Thứ Tư, 14 tháng 6, 2017

ĐƯỜNG THI – CHỦ ĐỀ BIÊN TÁI (Kì 6) / TS. Nguyễn Ngọc Kiên chọn dịch và giới thiệu thơ


TS Nguyễn Ngọc Kiên


          Số trước chúng tôi đã giới thiệu một số bài TÁI THƯỢNG KHÚC và TÁI HẠ KHÚC (KHÚC HÁT NƠI BIÊN TÁI) của Lí Bạch, Vương Xương Linh. Số này chúng tôi tiếp tục giới thiệu chùm bốn  bài TÁI HẠ KHÚC của Lư Luân (Trung Đường).
          Lư Luân 盧綸 (748-800) tự Doãn Ngôn 允言, người Hà Trung (nay là tỉnh Sơn Tây). Trong thời Đại Lịch, đời Đường Đại Tông, thi nhiều lần không đậu, sau có người tiến cử ra làm quan chức uý tại Văn Khanh, lần lần thăng đến chức Hộ bộ lang trung, giám sát ngự sử. Tham gia quân đội nhiều năm, thơ ông phóng khoáng, quan tâm nhiều đến đời sống nhân dân.
          Lư Luân là một trong mười tài tử thời Đại Lịch (chín người kia là Cát Trung Phu, Hàn Hoành, Tiền Khởi, Tư Không Thự, Miêu Phát, Thôi Động, Cảnh Vi, Hạ Hầu Thẩm, Lư Đoan).


 -
 
 
 

TÁI HẠ KHÚC (BỐN BÀI KÌ I)– LƯ LUÂN
Thứu linh kim bộc cô 
Yến vĩ tú miêu hồ 
Độc lập dương tân lệnh 
Thiên doanh cộng nhất hô

Dịch nghĩa : 
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN
Đầu tiên là phát lệnh, kế tiếp là lập công, kế nữa là thoái địch, cuối cùng là ca khúc khải hoàn. 
 Mủi tên làm bằng lông con chim thứu 
Cây cờ thêu bằng đuôi con yến 
Đứng oai nghi lẫm lẫm ra hiệu lệnh 
Ngàn doanh trại cùng dạ rân 

Dịch thơ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 1)– LƯ LUÂN
Tên Kim Bộc lông thứu 
Cờ đuôi én  rõ ràng 
Một mình  truyền lệnh mới
Nghìn trại cùng hô vang 

 -
 
 
 

TÁI HẠ KHÚC KÌ 2 – LƯ LUÂN
Lâm ám thảo kinh phong 
Tướng quân dạ dẫn cung 
Bình minh tầm bạch vũ 
Một tại thạch lăng trung

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN
Trong rừng u ám cỏ lay động theo chiều gió 
Tướng quân đêm tối dương cung bắn ra 
Bình minh đi tìm dấu tên lạc 
Tên ngập sâu vào góc đá tới tận chuôi 

Dịch THƠ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 2)– LƯ LUÂN
Rừng xám gió lay cỏ hải hùng 
Tướng quân đêm tối vội giương cung . 
Bình minh tìm dấu tên bay lạc 
Ngập tới tận chuôi đá lạnh lùng 

 -
 
 
 
滿

Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 3 – LƯ LUÂN
Nguyệt hắc nhạn phi cao 
Thiền vu dạ thuẫn đào 
Dục tướng khinh kỵ trục 
Đại tuyết mãn cung đao

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN
Trăng lờ mờ nhạn bay trên cao 
Vua Hung nô ban đêm phải bỏ chạy trốn 
(Tướng quân) muốn cưỡi khoái mã rượt theo 
 (Mà) cơn bão tuyết xuống rớt đầy cả cung đao 

Dịch thơ :
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 3)– LƯ LUÂN
Trăng mờ nhạn lượn tít trên cao
Vua Hung Nô đêm trốn vượt rào
Tướng quân muốn cưỡi ngựa rượt đuổi
Baõ tuyết rớt đầy cả cung đao.

 -
 
 
 

Phiên âm:
TÁI HẠ KHÚC KÌ 4 – LƯ LUÂN
Dã mạc tế quỳnh diên 
Khương nhung hạ lao tuyền 
Tuý hoà kim giáp vũ 
Lôi cổ động sơn xuyên

Dịch nghĩa:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN
Ngoài hoang dã bày đầy những thức trân quý 
Chúc mừng chiến công đuổi rợ Khương Nhung 
Say xong để nguyên áo giáp nhảy múa 
Tiếng trống vang dậy cả sông núi

Dịch thơ:
KHÚC HÁT MIỀN BIÊN TÁI (KÌ 4)– LƯ LUÂN
Thức quý bày ra khắp cánh đồng
Tiệc mừng chiến thắng bọn Khương Nhung
Uống say nguyên giáp cùng nhảy múa
Tiếng trống rền vang dậy núi sông.
.................
Chú thích :
Tái hạ khúc: tên bản Nhạc Phủ, ca khúc ở miền biên tái 
Kim Bộc Cô: tên tiễn 
Miêu hồ: tên cờ 
Thảo kinh phong: cỏ bị gió lay động 
Bạch vũ: chỉ tiễn (cây tên) 
Thạch lăng: góc hòn đá. Lý Quảng tướng đời Hán, đi săn thấy viên đá trong cỏ, tưởng cọp, bắn, ngập tận chuôi, nhìn lại là đá 
Thiền vu: tên của người Hung nô gọi vua 
Khinh kỵ: ngựa chạy mau 
Quỳnh đình: đình tiệc trân quý 
Khương Nhung: rợ tây Nhung bộ lạc Khương 
Lạo tuyền: khao lạo, ca khải hoàn 
Kim giáp: chiến bào

Nguyễn Ngọc Kiên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét