
-
Bố em đã khám ở Đại học y, chụp cắt lớp, tổn thương phổi là sẹo cũ…
Tôi
đưa kết quả khám bên Bệnh viện Đại học y ra. Bác sĩ Bình xem xong yêu cầu tôi đứng
cúi lưng và bảo:
-
Lưng vẫn còn cứng lắm.
Bác
sĩ kê đơn mới.
Xuống
quầy bán thuốc, vẫn không có thứ thuốc lần trước phải mua ngoài. Lúc này tôi mới
nhận ra rất ít bệnh nhân khám so với lần tôi đi khám trước.
3
giờ chiều hai bố con tôi đã nằm giường thoải mái trên tàu về Nam Định. Hai tiếng
sau tôi đã có mặt ở nhà và vẫn còn chưa dám tin là việc lại chóng vánh đến vậy.
Tôi
hơi lăn tăn, mỗi lần đi khám như thế, công khám, dịch vụ, tàu xe, sinh hoạt và
thuốc men mất đứt một tháng lương hưu chuyên viên chính kịch bậc của bà vợ yêu
quý của tôi. Nhưng vợ tôi bảo:
-
Tốn nhưng yên tâm. Còn hơn là lo nghĩ bất an. Mà ông đã xem bài báo nói hơn hai
trăm bác sĩ, nhân viên Bệnh viện Bạch Mai bỏ việc, mất việc chưa?
Tôi
vờ như không nghe vợ nói gì, bụng bảo dạ, lần sau chẳng may buộc phải khám thì
mong được thuận lợi như lần khám này ở Bệnh viện Đại học y.
CẢM XÚC KHI NGHE TIN MỘT ĐỒNG ĐỘI RA ĐI
Lại tin buồn một đồng đội ra đi. Lòng nặng
trĩu những buồn thương nhớ bạn. Ký ức đã nhạt nhòa theo năm tháng, nay trở về
xao động trong tôi.
Lũ chúng mình mười tám đôi mươi, gác bút
nghiên lên đường cứu nước. Bỏ lại người yêu, gia đình, trường học. Hát vang bài
Giải phóng miền Nam.
Thằng Hảo trường ngoại giao, thằng Thủy
trường Kinh tế, thằng Ứng trường Mỹ thuật. Đủ, Thị và tao khoa Thư viện xuất
thân. Anh Ổn giảng viên Đại học Bách khoa Hà Nội, Thằng Cầm từ Tổng hợp văn… Và
bao nhiêu thằng nữa tao chẳng thể nhớ tên, tập hợp lại dưới cái tên đơn vị.
Các Tiểu đoàn 17, 18, 19, 20 sinh viên,
trong trung đoàn 101 của sư đoàn 325B ngày đó, giờ nhắc lại lòng vẫn thấy tự
hào. Mới tập chưa thạo đội hình, đi chưa đều một hai hai mốt, vừa qua bắn đạn
thật bài bắn đêm đã lên đường ra trận.
Lũ chúng mình nhiều thằng thư sinh sức trói gà
không chặt, mang trên lưng nặng trĩu gánh giang sơn, xung trận bằng cả trái tim
tràn đầy nhiệt huyết.
Vượt Bến Hải, qua Cồn Tiên, Dốc Miếu, Đông Hà,
Ái Tử, Chi Bưu… Tuyến phòng thủ Thạch Hãn bao thằng bỏ mình trên chốt. Bảo vệ cổ
thành bao đồng đội xả thân nằm lại không về…
Cối xay thịt chẳng phân biệt lính cộng hòa miền Nam hay cộng quân miền Bắc.
Giá thống nhất non sông đắt đến vô cùng.
Nhớ thằng Hiền nặng tám mươi cân, tính
nhút nhát hiền lành như con gái, bị thương thủng đùi vẫn quyết chặn địch cho
đơn vị rút lui bảo toàn lực lượng. Mười ngày sau cánh mình chiếm lại chốt, thằng
Hiền nổ súng từ lòng địch đánh ra. Đồng đội bế nó lên nhẹ như bế đứa trẻ ba bốn
chục cân mà không cầm được nước mắt.
Thằng Hảo nói tiếng Anh như gió, được điều
đi phiên dịch cho cấp trên, phái đoàn bốn bên, đã bỏ mình trên trực thăng khi
đi làm nhiệm vụ.
Thằng
Ứng hay hát bài Chiến sĩ Việt Lào, đi chiến dịch Hồ Chí Minh, đạn mù mắt, còn
dùng máu vẽ chân dung Hồ Chủ tịch.
Thằng Cầm hay đọc thơ với giọng sang sảng
đầy nhiệt huyết trước toàn đơn vị, như Maiacopxki đọc thơ trước hồng quân bảo vệ
Matxcova…
Năm tháng qua đi, tao thành lão già quên
quên nhớ nhớ, không thể nào nhớ hết tên đồng đội năm xưa. Chỉ số ít thằng Cầm,
thằng Ứng… đã thành người của công chúng, mới được người đời biết mặt nhớ tên.
Còn vô số những thằng như tao, về làm phó thường dân, lo mưu sinh chạy ăn vàng
mắt, nào mong ai nhòm đến cảm thông. Dù thế nào chúng mình vẫn giữ vững nhân
cách anh bộ đội cụ Hồ sống cuộc đời thanh bạch.
Nghe tin buồn lại một thằng sống sót qua mùa
hè đỏ lửa 1972 Quảng Trị ra đi, tao bùi ngùi thương xót. Nhưng thôi, số rất ít
cánh mình sống sót trở về, còn may mắn gấp trăm lần số đông nằm lại. Thọ bảy chục
giờ đâu còn là xưa nay hiếm, nhưng cũng cảm ơn trời.
Vĩnh biệt người cựu chiến binh giữ mình đẹp
mãi trong lòng người ở lại. Vĩnh biệt mày, Cầm ơi!
20-4-2021
HẮN
Tôi vốn không quan tâm đến hình thức của
mình nên hầu như không mấy khi dùng gương lược. Từ hôm vợ tôi mua cái gương cao
hai mét, rộng ba gang tay, treo ở cạnh cửa buồng, để trừ tà, thì đột nhiên xuất
hiện trong nhà một tay đàn ông trông thật gớm ghiếc. Mỗi khi thấy tôi đi qua là
hắn lại hiện ra, mắt gườm gườm nhìn tôi, cứ như trêu ngươi làm tôi rất khó
chịu.
Khi chuyển động, dáng hắn như mũi tên lao về
phía trước. Trông cái lưng con tôm, đầu cắt ba phân lô nhô tóc bạc, mặt lưỡi
cày, da tai tái, đôi mắt ti hí một mí rưỡi lúc nào cũng đờ đẫn, hai má hóp, mũi
gẫy, cằm nhọn không râu, môi vừa mỏng lại vừa thâm, mỏ nhọn thập thò hai cái
răng cửa hô cải mả, người ta cứ ngỡ hắn là “cụ”, thực ra hắn mới chỉ là “ông”.
Hắn
hiền lành và tự ti. Trong các hội nghị, hoặc ở nơi đông người, hắn thường thu
mình vào góc khuất. Có lẽ hắn không muốn chường cái bản mặt không lấy gì làm tự
hào của mình trước mắt thiên hạ. Hắn bảo: “Gần lửa rát mặt, càng ít để lãnh đạo
giáp mặt càng tốt”. Đôi lần thấy hắn xuất hiện trên ti vi, trông như đang ngủ
gật. Mà hắn ngủ thật. Cái tật ngủ gật mãn tính của hắn có từ ngày hắn còn là
sinh viên. Một cô giáo trẻ bực mình, bắt hắn ngồi ở bàn đầu, sát nơi cô thường
đứng giảng bài, để hắn chừa cái thói ngủ gật trong giờ giảng của cô. Thế mà hắn
vẫn cong cổ xuống ngủ. Cô thường tì bụng vào bàn học sinh trong khi giảng, để
cho tự tin, thế nên ở dưới nhìn lên, trông đầu hắn cứ như chọc vào bụng cô.
Không nín cười được, cả lớp cười rúc rích, rồi cười phá lên. Khi hiểu ra nguyên
nhân lớp cười, mặt cô đỏ như gấc chín. Còn hắn thì cứ vô tư… ngủ ngon lành,
chẳng hay biết chuyện gì.
Nhưng hắn có tài vặt. Hắn ngủ mà vở ghi của
hắn lại đầy đủ và đẹp hơn cả của người thức. Những năm là sinh viên, hắn chưa
từng bị môn nào điểm trung bình. Có lần bị điểm 7 môn toán vi phân tích phân,
hắn tự trách mình đến mất ngủ mấy đêm liền. Mỗi khi bạn bè nhắc lại chuyện ngày
trước hắn là sinh viên duy nhất của Trường Văn hoá được thày dạy môn Tâm lý học
cho điểm 10, nét mặt hắn tỉnh queo, không nói một lời, trông đến ghét.
Hắn biết làm thơ từ năm 13 tuổi. Năm hắn
học lớp 6, trường hắn tổ chức cuộc thi thơ. Hắn nộp hai bài, được giải nhì. Đài
truyền thanh huyện mấy lần đưa tin và đọc các bài thơ được giải làm hắn vênh
váo lắm. Từ đó, hắn cứ ngỡ mình là nhà thơ rồi. Bất cứ cái gì cũng có thể là
cái cớ để hắn “xuất khẩu thành thơ”. Bất cứ chỗ nào, bất cứ trong hoàn cảnh nào
hắn cũng tìm được lí do đọc thơ của mình để… tra tấn người nghe. Năm 1972, hắn
bị thua trong một cuộc đấu thơ với người đồng đội, mà người đồng đội này mới
chỉ học dở lớp 10, còn hắn đã học dở năm thứ tư đại học. Cũng từ độ ấy, hắn xấu
hổ mà không làm thơ nữa. Nhờ thế mà bạn bè hắn không còn bị hắn tra tấn bằng
những bài thơ con cóc nữa.
Hắn có tài thổi sáo trúc. Ngày học sơ tán
ở Yên Dũng (Bắc Giang), tối tối hắn lên đồi thổi sáo dưới trăng, có cô bạn cùng
lớp nghe rồi mê đến độ phải mò ra với hắn. Vào bộ đội, tài vặt thổi sáo trúc
của hắn có đất dụng võ. Có dễ đến cả trăm lần hắn được mời độc tấu sáo trúc các
bài Anh vẫn hành quân, Lý hoài Nam, Trên đường chiến thắng cho bộ đội nghe
trong những khi nghỉ giải lao trên đường hành quân, hoặc trong các đêm liên
hoan văn nghệ của đơn vị. Hồi ở quân đội, làm Trợ lý câu lạc bộ cấp sư đoàn,
hắn vẫn thường nhận đệm thơ cho tiết mục ngâm thơ. Có tiếng sáo ngọt ngào của
hắn, các tiết mục ngâm thơ hay hơn hẳn. Hắn lại còn hát cũng khá nữa. Anh quân bưu
vui tính, Tôi là Lê anh nuôi là mấy bài tủ hắn thường hát đi hát lại trong hội
nghị, đêm giao lưu. Lạ là nghe đi nghe lại mấy bài đó mà thính giả vẫn vỗ tay
nhiệt liệt tán thưởng. Nhiều người bảo: “Giá mỏ hắn không nhọn thì hắn còn hát
và thổi sáo hay hơn nhiều”. Có người lại bảo: “Hắn hát hay, thổi sáo giỏi chính
là nhờ có cái mỏ nhọn ấy”.
Từ ngày ra quân, về sống với vợ con, hắn
không thổi sáo nữa. Chỉ thỉnh thoảng đứa cháu ngoại quấy hắn mới lấy sáo ra
thổi đệm cho con bé hát bài Bé bé bằng bông hoặc Con cò bé bé. Nghe đâu vợ hắn
cấm hắn thổi sáo để giữ sức khoẻ cho hắn. Lại nghe nói vợ hắn muốn tránh cho
những cô gái nhẹ dạ cả tin bị mê hoặc như mình bởi tiếng sáo của hắn. Có người
bảo hắn sợ vợ. Hắn bảo không phải hắn sợ mà chỉ nể vợ thôi. Chả ai tin lời hắn.
Bị đồng nghiệp trêu quá, hắn khùng lên: “Ông sợ vợ ông, chứ vợ thằng khác thì
còn lâu ông mới sợ, nhá!”
Tính hắn thẳng băng mực tàu. Thường thì
hắn rất ít nói, nhưng khi buộc phải nói thì hắn cứ tông tốc xổ hết những suy
nghĩ của mình, chẳng kiêng nể ai, thành ra nhiều khi vạ miệng. Hồi còn là sinh
viên, hắn yêu cô bạn cùng lớp, chính là vợ hắn bây giờ. Nhà trường có quy định
cấm học sinh yêu đương trong thời gian học tập tại trường. Hắn thản nhiên công
khai chuyện yêu đương của mình cho mọi người biết. Thế là hắn bị đưa ra kiểm
điểm mấy buổi liền. Cô giáo chủ nhiệm lớp tuyên bố: “Hoặc là em muốn học thì
phải chấm dứt ngay chuyện yêu đương, hoặc là em cứ yêu thì phải buộc thôi học”.
Hắn cảng cổ cãi: “Chả có điều luật nào cấm chúng em yêu đương cả. Cô đuổi học
em là quyền của cô, còn yêu hay không là quyền của em”. Nghe hắn láo xược như
thế, cô giáo chỉ còn biết lắc đầu chào thua. Thế là từ năm thứ nhất, tức là từ
khi hắn bị đưa ra kiểm điểm tội yêu đương, đến nửa năm thứ tư, tức là đến khi
hắn nhập ngũ, hắn đành nhận hạnh kiểm loại C, chứ quyết không từ bỏ tình yêu
của mình.
Ngày chiến đấu ở Quảng Trị, do lập thành
tích xuất sắc, hắn được Bí thư chi bộ trao đổi muốn kết nạp Đảng tại trận.
Tưởng hắn sẽ rất sung sướng đón nhận vinh dự đó, ai ngờ hắn thẳng thắn từ chối
với lý do tự thấy mình chưa xứng đáng. Hỏi chưa xứng đáng ở chỗ nào? Hắn bảo ở
chỗ tư tưởng hắn chưa tốt, hắn không vào Đảng để có cơ hội ra quân là chớp thời
cơ về học tiếp đại học. Cuối cùng thì sau chiến dịch Cửa Việt cuối năm 1972 đầu
năm 1973, hắn cũng được điều ra Bắc, nhưng không phải là ra quân, mà là đi học
Trường Sĩ quan Lục quân ở Sơn Tây. Học xong, được điều về giữ chức Trung đội
trưởng đơn vị huấn luyện một thời gian, hắn lại được cử đi học chính trị, được
vào Đảng, rồi chuyển sang ngạch sĩ quan chính trị. Năm 1979 hắn làm Trợ lý Tuyên
huấn sư đoàn, tham gia chống quân xâm lược Trung Quốc ở Lạng Sơn, lại lập thành
tích xuất sắc, được giấy khen. Sau chiến dịch, quân đội có chủ trương những sĩ
quan giữ chức vụ hai năm trở lên mà hoàn thành tốt nhiệm vụ sẽ được phong hàm
tương đương. Hắn giữ chức Trợ lý Tuyên huấn cấp sư đoàn hơn ba năm, được đưa
vào danh sách đề nghị phong hàm vượt cấp. Nhưng khi đưa ra xét duyệt ở cấp Đảng
uỷ sư đoàn thì hắn bị ông Chính uỷ thẳng thừng gạt bỏ với lý do hắn chưa qua
chiến đấu, chưa được đào tạo chính quy, chưa có thành tích xuất sắc… Thời hắn
làm Trợ lý cán bộ, hắn đã thẳng tay gạt bỏ tất cả con cháu, em kết nghĩa của Chính
uỷ không đủ tiêu chuẩn ra khỏi danh sách đề nghị cho đi học sĩ quan. Chính ủy
giận tím mặt mà không làm gì được. Ông để bụng ấm ức chờ dịp dạy cho hắn biết
lễ độ. Khi thấy tên hắn trong danh sách đề nghị phong hàm vượt cấp, ông gạt
phắt cho bõ tức. Biết chuyện, hắn nổi khùng đem hết huân chương chiến công,
giấy chứng nhận dũng sĩ, bằng tốt nghiệp sĩ quan lục quân… trình lên Bộ Tư lệnh
và chất vấn vì sao hắn không được phong hàm như những người khác. Bộ Tư lệnh
không trả lời được, buộc phải cho hắn ra quân theo đề nghị của hắn.
Chuyển ngành về công tác ở Thư viện tỉnh,
hắn vẫn chứng nào tật ấy. Lãnh đạo không thích hắn, nhất là lãnh đạo cùng thời
“ngồi phệt” với hắn lại càng không thích hắn. Chỉ riêng cái tội hắn giám công
khai moi móc những yếu kém của lãnh đạo, lại còn viết lên mặt báo chí nữa, cũng
đủ để cho người ta đưa hắn lên máy chém rồi. Nhưng vì không thể đưa hắn lên máy
chém, nên người ta để bụng thù vặt. Người ta cố tình gạt hắn ra khỏi danh sách
những người được bình bầu khen thưởng, không gạt được thì gây khó khăn, để hắn
lĩnh đủ hậu quả việc hắn bóc mẽ lãnh đạo. Hắn tự an ủi rằng cần quái gì cái
giấy khen, thiết gì mấy đồng bọ. Hắn chửi mấy tay lãnh đạo vốn xưa cùng tầng
lớp “dưới đáy” với hắn, mới nhoi lên được làm lãnh đạo đã quên quá khứ của
mình, theo kiểu AQ: “Mày hơn tao cái ghế, nhưng mày kém tao cái đầu”.
Dù là yêu hay ghét, thì người ta vẫn phải thừa
nhận hắn là chuyên viên giỏi. Những bài viết của hắn trên báo chí khó ai bắt bẻ
được. Trái ngược với lãnh đạo, học trò của hắn coi hắn là thần tượng. Nhiều
đồng nghiệp trong và ngoài tỉnh rất quý phục hắn.
Nhưng hắn hâm hấp, lập dị. Năm chia tỉnh,
Giám đốc Sở Văn hoá Thông tin bổ nhiệm hắn làm Giám đốc Thư viện tỉnh mới.
Tưởng hắn sẽ vồ lấy cơ hội trăm năm có một này, ai ngờ hắn từ chối không một
chút đắn đo. Đồng nghiệp ngạc nhiên: “Bao nhiêu người đội lễ cầu xin chức quan
này nọ mà không được. Đằng này người ta cho không mà hắn lại không nhận. Từ
chối chức Giám đốc Thư viện tỉnh mới chia cũng đồng nghĩa với từ chối một suất
đất làm nhà giá mấy chục cây vàng. Thật chẳng còn hiểu ra sao nữa. Hay là hắn
ngốc? Hắn lập dị?” Hỏi vì sao từ chối cơ hội lãnh đạo, hắn trả lời: “Mình tự
biết mình có thể làm chuyên môn giỏi, nhưng làm quản lý thì rất kém, với lại
mình chỉ thích làm nghiên cứu…” Thật là chẳng còn biết trời cao đất dày gì sất,
nghiên cứu cái khỉ gió gì ở cái cơ quan văn hoá vốn bị xã hội nói chung và lãnh
đạo nói riêng rất coi thường này? Có mà… ngâm cứu. Ai ngờ mười năm sau hắn công
bố hàng loạt công trình nghiên cứu trên báo và tạp chí, hoàn thành với tư cách
là cây bút chủ lực của ba bốn công trình nghiên cứu cấp tỉnh và cơ sở. Hắn in
liền ba tác phẩm riêng, một đã được tỉnh trao giải thưởng Văn học Nghệ thuật.
Hắn còn là đồng tác giả vài chục cuốn sách đã xuất bản, lại còn gần chục bản
thảo mà hắn không có tiền in. Hắn được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật, Hội
Khoa học Lịch sử tỉnh. Trong các hội thảo, trên sách báo, khi nói đến hắn,
người ta gọi hắn là “Nhà nghiên cứu”.
Đã là ông ngoại ông nội rồi mà tính tình
hắn vẫn chả khác mấy thời trẻ. Thích thì làm say mê, không thích thì cho tiền
hắn cũng từ chối. Hắn vẫn lẩn xuống ngồi cuối hội trường trong các hội nghị.
Hắn viết cả loạt bài ca ngợi đồng đội từng là dũng sĩ như hắn đăng trên báo
chí. Nhưng chẳng mấy khi hắn nói về mình, có nói thì lại dùng giọng văn tự
trào. Nhiều người vẫn cứ tưởng hắn là loại “lính cậu”. Một văn nghệ sĩ đồng
hương xã với hắn, khi thấy ảnh và sơ yếu lý lịch của hắn trong một cuốn kỷ yếu
về văn nghệ sĩ địa phương thì ngạc nhiên: “Hoá ra những bài viết ký nhiều bút
danh mà mình thích lại chính là của hắn. Thế thì hắn đâu có lù khù như mình
nghĩ”.
Hắn thuộc “típ” người cực đoan, sống nội
tâm. Đã tin yêu ai thì hắn sẵn sàng xả thân vì họ. Mà hắn lại ban phát lòng tin
một cách hào phóng. Hắn yêu bạn như yêu bản thân mình. Vì sống nội tâm nên cái
vẻ ngoài của hắn thường đánh lừa người mới gặp. Trông thấy bản mặt hắn người ta
đã mất cảm tình rồi. Thế nhưng tiếp xúc gián tiếp với hắn, người ta cũng rất dễ
lầm. Có lần, một cô giáo trẻ ở tận Long An, sau khi đọc bài viết của hắn trên
tạp chí, liền gọi điện biểu lộ cảm tình với hắn. Cô gọi hắn là em và cứ lục vấn
mãi làm hắn bực mình: “Cô hỏi gì thì hỏi nhanh lên, kẻo tôi về hưu mất”. Cô
giáo hốt hoảng: “Cháu xin lỗi bác. Nghe tiếng bác trẻ trung, cháu cứ ngỡ…”
Đã vào tuổi thất tuần mà hắn vẫn chẳng
làm nên trò rạng gì cho vợ con. Vợ con hắn phải chui rúc trong cái lán ổ chuột
mấy chục năm trời ở cái ngách rộng chưa đầy mét lấn vào hành lang nhà của cơ
quan. Năm 1990, cơ quan phân cho hắn mảnh đất con trên một đầm lầy để đuổi gia
đình hắn khỏi khu vực cơ quan. Anh em, bạn bè giúp hắn vượt lập và dựng được
ngôi nhà khá hơn cái ổ chuột trước đây một chút. Chuyển nhà xong, chưa kịp hoàn
hồn, thì hắn lại bàng hoàng trước thông báo quy hoạch của thành phố: Nhà hắn
nằm trọn trong quy hoạch đường. Thế là suốt hơn hai chục năm trời hắn sống
trong bất an về nhà cửa, bởi cái quy hoạch treo của nhà nước. Nhưng trời chẳng
để ai phải khổ suốt đời. Em gái hắn thương anh cả đời vất vả, bèn cho anh vay
tiền mua nhà. Có tiền rồi mà hắn còn đắn đo mãi không mua. Vợ chồng người em
gái tự quyết định mua cho hắn cái nhà hai tầng, sáu chục mét vuông mặt bằng,
khá tiện nghi. Mãi lúc đó hắn mới hết đắn đo tính toán, sung sướng chuyển về
nhà mới. So với người giàu thì ngôi nhà ấy chả là cái gì, nhưng với hắn thì là
cả một bước nhảy vọt về chất lượng sống.
Ông
trời chẳng cho ai được tất cả, cũng không để ai mất tất cả. Hắn hỏng đường quan
chức, kém về kinh tế, trời bù lại cho hắn ba đứa con đều là cử nhân, thạc sĩ,
có công ăn việc làm tử tế và hai đứa cháu ngoại, bốn cháu nội đẹp như thiên
thần. Niềm vui lớn nhất của hắn hiện giờ là chơi blog và tâm tình với các cháu.
Hắn thường thì thầm tâm sự với đứa cháu gái năm tuổi tất cả vui buồn của mình,
cứ như con bé năm tuổi hiểu được những điều cao siêu hắn nói.
***
Bây giờ thì ngày nào tôi cũng giáp mặt
hắn. Mỗi khi đi qua cái gương cao hai mét, rộng ba gang tay mà vợ tôi mua về
treo lên để trừ tà, hắn lại hiện ra, mắt gườm gườm nhìn tôi, cứ như là trêu
ngươi. Vẫn dáng đi như mũi tên lao về phía trước. Vẫn cái lưng con tôm, đầu cắt
ba phân lô nhô tóc bạc, mặt lưỡi cày, da tai tái, đôi mắt ti hí một mí rưỡi lúc
nào cũng đờ đẫn, hai má hóp, mũi gẫy, cằm nhọn không râu, môi vừa mỏng lại vừa
thâm, mỏ nhọn thập thò hai cái răng cửa hô cải mả… Kể ra hắn đáng thương hơn là
đáng ghét. Nhưng mà tôi vẫn không mấy cảm tình với hắn, bởi chính hắn cũng
không khi nào vừa lòng với bản thân. Cũng phải thôi, hắn xấu xí, không biết uốn
lưng nên phải phấn đấu thật nhiều mới bằng người ta.
TÁC PHẨM ĐẦU TAY
CỦA CHÁU NỘI SÓC HẠNH VÀ CÒ THÀNH
MÓN
QUÀ BẤT NGỜ
Truyện
ngắn Trần Mỹ Hạnh
Hôm nay là
thứ Sáu ngày 23-12. Các bạn lớp 3C của Tũn reo hò đón ông già Nô En đến tặng
quà. Thằng Tũn hồi hộp háo hức chờ đến lượt mình. Khi ông già Nô En đã phát hết
quà, giơ tay chào lớp, thằng Tũn gục đầu xuống bàn, nước mắt tràn mi. (Tũn đâu
có biết quà Nô En là do phụ huynh thuê người đóng vai ông già Nô En mang tặng
cho con cháu mình. Mẹ Tũn lại quá nghèo, không có điều kiện mua quà tặng con
như các gia đình khác).
Nhìn thằng Tũn ủ
rũ ra về, cô giáo chủ nhiệm trào dâng cảm xúc buồn, ân hận như mình có lỗi. Khổ
thân Tũn. Bố chết tai nạn giao thông, mẹ làm công nhân vệ sinh, Tũn chẳng được
sung sướng như bạn bè cùng lớp. Bộ quần áo đồng phục từ năm Tũn học lớp 1, bây
giờ đã cộc cũn cỡn và bạc phếch.
Tối thứ Bảy,
thằng Tũn nhặt rau nấu cơm, chờ mẹ đi làm về muộn. Vừa nhặt rau, Tũn vừa mơ có
bộ đồng phục mới. Biết mẹ nghèo, Tũn chẳng dám đòi. Chợt có tiếng gọi ngoài cửa:
- Em Tũn có nhà
không? Mời em ra nhận quà của ông già Nô En này!
Thằng Tũn không
tin vào tai mình. Nó bỏ rổ rau nhặt dở, đứng lên nghe ngóng. Ông già Nô En bước
vào nhà:
- Mời em
Tũn nhận quà.
Thằng Tũn
run run giơ hai tay đỡ gói quà. Nó vẫn còn bàng hoàng không tin là mình lại được
nhận gói quà to thế.
- Nào, bây
giờ mời Tũn chụp ảnh với ông già Nô En làm kỷ niệm nhé!
Tũn sung
sướng nép sát vào ông già Nô En. Ông già Nô En giơ chiếc điện thoại ra phía trước
chụp liền mấy kiểu.
Ông già Nô En
đi rồi, Tũn vội mở gói quà. Mắt nó sáng lên khi nhìn thấy bộ quần áo đồng phục
mới rất đẹp. Nó ôm chặt bộ đồng phục, miệng thốt lên: “Ôi! Đẹp quá! Cháu cảm ơn
ông già Nô En rất nhiều! Cháu hứa với ông là cháu sẽ chăm ngoan học giỏi...”
Nhận được
tin nhắn của chi nhánh bưu điện “Dịch vụ chuyển phát nhanh đã hoàn tất”, cô
giáo chủ nhiệm vội vàng mở facebook. Khi thấy ảnh Tũn nhận quà của ông già Nô En,
cô xúc động đến cay mắt. Cô tin rằng Nô En năm nay là một Nô En để lại kỷ niệm
đẹp mà Tũn sẽ mang theo trong suốt cuộc đời.
Trần Mỹ Hạnh
Lớp 4A3 Trường tiểu học Chu Văn An – Tp. Nam Định
(Bài đăng Tạp chí
Văn Nhân số 116 ra tháng 11 & 12 năm 2017, trang 45)
CON
VÀNG NHÀ EM
Truyện
ngắn Trần Minh Thành
Năm ngoái, bố
em mua về một con chó cái nhỏ xíu. Em đặt tên cho nó là Vàng. Em yêu nhất là
đôi mắt màu sứ tinh anh giống như đôi mắt con búp bê em thường ôm khi đi ngủ.
Món khoái khẩu của Vàng là xương lợn. Mỗi khi được em quẳng cho một mẩu là Vàng
đón lấy, nhai ngon lành. Ăn xong, nó nằm xuống, vừa ngước mắt nhìn, vừa ư ử như
lời cảm ơn. Mỗi khi đi học về, em hay vuốt ve bộ lông mịn của Vàng, kể cho nó
nghe mọi chuyện ở trường. Nó rúc rúc vào lòng em, mồm gừ gừ ra vẻ rất thích
thú.
Thời gian
qua nhanh. Vàng đã trưởng thành, trông cứ mơn mởn với bộ lông vàng ươm, dày, mượt.
Cái mõm đen đen ươn ướt thường lè cái lưỡi dài đỏ mềm rung rung theo nhịp thở.
Đôi mắt tròn to trông đến ngây thơ. Cái đuôi dài cứ ngoáy tít mỗi khi thấy em về
nhà.
Bác hàng xóm
nhà em mới mang về một chú Đốm lai Tây, to cao rất đẹp mã. Chỉ vài hôm, Vàng và
Đốm làm quen, rồi nhanh chóng quấn quít bên nhau, cứ như là đã quen thân từ lâu
lắm. Nhiều khi em đi học về, nhìn thấy em, Vàng cũng chẳng thèm ngó vì còn mải
chơi đùa với Đốm. Bữa tối, khi em đưa cho mẩu xương, cô ả cúi xuống, ra vẻ hối
lỗi.
Gần tháng nay,
dịch Covid 19 bùng phát. Bố nhốt Vàng trong nhà, không cho ra ngoài, sợ Vàng
tha vi rút Vũ Hán về. Sáng nay, em thấy Đốm cứ lượn đi lượn lại trước cửa nhà
em. Nhìn thấy Đốm, Vàng liền phóng ra cửa, nhưng không chui lọt qua cánh cửa xếp.
Cả hai cùng tru lên vừa vui mừng vừa ai oán. Bố đang soạn bài trên máy tính, bực
mình liền xích cổ Vàng vào góc nhà và dùng gậy xua Đốm đi nơi khác. Một lát
sau, Đốm vòng trở lại, gọi Vàng:
- Gâu!
Gâu! Vàng ơi! Vàng ơi! Ra đây chơi với tớ!
Vàng liền
nhảy dựng lên kéo căng dây xích, đáp lại:
- Gâu gâu!
Đốm ơi! Tớ cũng nhớ cậu lắm. Nhưng tớ bị cầm tù rồi!
Bố bước đến,
lấy chiếc dép quật vào mông Vàng thật mạnh:
- Muốn tao
cho ăn riềng mẻ hả?
Vàng sợ
hãi nằm bẹp xuống nền nhà, kêu lên đau đớn:
- Oẳng… ẳng…
u ú… Tôi vô tội, sao ông lại đánh tôi…
Đốm ở ngoài cửa gào lên:
- Gâu!
Gâu! Phản đối bắt giam, đánh đập người vô tội.
Bố cầm gậy, bước
ra. Đốm cong đuôi chạy đi. Một lát sau, nó mon men quay lại, đi tới đi lui với
tiếng rên ư ử như van nài. Thấy thế, Vàng liền giật đứt dây xích, phóng ra cửa.
Bố đổi chiến thuật, ném cho Vàng mẩu xương lợn. Vàng khịt khịt, ngửi ngửi rồi
nhìn bố với ánh mắt kiêu hãnh:
- Gâu! Gâu! Tôi không cần mẩu
xương của ông! Tôi cần được tự do.
Đốm ngoài cửa cũng hét lên ủng hộ Vàng:
- Gâu! Gâu! Chúng tôi cần tự do.
Vàng bước đến, dũi dũi mõm vào chân em, ư ử như cầu cứu:
- Gầu gầu… Bạn Bông Thùy ơi! Giúp chúng tôi với!
Em thương Vàng
quá, bảo bố:
- Bố ơi! Con Vàng nhớ bạn nó quá đấy mà.
Vừa nói, em vừa kéo cánh cửa xếp
cho Vàng chui qua. Vàng quấn quýt, cọ cọ người vào Đốm. Đốm dụi dụi mõm vào
bông hoa đến kỳ nở rộ của Vàng mà hít hít, rồi bỗng chạy vọt đi, vừa chạy vừa
quay nhìn Vàng:
- Gàu gàu… Đi thôi! Vàng ơi!
Vàng nhìn em với ánh mắt biết ơn:
- Gầu gầu… Cảm
ơn bạn Bông Thùy! Cảm ơn bạn Bông Thùy nhé!
Rồi nó vọt đi
theo Đốm. Cả hai con lao nhanh trên con đường đầy nắng.
Trần Minh Thành
Lớp 6A3 Trường THCS Trần Đăng Ninh, tp. Nam Định
(Bài đăng Tạp chí Văn Nhân số
131 ra tháng 5 & 6 năm 2020, trang 31)
LÝ
LỊCH NGHỆ THUẬT
TRẦN MỸ GIỐNG
Sinh ngày 15 – 1- 1950
Quê: Xuân Trung, Xuân Trường, Nam Định.
Trú: 13/398 Trường Chinh, tp. Nam Định.
Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định.
Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt
Nam – Nam Định.
1968 – 1971 học Đại học Thư viện.
9-1971 nhập ngũ chiến đấu bảo vệ Quảng Trị (1972 –
1973) trong đội hình e101, f325.
3/1973 – 5/1974 học Sĩ quan Lục quân Việt Nam khóa 35.
6/1974 – 12/1980 là Trợ lý Ban tuyên huấn F338, chống
Tàu tại Đình Lập, Lạng Sơn.
1981 – 1982 chuyển ngành về Trường Cao đẳng Văn hóa học
tiếp Đại học Thư viện.
1983 – 2010 công tác tại Thư viện tỉnh Nam Định và nghỉ
hưu.
THÀNH TÍCH:
- Huân chương chiến công giải phóng hạng Ba
- Huân chương chiến sĩ vẻ vang hạng Ba
- Huy chương vì sự nghiệp Văn hóa
- Kỷ niệm chương vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt
Nam
- Kỷ niệm chương Cựu chiến binh
- Chứng nhận dũng sĩ Quyết thắng cấp Hai.
- Huy hiệu 30, 40, 45 năm tuổi Đảng.
GIẢI THƯỞNG:
- Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Lương Thế Vinh (cho tập
nghiên cứu “Các nhà khoa bảng Nam Định”).
- Giải khuyến khích cuộc thi Giữ vững phẩm chất anh bộ
đội cụ Hồ…
TÁC PHẨM ĐÃ XUẤT BẢN:
- Các nhà khoa bảng Nam Định (Hội Văn học Nghệ thuật
Nam Định, 2009)
- Các nhà khoa bảng Nam Định (Nxb. Quân đội nhân dân,
2017)
- Các tác gia Hán Nôm Nam Định (Hội Văn học nghệ thuật
Nam Định, 2008).
- Thư mục nhân vật Nam Định (Thư viện tỉnh Nam Định,
2010).
- Thời áo lính: Hồi ký (Nxb. Quân
đội nhân dân, 2018)
- Thời áo lính: Hồi ký (Nxb. Quân đội nhân dân, in lần
2 năm 2019)
- Truyện nhặt : Tản văn. – Nxb. Hội Nhà văn, 2021.
Đồng tác giả trên hai chục đầu sách khác.
MỤC
LỤC
Bổ sung: - Giải thưởng VHNT Lương Thế Vinh cho tập hồi ký Thời áo lính (Nxb. Quân đội nhân dân, 2018. - Tái bản 2019)
Trả lờiXóa