TS Nguyễn Ngọc Kiên |
Số
trước chúng tôi đã giới thiệu một số bài TÁI THƯỢNG KHÚC và TÁI HẠ KHÚC (KHÚC
HÁT NƠI BIÊN TÁI) của Lí Bạch, Vương Xương Linh. Số này chúng tôi tiếp tục giới
thiệu chùm bốn bài TÁI HẠ KHÚC của Lư
Luân (Trung Đường).
Lư Luân 盧綸 (748-800) tự Doãn Ngôn 允言, người Hà Trung (nay là tỉnh Sơn Tây). Trong thời Đại
Lịch, đời Đường Đại Tông, thi nhiều lần không đậu, sau có người tiến cử ra làm
quan chức uý tại Văn Khanh, lần lần thăng đến chức Hộ bộ lang trung, giám sát
ngự sử. Tham gia quân đội nhiều năm, thơ ông phóng khoáng, quan tâm nhiều đến đời
sống nhân dân.
Lư Luân là một trong mười tài tử thời Đại Lịch (chín người kia là Cát Trung Phu, Hàn Hoành, Tiền Khởi, Tư Không Thự, Miêu Phát, Thôi Động, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm, Lư Đoan).
Lư Luân là một trong mười tài tử thời Đại Lịch (chín người kia là Cát Trung Phu, Hàn Hoành, Tiền Khởi, Tư Không Thự, Miêu Phát, Thôi Động, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm, Lư Đoan).
塞 下 曲 四 首 之 一 - 盧 綸
鷲 翎 金 僕 姑
燕 尾 繡 蝥 弧
獨 立 揚 新 令
千 營 共 一 呼
TÁI HẠ KHÚC (BỐN BÀI KÌ I)– LƯ LUÂN
Thứu
linh kim bộc cô
Yến
vĩ tú miêu hồ
Độc
lập dương tân lệnh
Thiên
doanh cộng nhất hô
Dịch nghĩa :
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN
Đầu tiên là phát lệnh, kế tiếp
là lập công, kế nữa là thoái địch, cuối cùng là ca khúc khải hoàn.
Mủi tên làm bằng lông con chim thứu
Cây
cờ thêu bằng đuôi con yến
Đứng
oai nghi lẫm lẫm ra hiệu lệnh
Ngàn
doanh trại cùng dạ rân
Dịch thơ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN
Tên
Kim Bộc lông thứu
Cờ
đuôi én rõ ràng
Một
mình truyền lệnh mới
Nghìn
trại cùng hô vang
塞 下 曲 四 首 之 二 - 盧 綸
林 暗 草 驚 風
將 軍 夜 引 弓
平 明 尋 白 羽
沒 在 石 稜 中
TÁI HẠ KHÚC KÌ 2 – LƯ LUÂN
Lâm
ám thảo kinh phong
Tướng
quân dạ dẫn cung
Bình
minh tầm bạch vũ
Một
tại thạch lăng trung
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN
Trong
rừng u ám cỏ lay động theo chiều gió
Tướng
quân đêm tối dương cung bắn ra
Bình
minh đi tìm dấu tên lạc
Tên
ngập sâu vào góc đá tới tận chuôi
Dịch THƠ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN
Rừng
xám gió lay cỏ hải hùng
Tướng
quân đêm tối vội giương cung .
Bình
minh tìm dấu tên bay lạc
Ngập
tới tận chuôi đá lạnh lùng
塞 下 曲 四 首 之 三 - 盧 綸
月 黑 雁 飛 高
單 于 夜 遁 逃
欲 將 輕 騎 逐
大 雪 滿 弓 刀
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 3 – LƯ LUÂN
Nguyệt
hắc nhạn phi cao
Thiền
vu dạ thuẫn đào
Dục
tướng khinh kỵ trục
Đại
tuyết mãn cung đao
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN
Trăng
lờ mờ nhạn bay trên cao
Vua
Hung nô ban đêm phải bỏ chạy trốn
(Tướng
quân) muốn cưỡi khoái mã rượt theo
(Mà) cơn bão tuyết xuống rớt đầy cả cung
đao
Dịch thơ :
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN
Trăng
mờ nhạn lượn tít trên cao
Vua
Hung Nô đêm trốn vượt rào
Tướng
quân muốn cưỡi ngựa rượt đuổi
Baõ
tuyết rớt đầy cả cung đao.
塞 下 曲 四 首 之 四 - 盧 綸
野 幕 蔽 瓊 筵
羌 戎 賀 勞 旋
醉 和 金 甲 舞
雷 鼓 動 山 川
Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – LƯ LUÂN
Dã
mạc tế quỳnh diên
Khương
nhung hạ lao tuyền
Tuý
hoà kim giáp vũ
Lôi
cổ động sơn xuyên
Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN
Ngoài
hoang dã bày đầy những thức trân quý
Chúc
mừng chiến công đuổi rợ Khương Nhung
Say
xong để nguyên áo giáp nhảy múa
Tiếng
trống vang dậy cả sông núi
Dịch thơ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN
Thức
quý bày ra khắp cánh đồng
Tiệc
mừng chiến thắng bọn Khương Nhung
Uống
say nguyên giáp cùng nhảy múa
Tiếng
trống rền vang dậy núi sông.
.................
Tái hạ khúc: tên bản Nhạc Phủ,
ca khúc ở miền biên tái
Kim Bộc Cô: tên tiễn
Miêu hồ: tên cờ
Thảo kinh phong: cỏ bị gió
lay động
Bạch vũ: chỉ tiễn (cây
tên)
Thạch lăng: góc hòn đá. Lý Quảng
tướng đời Hán, đi săn thấy viên đá trong cỏ, tưởng cọp, bắn, ngập tận chuôi,
nhìn lại là đá
Thiền vu: tên của người Hung
nô gọi vua
Khinh kỵ: ngựa chạy mau
Quỳnh đình: đình tiệc trân
quý
Khương Nhung: rợ tây Nhung bộ
lạc Khương
Lạo tuyền: khao lạo, ca khải
hoàn
Kim giáp: chiến bào
Nguyễn Ngọc Kiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét