TS Nguyễn Ngọc Kiên |
Tiểu
sử: Lý Bạch (chữ
Hán: 李白;
701- 762), biểu tự Thái Bạch (太白), hiệu Thanh Liên cư sĩ (青莲居士), là một trong những
nhà thơ theo chủ nghĩa lãng mạn danh tiếng nhất thời Thịnh Đường nói riêng và Trung Hoa nói chung.
Suốt
cuộc đời của mình, ông được tán dương là một thiên
tài về thi ca, người đã mở ra một giai đoạn hưng thịnh của thơ Đường. Ông
cùng người bạn Đỗ
Phủ trở thành hai biểu tượng thi văn lỗi lạc không chỉ trong phạm vi nhà Đường,
mà còn trong toàn bộ lịch sử Trung Hoa, thậm chí toàn bộ khu vực Đông Á đồng
văn. Do sự lỗi lạc của mình, ông được hậu bối tôn làm Thi Tiên (詩仙) hay Thi Hiệp
(詩俠). Giới thi nhân bấy
giờ thì rất kính nể tài uống rượu làm thơ bẩm sinh, nên gọi Lý Bạch là Tửu
Tiên (酒仙)
hay Trích Tiên Nhân (谪仙人). Hạ Tri Chương gọi ông là Thiên Thượng Trích Tiên
(天上謫仙).
Ông
đã viết cả ngàn bài thơ bất hủ. Hơn ngàn bài thơ của ông được tổng hợp lại
trong tập Hà Nhạc Anh Linh tập (河岳英靈集), một tuyển tập thơ rất đồ sợ thời Vãn Đường do Ân Phan (殷璠) chủ biên vào năm 753, và hơn 43 bài của
ông được ghi trong Đường Thi Tam Bách Thủ
(唐诗三百首) được biên bởi Tôn Thù (孫洙), một học giả thời nhà Thanh.
Vào thời đại của ông, thơ của ông đã xuất hiện các bản dịch tại phương Tây, chủ
đề của ông nhấn mạnh tán dương mối quan hệ bạn bè, sự thần bí của thiên nhiên,
tâm trạng tĩnh mịch và thú vui uống rượu rất đặc trưng của ông.
Cuộc đời của ông đi vào truyền
thuyết, với phong cách yêu rượu hiếm có, những truyện ngụ ngôn và truyền thuyết về tinh thần trượng
nghĩa, cũng như điển tích nổi tiếng về việc ông đã chết đuối khi nhảy khỏi thuyền
để bắt cái bóng phản chiếu của mặt trăng.
Đường Văn Tông ngự phong tán dương thi ca của Lý Bạch,
kiếm vũ của Bùi Mân, thảo
thư của Trương Húc, gọi là Tam Tuyệt (三絕).
(Theo từ điển Wikipedia mở tiếng Việt)
Phiên âm:
Quan
san nguyệt
Minh nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán há Bạch Đăng đạo,
Hồ khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán há Bạch Đăng đạo,
Hồ khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.
Dịch
nghĩa :
TRĂNG QUAN SAN
Trăng sáng mọc trên núi Thiên
San
Trong cảnh mênh mông giữa mây và biển
Gió bay mấy ngàn dặm về
Thổi đến cửa ải Ngọc Môn
Nhà Hán đồn binh ở lộ Bạch Đăng
Rợ Hồ ngấp nghé ở vũng Thanh Hải
Xưa nay vẫn là bãi chiến trường
Không thấy có ai được trở về
Người lính thú nhìn đăm đăm cảnh sắc xa xa
Lòng nhớ nhà gương mặt lộ vẻ buồn khổ
Đêm nay có ai đang ngồi trên lầu cao
Hẳn phải than thở mà không dám nhàn nhã
Trong cảnh mênh mông giữa mây và biển
Gió bay mấy ngàn dặm về
Thổi đến cửa ải Ngọc Môn
Nhà Hán đồn binh ở lộ Bạch Đăng
Rợ Hồ ngấp nghé ở vũng Thanh Hải
Xưa nay vẫn là bãi chiến trường
Không thấy có ai được trở về
Người lính thú nhìn đăm đăm cảnh sắc xa xa
Lòng nhớ nhà gương mặt lộ vẻ buồn khổ
Đêm nay có ai đang ngồi trên lầu cao
Hẳn phải than thở mà không dám nhàn nhã
Dịch thơ:
TRĂNG QUAN SAN
Đỉnh Thiên Sơn trăng sáng soi
Chiếu mênh mông giữa biển trời,
nước mây.
Mấy ngàn dặm gió thổi bay,
Thổi tận đến cửa ải này Ngọc
Môn.
Bạch Đăng quân Hán đóng đồn
Vùng Thanh Hải ngấp nghé luôn
Rợ Hồ.
Đây bãi chiến địa từ xưa
Người đi chinh chiến sao chưa
thấy về?
Lính thú nhìn cảnh sắc kia
Rầu rầu khuôn mặt nhớ về quê
hương.
Đêm nay trong nỗi đoạn trường
Lầu cao, than thở mà không
dám nhàn.
Tóm
tắt tiểu sử: Thôi Đồ 崔塗 (854-?) tự Lễ Sơn 禮山, người nay thuộc Phú Xuân, Chiết Giang, không rõ năm
sinh và năm mất. Ông đỗ tiến sĩ vào năm Quang Khởi thứ 4 đời Đường Hy Tông. Cuối
đời phiêu bạc, từng chu du khắp dải Tứ Xuyên và Thiểm Tây. Thơ đa phần lấy đề
tài sinh hoạt phiêu bạc, thơ 1 quyển.
(Theo
từ điển Wikipedia mở tiếng Việt)
Phiên âm:
CÔ
NHẠN - THÔI ĐỒ
Kỷ hàng quy tái tận,
Niệm nhĩ độc hà chi ?
Mộ vũ tương hô thất,
Hàn đường dục hạ trì.
Chử vân đê ám độ,
Quan nguyệt lãnh tương tuỳ.
Vị tất phùng tăng chước,
Cô phi tự khả nghi.
Niệm nhĩ độc hà chi ?
Mộ vũ tương hô thất,
Hàn đường dục hạ trì.
Chử vân đê ám độ,
Quan nguyệt lãnh tương tuỳ.
Vị tất phùng tăng chước,
Cô phi tự khả nghi.
Dịch
nghĩa:
NHẠN
LẺ
Mấy hàng nhạn bay về tận cửa ải
Cứ nghĩ mày sao chỉ có một mình
Cơn mưa chiều, gọi nhau không được
Ao lạnh muốn xuống cũng chậm thôi
Bến mây thấp chẳng qua nổi
Trăng lạnh cửa ải còn rõi theo
Chưa hẳn đã gặp tên bắn theo
Cứ nghĩ mày sao chỉ có một mình
Cơn mưa chiều, gọi nhau không được
Ao lạnh muốn xuống cũng chậm thôi
Bến mây thấp chẳng qua nổi
Trăng lạnh cửa ải còn rõi theo
Chưa hẳn đã gặp tên bắn theo
Một mình bay mà luôn ngờ vực
Dịch thơ:
NHẠN LẺ
Đàn nhạn bay về ải này
Cứ nghĩ, sao chỉ mày bay một
mình
Cơn mưa chiều gọi lặng thinh
Ao lạnh muốn xuống cũng dành
chậm thôi!
Bến mây thấp, chẳng qua rồi
Trăng lạnh cửa ải vẫn còn rõi
theo
Chưa hẳn gặp tên bay vèo
Một mình giang cánh, nghi
theo phận mình.
Tóm
tắt tiểu sử: Vương Xương Linh là người
Kinh Triệu, Trường An (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây,
Trung Quốc).
Năm
Khai Nguyên thứ 15 (727)
đời Đường Huyền Tông (ở ngôi: 712-756), ông thi đỗ Tiến sĩ.
Bảy
năm sau (734),
ông lại đỗ khoa Bác học hoành từ, lần lượt trải chức: Bí thư sảnh, Hiệu thư
lang, huyện úy huyện Dĩ Thủy.
Năm Khai Nguyên thứ 28 (740), vì phạm lỗi ông bị
giáng làm Giang Ninh thừa. Rồi vì những vụn vặt, ông lại giáng làm Long Tiêu
úy.
Cuối năm 755, tướng An Lộc Sơn
dấy binh chống triều đình. Sau đó, Vương Xương Linh trở
về làng thì bị viên Thứ sử ở địa phương tên là Lư Khưu Hiển giết chết vì tư
thù khoảng năm 756.
Số thơ của Vương Xương Linh để
lại hiện còn hơn 180 bài, một nửa là tuyệt cú.
Ngoài
ra, theo thiên "Nghệ văn chí" trong Tân Đường thư (Sử nhà Đường bộ mới), thì ông còn viết sách lý luận
có nhan đề là Thi cách (Khuôn phép của thơ, gồm 2 quyển) và Thi
trung mật chỉ (Ý sâu kín của thơ, gồm 1 quyển); nhưng nay chỉ còn
quyển Thi cách do người đời Minh
chép, nhưng có người nghi là sách giả, không phải nguyên bản.
(Theo từ điển Wikipedia mở tiếng Việt)
Phiên âm:
XUẤT
TÁI KÌ 1 - VƯƠNG XƯƠNG LINH
Tần thời minh nguyệt Hán thời
quan,
Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn.
Đãn sử Long Thành phi tướng tại,
Bất giao Hồ mã độ Âm san.
Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn.
Đãn sử Long Thành phi tướng tại,
Bất giao Hồ mã độ Âm san.
Dịch
nghĩa:
RA CỬA ẢI (Kì 1)
Vẫn là vầng trăng sáng của đời
Tần và quan ải của đời Hán,
Mà người chinh chiến nơi nghìn dặm vẫn chưa trở về.
Nếu như có vị phi tướng ở tại Long Thành,
Thì sẽ không cho ngựa Hồ vượt qua núi Âm sơn.
Mà người chinh chiến nơi nghìn dặm vẫn chưa trở về.
Nếu như có vị phi tướng ở tại Long Thành,
Thì sẽ không cho ngựa Hồ vượt qua núi Âm sơn.
Dịch thơ:
RA CỬA ẢI (Kì1)
Trăng sáng đời Tần, ải Hán xa
Muôn dặm trường chinh chửa lại
nhà
Phi tướng ở Long Thành còn sống,
Âm Sơn ngựa Hồ chẳng thể qua!
Âm Sơn ngựa Hồ chẳng thể qua!
Nguyễn Ngọc Kiên
Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Kiên vừa gửi đính chính, tôi lên ở Commants để kịp thời và hệ thống:
Trả lờiXóaỞ bài Cô Nhạn do tôi soát không kĩ nên có một câu thất vận. Nay tôi xin sửa lại và phiền các anh chữa lại giúp nếu đã lên trang. Bài sửa như sau:
Dịch thơ:
NHẠN LẺ
Đàn nhạn bay về ải này
Cứ nghĩ, sao chỉ mày bay một mình
Cơn mưa chiều gọi lặng thinh
Ao lạnh muốn xuống cũng dành chậm thôi!
Bến mây thấp, chẳng qua rồi
Trăng lạnh cửa ải vẫn đòi dõi theo
Chưa hẳn gặp tên bay vèo
Một mình giang cánh, nghi theo phận mình.