Số
này chúng tôi tiếp tục giới thiệu một số bài TÁI THƯỢNG KHÚC và TÁI HẠ KHÚC của
các tác giả Nhung Dục, Chu Phac, Lí Bạch, Đới Thúc Luân, Trương Trọng Tố…
NHUNG
DỤC (TRUNG ĐƯỜNG)
Nhung
Dục 戎昱
(Trung Đường) người Kinh Nam
(nay thuộc Giang Lăng, Hồ Bắc, Trung Quốc), đỗ tiến sĩ. Khi Vệ Bá Ngọc giữ Kinh
Nam,
ông làm tòng sự. Năm Kiến Trung, ông làm thứ sử Thần, Kiền Châu. Thơ có 5 quyển,
biên thành 1 quyển trong "Toàn Đường thi".
(Theo thivien.net)
Phiên
âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC - NHUNG DỤC
Hồ phong lược địa thiêu Liên
Sơn,
Toái Diệp cô thành vị hạ quan.
Sơn đầu phong tử thanh thanh khiếu,
Tri thị tướng quân dạ liệp hoàn.
Toái Diệp cô thành vị hạ quan.
Sơn đầu phong tử thanh thanh khiếu,
Tri thị tướng quân dạ liệp hoàn.
Dịch
nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI –
NHUNG DỤC
Gió Hồ thổi vào đài phong hoả
ở Liên Sơn
Thành Toái Diệp trơ vơ cửa chưa đóng
Tiếng ngọn lửa ở đài phong hoả đầu núi đang reo phần phật
Biết rằng đó là lúc tướng quân đi săn về
Thành Toái Diệp trơ vơ cửa chưa đóng
Tiếng ngọn lửa ở đài phong hoả đầu núi đang reo phần phật
Biết rằng đó là lúc tướng quân đi săn về
Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI –
NHUNG DỤC
Gió Hồ thổi Liên Sơn phong
đài
Toái Diệp thành trơ cửa chẳng
cài
Phần phật lửa reo nơi đầu núi
Đi săn tướng đã về đấy thôi.
CHU
PHÁC (VÃN ĐƯỜNG)
Chu
Phác 周樸
(?-878) tự Kiến Tố 見素 (có nơi nói Thái Phác 太樸), người Ngô Hưng. Theo "Đường tài tử truyện",
ông năm sinh không rõ, mất vào năm Càn Phù thứ 5 đời Đường Hy Tông (878). Ông
chú trọng làm thơ, ẩn cư ở núi Tung Sơn, thường qua lại cùng với bạn thơ là sư
Quán Hưu 貫休,
không đoái hoài công danh. Sau ông lánh nạn tới Phúc Châu, ăn nhờ ở chùa núi Ô
Thạch. Hoàng Sào chiếm đất Mân, muốn dùng ông. Ông trả lời: "Tôi là xử sĩ,
không có con trai, có thể yên tâm theo giặc?", Sào sai giết đi.
Thơ ông cực điêu trác, thời đó được gọi là "Nguyệt đoán niên liên" 月煅年鏈 (Tháng nung năm nấu), không được biên thành tập, chỉ truyền miệng. Sau khi ông mất, thơ của ông được sưu tầm trên trăm bài, biên thành 2 quyển truyền trên đời.
Thơ ông cực điêu trác, thời đó được gọi là "Nguyệt đoán niên liên" 月煅年鏈 (Tháng nung năm nấu), không được biên thành tập, chỉ truyền miệng. Sau khi ông mất, thơ của ông được sưu tầm trên trăm bài, biên thành 2 quyển truyền trên đời.
(Theo thivien.net)
塞上曲 - 周朴
一陣風來一陣沙
有人行處沒人家
黃河九曲冰先合
紫塞三春不見花
Phiên âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC – CHU PHÁC
Nhất trận phong lai nhất trận sa
Hữu nhân hành xứ, một nhân gia
Hoàng hà cửu khúc băng tiên hợp
Tử tái tam xuân bất kiến hoa
Chú thích: 1/ Hoàng hà cửu khúc, quan ải đóng trên thượng nguồn sông Hoàng hà, khi đó mới là chín con suối nhỏ. 2/ tử tái, quan ải đời Tần khởi xây bằng gạch màu tía, đời Đường vẫn giữ như vậy.
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI – CHU PHÁC
Mỗi trận gió tới là một trận bão cát.
Chỉ có người tới [bổ sung quân số] quan ải chứ không có người được về nhà,
Chín khúc suối [thượng nguồn] sông Hoàng hà đã đóng băng,
Đã ba năm nay ở quan ải màu tía này chưa có hoa nở.
TÁI THƯỢNG KHÚC – CHU PHÁC
Nhất trận phong lai nhất trận sa
Hữu nhân hành xứ, một nhân gia
Hoàng hà cửu khúc băng tiên hợp
Tử tái tam xuân bất kiến hoa
Chú thích: 1/ Hoàng hà cửu khúc, quan ải đóng trên thượng nguồn sông Hoàng hà, khi đó mới là chín con suối nhỏ. 2/ tử tái, quan ải đời Tần khởi xây bằng gạch màu tía, đời Đường vẫn giữ như vậy.
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI – CHU PHÁC
Mỗi trận gió tới là một trận bão cát.
Chỉ có người tới [bổ sung quân số] quan ải chứ không có người được về nhà,
Chín khúc suối [thượng nguồn] sông Hoàng hà đã đóng băng,
Đã ba năm nay ở quan ải màu tía này chưa có hoa nở.
Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI – CHU
PHÁC
Bão cát cùng mỗi trận phong ba
Bão cát cùng mỗi trận phong ba
Người đi quan ải, chẳng về
nhà
Hoàng hà chín khúc băng đông đặc
Ải tía ba năm chẳng nở hoa.
Phiên
âm:
TÁI HẠ KHÚC – CHU
PHÁC
Thạch quốc Hồ nhi hướng thích
đông,
Ái xuy hoành địch dẫn thu phong.
Dạ lai vân vũ giai phi tận,
Nguyệt chiếu bình sa vạn lý không.
Ái xuy hoành địch dẫn thu phong.
Dạ lai vân vũ giai phi tận,
Nguyệt chiếu bình sa vạn lý không.
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI
Trai Hồ Thạch quốc hướng sang
đông
Thổi sáo dẫn theo ngọn gió thu
Đêm đến mây mưa bay đi hết
Trăng soi sa mạc vạn dặm quạnh không.
Thổi sáo dẫn theo ngọn gió thu
Đêm đến mây mưa bay đi hết
Trăng soi sa mạc vạn dặm quạnh không.
Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI
Trai Hồ Thạch quốc hướng sang
đông
Thổi sáo gió thu dẫn theo cùng
Đêm đến mây mưa đều bay hết
Trăng soi sa mạc vạn dặm không
Thổi sáo gió thu dẫn theo cùng
Đêm đến mây mưa đều bay hết
Trăng soi sa mạc vạn dặm không
Phiên âm:
TÁI THƯỢNG KHÚC KÌ I – LÍ BẠCH
Đại Hán vô trung sách,
Hung Nô phạm Vị Kiều.
Ngũ Nguyên thu thảo lục,
Hồ mã nhất hà kiêu.
Hung Nô phạm Vị Kiều.
Ngũ Nguyên thu thảo lục,
Hồ mã nhất hà kiêu.
Dịch
nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I) – LÍ BẠCH
Nhà Đại Hán mưu chước không
giỏi
Quân Hung Nô phạm đến Vị Kiều
Gò Ngũ Nguyên cỏ thu xanh
Ngựa rợ Hồ sao hung hăng quá thế.
Quân Hung Nô phạm đến Vị Kiều
Gò Ngũ Nguyên cỏ thu xanh
Ngựa rợ Hồ sao hung hăng quá thế.
Dịch
nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I)
Đại Hán không mưu lược
Hung Nô chiếm Vị Kiều
Ngũ Nguyên cỏ thu biếc
Ngựa Hồ sao quá kiêu!
ĐỚI THÚC LUÂN (TRUNG ĐƯỜNG)
Đới
Thúc Luân 戴叔倫
(732-789) tên chữ là Ấn Công 幼公, người Giang Tô, làm quan đến Phủ Châu thứ sử.
(Theo
thivien.net)
寒上曲 二首其一 - 戴叔倫
漢家旌幟滿陰山
不遣胡兒匹馬還
愿得此身長報國
何須生入玉門關
TÁI THƯỢNG KHÚC KÌ I – ĐỚI THÚC LUÂN
Hán gia tinh xí mãn Âm sơn
Bất khiển Hồ nhi thất mã hoàn
Nguyện đắc thử thân trường báo quốc
Hà tu sinh nhập Ngọc Môn quan
Chú thích: 1/ Âm sơn, tên núi, nay ở trung bộ Nội Mông. 2/ Ngọc Môn quan, tên cửa ải trọng yếu trên đường buôn bán tơ lụa sang các nước phía tây nước Tàu, cố chỉ nay tại xã Sa châu, huyện Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc. 2/ Hán, thi nhân đời Đường muốn viết về Đường, thường phải nói tránh sang Hán để được yên thân.
Dịch nghĩa:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I) – ĐỚI THÚC LUÂN
Bài 1/2
Cờ xí nhà Hán cắm đầy trên núi Âm,
khiến không một con ngựa nào của người Hồ dám trở lại.
Nếu nguyện đem thân báo đền tổ quốc lâu dài,
thì [nơi đâu chẳng được] đâu cần cứ phải tới Ngọc Môn quan !
漢家旌幟滿陰山
不遣胡兒匹馬還
愿得此身長報國
何須生入玉門關
TÁI THƯỢNG KHÚC KÌ I – ĐỚI THÚC LUÂN
Hán gia tinh xí mãn Âm sơn
Bất khiển Hồ nhi thất mã hoàn
Nguyện đắc thử thân trường báo quốc
Hà tu sinh nhập Ngọc Môn quan
Chú thích: 1/ Âm sơn, tên núi, nay ở trung bộ Nội Mông. 2/ Ngọc Môn quan, tên cửa ải trọng yếu trên đường buôn bán tơ lụa sang các nước phía tây nước Tàu, cố chỉ nay tại xã Sa châu, huyện Đôn Hoàng tỉnh Cam Túc. 2/ Hán, thi nhân đời Đường muốn viết về Đường, thường phải nói tránh sang Hán để được yên thân.
Dịch nghĩa:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I) – ĐỚI THÚC LUÂN
Bài 1/2
Cờ xí nhà Hán cắm đầy trên núi Âm,
khiến không một con ngựa nào của người Hồ dám trở lại.
Nếu nguyện đem thân báo đền tổ quốc lâu dài,
thì [nơi đâu chẳng được] đâu cần cứ phải tới Ngọc Môn quan !
Dịch
thơ:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I)
Nhà Hán
cờ xí rợp Âm Sơn
Ngựa Hồ
muốn lại sợ hết hồn
Nếu thề
đem thân mà báo quốc
Đâu cần
phải tới ải Ngọc Môn!
TRƯƠNG TRỌNG TỐ (TRUNG ĐƯỜNG)
Trương
Trọng Tố 張仲素
tự Hội Chi 繪之,
người Hà Gian 河間,
giữc hứcHàn lâm học sĩ đời Đường Hiến Tông.
(Theo thivien.net)
(Theo thivien.net)
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 1 – TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Tam thú Ngư Dương tái độ
Liêu,
Tinh cung tại tí kiếm hoành yêu.
Hung Nô tự nhược tri danh tính,
Hưu bạng Âm Sơn cánh xạ điêu.
Tinh cung tại tí kiếm hoành yêu.
Hung Nô tự nhược tri danh tính,
Hưu bạng Âm Sơn cánh xạ điêu.
Dịch
nghĩa:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I) – TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Ba lần đi trấn Ngư Dương, lại
theo dòng sông Liêu mà đến,
Cưỡi ngựa lông đỏ, lưng đeo cung, ngang hông đeo kiếm đi tuần.
Giặc Hung Nô có lẽ đã nghe danh tiếng,
Nên chỉ nghỉ ngơi bên mạn bắc núi mà bắn chim điêu chơi.
Cưỡi ngựa lông đỏ, lưng đeo cung, ngang hông đeo kiếm đi tuần.
Giặc Hung Nô có lẽ đã nghe danh tiếng,
Nên chỉ nghỉ ngơi bên mạn bắc núi mà bắn chim điêu chơi.
Dịch thơ:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN ẢI (KÌ I)
Tam trấn Ngư Dương xuôi dòng
Liêu
Cưỡi ngựa hồng, cung kiếm mang theo
Hung Nô dường đã nghe danh tiếng
Nghỉ mạn bắc núi bắn chim
điêu.
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ
2 – TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Liệp mã thiên hàng nhạn kỷ
song,
Yên Nhiên sơn hạ bích du tràng.
Truyền thanh Mạc Bắc Thiền Vu phá,
Hoả chiếu tinh kỳ dạ Thụ Hàng.
Yên Nhiên sơn hạ bích du tràng.
Truyền thanh Mạc Bắc Thiền Vu phá,
Hoả chiếu tinh kỳ dạ Thụ Hàng.
Dịch
nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 3) - TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Ngựa chiến vạn bầy nhạn
có mấy hàng
Yên viên lưu chuyển bích du
đây
Tin truyền Mạc Bắc Thiền Vu
phá
Cờ xí chiếu sáng rực ban đêm ở
Thụ Hàng.
Dịch
thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 3) - TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Nhạn mấy đôi ngựa chiến vạn bầy
Yên viên lưu chuyển bích du
đây
Tin truyền Mạc Bắc Thiền Vu
phá
Cờ xí rực đêm Thụ Hàng này.
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 3 – TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Sóc tuyết phiêu phiêu khai Nhạn
Môn,
Bình sa lịch loạn quyển bồng căn.
Công danh sỉ hử cầm sinh sổ,
Trực trảm Lâu Lan báo quốc ân.
Bình sa lịch loạn quyển bồng căn.
Công danh sỉ hử cầm sinh sổ,
Trực trảm Lâu Lan báo quốc ân.
Dịch
thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 3) - TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Tuyết phương bắc rơi xuống ải
Nhạn Môn tới tấp,
Cát trên đất bằng bay loạn xạ, cuốn phăng cả gốc cỏ bồng.
Nghĩ tới công danh mà xấu hổ vì bắt nhiều tù binh quá,
Từ nay sẽ chém thật nhiều giăc Lâu Lan để báo đền ơn nước.
Cát trên đất bằng bay loạn xạ, cuốn phăng cả gốc cỏ bồng.
Nghĩ tới công danh mà xấu hổ vì bắt nhiều tù binh quá,
Từ nay sẽ chém thật nhiều giăc Lâu Lan để báo đền ơn nước.
Dịch
nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 3)- TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Tuyết bắc rơi dày ải Ngọc Môn
Cát bay loạn xạ cuốn cỏ bồng
Công danh thẹn bắt nhiều binh
tướng
Chém hết Lâu Lan để lập công
TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Lũng thuỷ sàn viên Lũng thụ
thu,
Chinh nhân đáo thử lệ song lưu.
Hương quan vạn lý vô nhân kiến,
Tây thú Hà nguyên tảo vãn hưu.
Chinh nhân đáo thử lệ song lưu.
Hương quan vạn lý vô nhân kiến,
Tây thú Hà nguyên tảo vãn hưu.
Dịch
nghĩa:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 4)- TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Ở đất Lũng này, sông chảy lừ
đừ, cây cối đã vào thu,
Lính xa nhà ai đến đây cũng buồn rơi hai hàng lệ.
Quê hương xa vạn dặm không cách gì thấy được,
Trấn thủ phương tây đầy kênh rạch này không biết đến bao giờ!
Lính xa nhà ai đến đây cũng buồn rơi hai hàng lệ.
Quê hương xa vạn dặm không cách gì thấy được,
Trấn thủ phương tây đầy kênh rạch này không biết đến bao giờ!
Dịch thơ:
KHÚC HÁT NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 4)- TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Đất Lũng sông chậm cây đã thu
Xa nhà lính chiến mắt lệ mờ
Quê hương vạn dặm bao xa cách
Trấn thủ phương Tây đến bao
giờ.
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 5 – TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Âm thích mang mang tái thảo
phì,
Kết cao phong thượng mộ vân phi.
Giao hà bắc vọng thiên liên hải,
Tô Vũ tằng tương khí tiết quy.
Kết cao phong thượng mộ vân phi.
Giao hà bắc vọng thiên liên hải,
Tô Vũ tằng tương khí tiết quy.
Dịch nghĩa:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN TÁI (KÌ 5) – TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Đất thảo nguyên mênh
mông cỏ béo
Ngọn hoả phong gọi réo mây chiều
Sông Giao, vọng bắc trời liền với biển
Tô Vũ đã từng mang khí tiết về.
Ngọn hoả phong gọi réo mây chiều
Sông Giao, vọng bắc trời liền với biển
Tô Vũ đã từng mang khí tiết về.
Dịch thơ:
KHÚC CA NGOÀI BIÊN TÁI – TRƯƠNG TRỌNG TỐ
Bát ngát thảo nguyên cỏ béo
phì
Hỏa phong réo gọi mây chiều
đi
Sông Giao vọng bắc trời liền
biển
Tô Vũ từng mang khí tiết về.
Nguyễn Ngọc Kiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét