Mục lục:
Nhân Kỷ Niệm lần thứ 710 Năm Mất của Danh Tướng Trần Quốc Tuấn (1300 – 2010)
Tư tưởng “Dĩ đoản, chế trường” - Đỉnh cao nghệ thuật quân sự Việt Nam
Vào thế kỷ XIII, trong 30 năm (1258 – 1288) quân dân nhà Trần đã ba lần đại thắng Nguyên Mông, viết lên trang sử vàng chói lọi của dân tộc. Vì sao và bằng cách nào mà nước Đại Việt nhỏ bé, quân ít, dân không đông, tiềm lực có hạn lại đánh thắng một đội quân xâm lược khổng lồ, hùng mạnh và tàn bạo nhất trong lịch sử, có trang bị mạnh, từng chinh phục đại bộ phận lục địa từ á sang Âu? Để lý giải triệt để điều này, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước vẫn tiếp tục phân tích ngày càng rõ ràng hơn. Một trong những lý giải cho điều đó là Đại Việt đã vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự “Dĩ đoản (binh), chế trường (trận)” mà Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã tổng kết.
Năm 1300 Trần Quốc Tuấn ốm nặng, vua Trần tới thăm và hỏi ông về kế sách giữ nước. Trần Quốc Tuấn đã đúc kết kinh nghiệm trong suốt cuộc đời đánh giặc giữ nước của mình một cách súc tích:
- “Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (1), đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời. Đời Đinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế.
Vừa rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả nước nhà góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản chế trường là sự thường của binh pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tuỳ thời tạo thế, có được một đội quân một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. (2)
Trần Quốc Tuấn cũng từng dạy: “Phàm đánh trận thì đánh chỗ tĩnh yếu, lánh chỗ tĩnh mạnh; Đánh chỗ nhọc mệt, lánh chỗ nhàn rỗi; Đánh chỗ sợ lớn, lánh chỗ sợ nhỏ; Đó là đạo lý từ xưa nay vậy”... “Phàm hay lấy ít mà thắng nhiều, lấy yếu mà địch mạnh, lấy nhỏ mà chế lớn, thế mới gọi là thiện chiến”. (3)
Theo tinh thần câu nói trên của Trần Quốc Tuấn, ta có thể hiểu:
- Đại quân là quân lớn, quân đông, tức trường trận dùng để đánh những trận lớn.
- Đoản binh là quân nhỏ, quân ít dùng để đánh tập kích và phục kích.
Từ thực tiễn cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của quân dân nhà Trần hồi thế kỷ XIII, ta có thể hiểu dĩ đoản chế trường là dùng lực lượng bộ binh nhỏ bé của Đại Việt để chế ngự kỵ binh hùng mạnh của quân Nguyên, bằng cách tránh cái mạnh của địch là tác chiến kỵ binh, công phá thành, đánh trên bộ... đồng thời lợi dụng và khoét sâu cái yếu của địch như thuỷ chiến, cướp lương, buộc địch phải dàn mỏng lực lượng trên địa bàn nhiều sông ngòi lầy thụt mà không phát huy được thế mạnh để tiêu diệt chúng.
Tóm lại, thực chất của tư tưởng quân sự dĩ đoản chế trường của Trần Quốc Tuấn là dùng nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh, dùng trang bị kém đánh đối phương có trang bị mạnh, phát huy mặt mạnh của ta, hạn chế mặt mạnh của địch để đánh thắng chúng.
Tư tưởng chỉ đạo tác chiến dĩ đoản chế trường được thực hiện trong suốt lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta và là một biểu hiện độc đáo của trường phái quân sự Việt Nam.
Nước ta đất không rộng, người không đông, tiềm lực dựng nước và giữ nước hạn chế, lại luôn luôn phải đối phó với sự xâm lăng của quốc gia phong kiến phương bắc lớn mạnh hơn hẳn. Muốn đứng vững, tồn tại và phát triển với tư cách là một nước độc lập tự chủ, không bị đồng hoá, không bị thôn tính và biến thành nước chư hầu của phong kiến phương Bắc, cộng đồng người Đại Việt phải đoàn kết chặt chẽ, lựa chọn kế sách, tìm ra nghệ thuật giành thắng lợi trước kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần. Dĩ đoản chế trường là một sáng tạo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam được hình thành từ thời Đinh, Lý đến thời Trần, được Trần Quốc Tuấn tổng kết, khái quát, vận dụng và phát triển với chất lượng mới. Thực tiễn ba lần đại thắng Nguyên Mông là một điển hình cho sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả tư tưởng dĩ đoản chế trường của Trần Quốc Tuấn.
Trần Quốc Tuấn đã chỉ rõ, muốn đánh thắng giặc Nguyên, phải “khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc”, phải đề cao tinh thần cố kết dân tộc, quân với dân một ý chí, tướng sĩ như cha con, toàn dân đánh giặc. Để thực hiện được tư tưởng dĩ đoản chế trường, lấy ít đánh nhiều, đòi hỏi quân đội phải tinh nhuệ, thiện chiến. Trong việc xây dựng quân đội, Trần Quốc Tuấn coi trọng chất lượng hơn số lượng. Ông từng nói: “Quân sĩ quý ở chỗ tinh nhuệ, không quý ở số đông. Dẫu đến 100 vạn quân mà như Bồ Kiên thì cũng làm được gì?” (4)
Chính Trần Quốc Tuấn đã rèn luyện tướng sĩ theo nguyên tắc “quân quý tinh bất quý đa”, nhờ vậy mà quân Trần đánh thắng quân Nguyên dù chúng đông hơn gấp nhiều lần. Trần Quốc Tuấn từng soạn Binh thư yếu lược và sưu tập binh pháp các nhà, làm thành Bát quái cửu cung đồ, đặt tên là Vạn Kiếp tông bí truyền thư để truyền dạy binh pháp và luyện tập tướng sĩ.(5)
Trước số lượng đông của đội quân xâm lược, Trần Quốc Tuấn không hề dao động. Ông chỉ rõ vai trò của người làm tướng và binh lính tinh nhuệ trong chiến đấu: “Kể ra, tướng là chí, ba quân là khí. Khí dễ động mà khó chế. Do tướng chế mà trấn tĩnh thì sợ hãi có thể định, phản trắc có thể yên, trăm vạn quân có thể tiêu diệt được. Chí ngay thẳng mà mưu có một, khí phấn khởi mà dũng gấp đôi thì thắng”. (6)
Rõ ràng, trong việc xây dựng quân đội, Trần Quốc Tuấn coi trọng yếu tố tinh thần, quân tinh nhuệ phải là đội quân có lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc, phải biết biến lòng yêu nước thành hành động thiết thực. Ông đọc Hịch tướng sĩ kêu gọi mọi người “huấn luyện binh sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho người người như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ; Có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai ”. Ông chỉ rõ lợi ích thiết thực của việc đánh giặc giữ nước, lên án những kẻ “lo làm giàu mà quên việc nước”. Ông đòi hỏi quân sĩ phải đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân. Ông nêu một tấm gương sáng về lòng trung thành với dân với nước, dẹp hiềm khích gia đình để chiến thắng quân xâm lược. Quân sĩ nhà Trần đã thích lên cánh tay hai chữ “Sát thát ” thể hiện quyết tâm không đội trời chung với giặc Nguyên.
Trong nghệ thuật dĩ đoản chế trường của Trần Quốc Tuấn, vấn đề nổi bật là tránh cái mạnh của địch, lấy cái mạnh của ta để đánh cái yếu của địch.
Quân Nguyên Mông vốn quen với yên ngựa, cung tên từ khi năm, sáu tuổi, rất giỏi chiến đấu bằng kỵ binh, cơ động nhanh, mạnh về tiến công phá thành luỹ. Đội quân kỵ binh Nguyên Mông đã từng làm mưa làm gió từ á sang Âu mà không hề thất bại. Ba lần xâm lược Đại Việt, nhất là lần thứ hai và ba, chúng dùng đội quân viễn chinh thiện chiến đông gấp nhiều lần quân Trần. Đó là cái mạnh cơ bản của địch. Nhưng vào đất Việt, chúng gặp phải những khó khăn không dễ gì khắc phục được như đường xa mỏi mệt, vận chuyển lương khó khăn, thuỷ binh yếu kém, gặp địa hình núi sông ngang dọc nên kỵ binh không thể phát huy ưu thế như tác chiến trên thảo nguyên đồng cỏ. Đó là chỗ yếu cơ bản của địch.
Quân ta có đội tượng binh nhưng cơ động chậm, khó thắng được kỵ binh địch, ta phải dùng bộ binh đánh kỵ binh. Quân ta thông thạo địa hình, quen tác chiến trên sông và vùng ven biển, thuỷ quân của ta mạnh hơn thuỷ quân địch, huy động toàn dân đánh giặc với tinh thần cố kết dân tộc cao độ.
Tháng 12 – 1257 quân Trần đánh chặn quân Nguyên ở Bình Lệ. Mặc dù có đội tượng binh chiến đấu ngoan cường và đích thân vua Trần chỉ huy, nhưng không thắng nổi kỵ binh thiện chiến của giặc, quân Trần phải làm vườn không nhà trống, bỏ kinh thành Thăng Long, rút về vùng Thiên Mạc. Khi quân Nguyên lâm vào cảnh thiếu lương ăn, mất đi cái nhuệ khí ban đầu thì quân Trần phản công, thắng lớn trận Đông Bộ Đầu, đánh tan cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ nhất của quân Nguyên.
Tư tưởng lấy nhàn chờ nhọc, dĩ đoản chế trường của Trần Quốc Tuấn hẳn đã manh nha và hình thành từ cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ nhất, để rồi được bổ sung và hoàn chỉnh trong lần kháng chiến sau, khi Trần Quốc Tuấn đã toàn quyền chỉ huy quân đội.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn tổ chức phòng ngự có chiều sâu nhằm tiêu hao sinh lực địch và không để chúng đánh vu hồi, nếu có thể thì chặn đứng giặc tại biên giới. Đích thân Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh thắng trận đầu ở ải Nội Bàng, nhưng thế giặc hung hãn buộc quân ta phải lui về phòng tuyến Vạn Kiếp, Bình Than, Phả Lại. Tháng 2 – 1285 quân Nguyên tăng cường đội chiến thuyền lớn, tấn công quyết liệt. Quân ta chặn đánh gây cho địch nhiều tổn thất, nhưng kéo dài tình trạng này sẽ không có lợi cho ta. Trần Quốc Tuấn quyết định thực hiện kế “thanh dã” rút khỏi Thăng Long, lui quân về vùng Thiên Trường để bảo toàn lực lượng, chờ thời cơ phản công. Giặc chiếm được kinh thành rỗng không. Trần Quốc Tuấn đem 1000 chiến thuyền trở lại Vạn Kiếp đánh vào sau lưng địch, làm cho Thoát Hoan phải kinh hoàng vì “bị treo lơ lửng ở giữa”. (7)
Như vậy, từ phòng ngự chiến lược không thực hiện được, mau lẹ chuyển sang rút lui chiến lược một cách tài tình, Trần Quốc Tuấn đã thực hiện được điều ông suy nghĩ: “Vì là biết khó mà lui, lường thế không thể thắng được, bèn thu vén quân mà rút lui, hơn là tiến mà mất vậy ”. (8)
Tư tưởng này được thể hiện rõ rệt trong cuộc thoát hiểm tài tình vào tháng 3 – 1285, khi Trần Kiệm đầu hàng giặc ở Thanh Hoá, bỏ ngỏ phía Nam, làm cho quân Trần lâm vào tình thế hết sức nguy cấp là nằm giữa hai gọng kìm của địch. Thoát Hoan từ phía bắc đánh xuống Thiên Trường, Toa Đô từ phía nam tiến công Trường Yên. Quân ta bí mật rút lui qua cửa bể Giao Hải ra biển, làm cho giặc chưng hửng vì mất mục tiêu, không thi thố được sở trường và nhanh chóng rơi vào tình trạng quẫn bách vì thiếu lương ăn, vì ốm đau do không quen khí hậu.
Chỉ trong một tháng (từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 6 - 1285) quân ta phản công thắng lớn trong các trận A Lỗ, Giáng Khẩu, Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, giải phóng Thăng Long, truy kích địch ra khỏi biển giới.
Tránh cái mạnh của địch, dùng cái mạnh của ta để đánh cái yếu của địch, buộc địch phải bị động theo ý định tác chiến của ta, nắm thời cơ khi địch quẫn bách để phản công giành toàn thắng. Đó là biểu hiện sáng tạo tư tưởng dĩ đoản, chế trường mà Trần Quốc Tuấn đã vận dụng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai. Tư tưởng này đã được Trần Quốc Tuấn đưa tới đỉnh cao của nghệ thuật quân sự đương thời.
Năm 1288 quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ ba với 50 vạn quân, ngoài bộ binh và kỵ binh còn có 500 chiến thuyền và một đoàn thuyền chở 70 vạn thạch lương. Trần Quốc Tuấn tự tin nhận định: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Lần kháng chiến này Trần Quốc Tuấn tổ chức trận địa phòng ngự tiêu hao địch nhưng đều để chúng đi qua, chủ động dụ chúng vào vòng vây thế trận của ta. Tháng 1 – 1288 Trần Khánh Dư đánh tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ ở Vân Đồn, thọc một mũi dao vào tử huyệt của giặc, làm chúng không thể kéo dài cuộc chiến. Giặc vào Thăng Long nôn nóng tiêu diệt đối phương nhưng không tìm thấy dấu vết quân Trần, chúng buộc phải lui về Vạn Kiếp và tính kế rút quân. Từ thế chủ động tiến công, giặc lâm vào thế bị động lui quân và rơi vào trận địa quân Trần chờ sẵn. Quân thuỷ của giặc bị ta phá tan trong trận Bạch Đằng. Quân bộ của Thoát Hoan bị quân Trần cùng dân binh truy kích đánh cho tơi tả trên đường rút lui ra biên giới.
Với cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông thắng lợi, Trần Quốc Tuấn đã chứng tỏ là một vị tướng lĩnh tài ba. Tư tưởng dĩ đoản chế trường mà ông có công tổng kết không chỉ là những tri thức quân sự thuần tuý, mà nó được bảo đảm chắc thắng dựa trên lĩnh vực chính trị “dân là gốc”, “toàn quốc đánh giặc”, “anh em hoà mục”, “tướng sĩ như cha con”.
Tránh cái thế “hăng hái lúc ban mai” của địch, làm cho đội kỵ binh địch bị dàn mỏng trên địa hình sông ngòi chật hẹp, lầy thụt mà không phát huy được tác dụng; Dùng kế “thanh dã ”, triệt lương của giặc, đẩy chúng vào cái thế “tàn lụi lúc buổi chiều”; Lợi dụng sở đoản, kiềm chế sở trường của địch; Phát huy sở trường của ta là quen đánh giặc ở vùng sông nước và ven biển, buộc địch phải bị động tác chiến theo ý đồ của ta. Đó là nguyên tắc nghệ thuật quân sự, phép dùng binh của Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Cả hai lần kháng chiến chống Nguyên Mông mà Trần Quốc Tuấn nắm toàn quyền chỉ huy quân đội, ông đều lợi dụng được địa hình, khí hậu, thuỷ văn có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Hai cuộc rút lui chiến lược của quân Trần đều theo đường thuỷ làm cho kỵ binh địch trở nên bất lực. Các trận thắng quyết định của quân Trần thường là thuỷ chiến, ở vùng sông nước mà đỉnh cao là trận Bạch Đằng lịch sử.
Tư tưởng “dĩ đoản (binh), chế trường (trận)” được Nguyễn Trãi phát triển trong kháng chiến chống Minh thắng lợi. Nhân dân ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự dĩ đoản, chế trường, phát triển chiến tranh du kích kết hợp với quân chủ lực, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, nâng tư tưởng quân sự này tới đỉnh cao mới trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Nghệ thuật dĩ đoản, chế trường là một sáng tạo sâu sắc của dân tộc ta dùng chống lại kẻ thù đông và trang bị mạnh hơn hẳn mà Trần Quốc Tuấn có công khái quát, tổng kết với chất lượng mới trong ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông toàn thắng, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
................................
Chú thích:
(1) Thanh dã: Làm vườn không nhà trống, khiến quân xâm lược tới không có một nguồn hậu cần tại chỗ nào.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. – BK5. – T9a
(3) Binh thư yếu lược. – H.: Khoa học xã hội, 1970.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư. BK 5. T51b
(5) Đại Việt sử ký toàn thư. BK5. T14a
(6) Binh thư yếu lược. H.: Khoa học xã hội, 1970. Tr.56
(7) Nguyên sử. – Q.13. – T.8b
(8) Binh thư yếu lược. – H.: Khoa học xã hội, 1970. – Tr. 385
Chú thích:
(1) Thanh dã: Làm vườn không nhà trống, khiến quân xâm lược tới không có một nguồn hậu cần tại chỗ nào.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. – BK5. – T9a
(3) Binh thư yếu lược. – H.: Khoa học xã hội, 1970.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư. BK 5. T51b
(5) Đại Việt sử ký toàn thư. BK5. T14a
(6) Binh thư yếu lược. H.: Khoa học xã hội, 1970. Tr.56
(7) Nguyên sử. – Q.13. – T.8b
(8) Binh thư yếu lược. – H.: Khoa học xã hội, 1970. – Tr. 385
Tiến sĩ Phạm Thế Lịch
Phạm Thế Lịch (sau đổi là Phạm Thế Trung) hiệu là Trác Phong và Chỉ Trai, sinh ngày 3 - 10 năm Tân hợi (1791), mất năm Tự Đức 27 (1874) thọ 84 tuổi. Ông quê làng Quần Mông, huyện Giao Thuỷ, phủ Xuân Trường (nay là thôn Lạc Quần, xã Xuân Ninh, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định).
Ông xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo. Mẹ là Mai Thị Duyên, con gái hương trưởng Mai Công Kỳ cùng làng, làm ruộng. Cha là Phạm Đình Kham làm nghề thuốc chữa bệnh.
Ông thông minh từ nhỏ, năm 7 tuổi đi học, học đâu nhớ đấy, được người làng khen là thần đồng. Năm 14 tuổi ông đi dự khảo thí học trò ở xã Hà Nạn trong tổng hạt, đề ra bài phú "Nhật trung vi thị " (Giữa ngày họp chợ), ông làm bài ngay, văn sĩ đều thán phục là tài.
Năm Gia Long thứ 6(1807) ông theo học Hương cống Nguyễn Hữu Bảo ở làng Hoài Bão, huyện Tiên Du (tỉnh Bắc Ninh). Khi cha mất, ông về chịu tang ba năm. Sau ông tìm học Tiến sĩ Lê Huy Du (người làng Bột Thượng, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá) là bậc đạo đức, văn chương có tiếng, mở trường ở xã Trà Lũ, huyện Giao Thuỷ, tỉnh Nam Định. Khoa Kỷ mão Gia Long 18(1819) ông đi thi. Quyển của ông trúng ưu hạng nhất nhưng lại bị đánh trượt vì "đài khoản viết không hợp cách". Bố vợ ông thấy ông buồn rầu vì hỏng thi, khuyên ông nên bỏ thi cử, ra làm lý trưởng để có ruộng mà sinh sống. Ông cự tuyệt, thà chịu đói khổ, quyết không làm lý dịch. Khoa Tân Tỵ Minh Mệnh 2(1821) ông đi thi, lại hỏng. Ông quyết chí lên Thăng Long tìm thày học, dù không có tiền. Đến Thăng Long, ông tìm học thày Phạm Quý Thích (tức cụ Nghè Đốc học Hoa Đường). Để có tiền ăn học, ông phải vừa học vừa dạy trẻ. Được một năm thì ông phải bỏ học vì không có người thuê dạy trẻ nữa. Ông nhận về dạy con cái trong nhà quan Thái thú họ Lê người Trà Nam (Bình Định) để kiếm sống. Ngồi dạy học ở nhà quan Thái thú, ông vẫn không bỏ một kỳ bình văn nào ở Thăng Long. Dần dần tài học của ông đã nức tiếng Đông kinh.
Năm ấy ông về Nam Định, gặp Phan Bá Vành nổi dậy khởi nghĩa ở Trà Lũ. Phan Bá Vành rước ông làm tham mưu cho nghĩa quân, ông không theo. Nhưng từ khi tiếp xúc với Phan Bá Vành, ông không còn hào hứng với khoa cử nữa. Đến kỳ tỉnh hạch, ông không chịu nộp quyển. Anh ông là Phạm Đình Khương tiếc công em học hành vất vả bấy lâu, liền nộp quyển thay ông. Khoa Mậu Tý Minh Mệnh 9(1828) ông đỗ á nguyên. Đến khoa thi Hội năm Kỷ Sửu Minh Mệnh 10(1829) ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, cùng khoa với Phạm Thế Hiển và Ngô Thế Vinh. Vua tặng ông vế đối :
"Thế Lịch, Thế Hiển, Thế Vinh tam Thế đồng khoa Vinh, Hiển Lịch."
Sau khi đỗ Tiến sĩ, ông được triệu vào kinh bổ làm Hành tẩu, rồi thăng Hàn lâm viện Biên tu, lĩnh Tri phủ Tư Nghĩa (thuộc tỉnh Quảng Ngãi), trải bổ Viên ngoại lang bộ Lễ, chuyển Lang trung bộ Lại, thăng án sát, rồi Bố chính Bình Định.
Năm Minh Mệnh 17(1836) ông làm Tả thị lang bộ Lễ, sung Chánh sứ đi Trung Quốc. Do tên ông là Lịch phạm huý vua Tàu nên đổi lại là Phạm Thế Trung. Chuyến đi này có Nguyễn Đức Hợp và Nguyễn Văn Mô làm phó sứ cho ông. Khi tiếp xúc với triều đình nhà Thanh, vua Thanh hỏi gì ông đều ứng đối hợp lẽ. Vua Thanh đã tặng ông hai bộ triều phục.
Sau khi đi sứ về ông được đổi làm Tả thị lang bộ Hình, chuyển làm Phủ doãn Thừa Thiên. Hoàng Thái hậu lập đàn kỳ phúc, mở khảo thi hoà thượng, sai ông làm chánh chủ khảo.
Năm Thiệu Trị 1(1841) ông làm Biện lý bộ Hộ, đổi Bố chính sứ Hưng Hoá, rồi tiến Thự hữu Tham tri bộ Hộ, sau đổi sang bộ Lại. Ba năm làm quan ở Hưng Hoá, ông đem nghĩa lý hiểu bảo dần dần khai hoá cho dân, thổ hào trong tỉnh đều tin phục. Hồi đó có hơn bốn chục người Tàu tự tiện vào rừng Hưng Hoá chặt gỗ thiết, bị dân sở tại bắt nộp quan tỉnh. Tổng đốc Tam Tuyên (Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang) là Nguyễn Công Hoán chiểu theo luật định khép vào tội chết. Ông can ngăn không nên giết họ vì họ không hiểu luật lệ của ta. Ông Hoán không nghe bèn gửi mật tấu về kinh. Phạm Thế Lịch cũng gửi mật tấu về kinh trình bày rõ sự việc theo quan điểm của mình. Ông Hoán nhận được chỉ của vua trước, cho trảm quyết bọn người khách. Phạm Thế Lịch cố can ngăn xin lui ngày trảm quyết để chờ chiếu chỉ của nhà vua. Quả nhiên hai ngày sau có chiếu chỉ của vua lệnh huỷ chiếu chỉ trước và tha cho bọn khách. Bọn người khách được tha mạng đã nhớ ơn xin danh hiệu của ông về thờ.
Năm Thiệu Trị thứ 5(1845) Phạm Thế Lịch làm Chánh sứ, Bạch Đông Ôn làm phó sứ đi sứ nhà Thanh. Sau khi đi sứ về, Phạm Thế Lịch được thăng làm Hộ bộ Hữu thị lang. Ông lại được cử làm Chánh chủ khảo trường thi Nghệ An.
Năm Đinh mùi Thiệu Trị 7(1847) vua sắp mất, đã truyền ngôi cho con thứ là Hồng Nhậm vì con lớn là Hoàng Bảo chỉ mải ăn chơi. Hoàng Bảo rất bất bình vì không được truyền ngôi. Phạm Thế Lịch đã khéo léo khuyên răn, giữ được mối hoà hảo giữa hai anh em vua mới. Tân hoàng khen rằng:"Ngươi khéo vì ta xử chỗ cốt nhục, nay được chu toàn, cũng nhờ có công ngươi ".
Nhân Phạm Văn Nhã và Phạm Võ Khải cãi nhau vì cho rằng văn mình hay hơn, bị vua bỏ ngục. Triều thần ghét Khải kiêu ngạo nên tâu vua xử tội. Phạm Thế Lịch can ngăn, nói rằng Khải vì quá chén mà lỡ bất tốn như thế, nên xin tha cho Khải. Vua nghe Phạm Thế Lịch mà tha cho Khải. Khải được tha rất biết ơn Phạm Thế Lịch.
Năm Tự Đức 1(1848) ông được thực thụ Hữu Tham tri bộ Lại, sung Kinh diên giảng quan, kiêm quản Hàn lâm viện. Năm đó ông lại được sung chức Khâm sai đại thần đi cùng với Đức Hoạt hội đồng tra xét vụ Tổng đốc Định - Biên Ngô Văn Giai và án sát sứ Nguyễn Ba tham hặc lẫn nhau. Cả hai đều vì việc riêng mà làm bậy. Phạm Thế Lịch cứ chiểu pháp luật mà xét định tâu lên vua. Giai và Ba đều bị cách chức. Vua khen Phạm Thế Lịch là thẳng thắn không kiêng nể người quyền quý.
Năm Tự Đức 2(1849) ông được cử làm giảng quan hàng ngày giảng sách cho vua nghe ở toà Kinh Diên.
Năm Tự Đức 3(1850) ông được đổi bổ làm Tuần phủ Bắc Ninh, Hộ lý Tổng đốc Ninh - Thái. Ông có công cầm quân dẹp giặc cỏ Lê Vằn và Trịnh Hải ở Lạng Giang, bắt được Vằn giam vào ngục. Vằn vượt ngục bị bắt lại và bị chém. Khi đó quan lãnh binh không tuân pháp luật, bị Phạm Thế Lịch đánh đòn. Do mẫn cán trong công việc nên tháng 8 - 1850 ông được thưởng gia một cấp, thăng làm Tổng đốc.
Tính ông vốn cương trực, gặp việc không phải là nói ngay, không kiêng huý kị nên nhiều đình thần ghét ông. Bấy giờ Vũ Đăng Dương đã 70 tuổi còn được bổ Tri phủ Thiên Phúc (nay là Phúc Yên). Khi yết kiến Phạm Thế Lịch, Vũ Đăng Dương không chịu vái lậy nên bị ông mắng là vô lễ. Vũ Đăng Dương đem bụng thù ghét Phạm Thế Lịch. Năm ấy mất mùa đói kém, Phạm Thế Lịch mở kho thóc phát cho dân nghèo. Nhân việc đó, Vũ Đăng Dương mật tấu về triều đình vu cho Phạm Thế Lịch là mạo tấu kém đói phát thóc cho dân để có ơn riêng với dân. Dương còn vu cho ông là đã bắt Dương phải về hưu khi còn đang khoẻ mạnh. Triều đình nghe lời gian thần đã cách chức Phạm Thế Lịch và bắt ông bồi thường số thóc đã phát cho dân.
Năm Tự Đức 5(1852) Phạm Thế Lịch về quê, ngày ngày vui với thơ phú. Khi đó Trương Đăng Quế làm Phụ chính, trọng Phạm Thế Lịch là người có khí tiết, đã mời ông về kinh sung chức Kinh diên. Phạm Thế Lịch không chịu. Trương Đăng Quế lại cử ông làm Đốc học bản tỉnh, Phạm Thế Lịch cũng không nghe.
Năm Tự Đức 27(1874) Phạm Thế Lịch mất, thọ 84 tuổi.
Phạm Thế Lịch là người đỗ Tiến sĩ đầu tiên của huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ông cũng là bố vợ Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng người Hành Thiện cùng huyện. Ông nổi tiếng thông minh từ nhỏ, lớn lên là người có học thức, văn võ toàn tài, can đảm có tiếng. Ông có nhiều sáng tác nhưng hiện nay chỉ còn tập Sứ hoa quyển và một số câu đối do ông viết ở các đình, nhà thờ họ trong huyện...
“Việt Nam Lịch Sử Diễn Ca” của Vũ Trung Chính
Tác giả Vũ Trung Chính quê làng Đại Đê, xã Đại An, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông có nhiều năm công tác trong Đoàn chỉ đạo Nông nghiệp của Bộ Nông nghiệp, Trưởng phòng Nông nghiệp huyện, chuyên viên Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Nam Định. Ông từng làm chuyên gia nông nghiệp ở châu Phi, nổi tiếng về cây lúa Senegan, được sách báo ca ngợi. Trong kháng chiến chống Mỹ, ông là chiến sĩ trực tiếp chiến đấu trong đội hình tiểu đoàn 3 trung đoàn 101 sư đoàn 325, tham gia chiến dịch Quảng Trị 1972 và chiến dịch Hồ Chí Minh 1975, được nhà nước tặng nhiều huân huy chương. Từ khi nghỉ hưu, ông dồn tâm sức nghiên cứu viết sách, mong góp phần vào việc truyền bá kiến thức lịch sử nước nhà.
Tháng 8 năm 2010 nhà xuất bản Thanh niên ấn hành cuốn Việt Nam lịch sử diễn ca của Vũ Trung Chính. Sách có trang bìa gam màu trang trọng, dày 194 trang, khổ 13 x 19 cm và nhiều ảnh tư liệu minh hoạ.
Sách gồm 2.900 câu văn vần, chia làm 9 chương, tóm tắt những vấn đề cốt lõi, những sự kiện tiêu biểu trong bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước của Việt Nam, từ thời Hồng Bàng đến sau năm 1975. Nội dung sách diễn ca lịch sử Việt Nam khá phong phú, từ những truyền thuyết Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân và Âu Cơ, Sơn Tinh và Thuỷ Tinh, Thánh Gióng, An Dương Vương... đến các triều đại Đinh, Lý, Trần, Hồ, Lê, Mạc, Nguyễn... Tác giả đặc biệt dồn tâm huyết vào thể hiện cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, về Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam, từ chương năm đến chương chín.
So với các cuốn diễn ca lịch sử như Thiên Nam ngữ lục (từ Hồng Bàng đến Lê Chiêu Thống), Đại Nam quốc sử diễn ca của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái (từ Kinh Dương Vương đến Lê Trung Hưng), Việt sử diễn âm (từ Hùng Vương đến Mạc)... thì Việt Nam lịch sử diễn ca của Vũ Trung Chính có nội dung khá phong phú và đề cập tới thời gian lịch sử dài hơn.
Qua việc phản ánh quá khứ anh dũng, vẻ vang của dân tộc và đất nước với những tấm gương sáng chói, những ngọn cờ tiêu biểu trong từng giai đoạn lịch sử Việt Nam, tác giả đề cao tinh thần đoàn kết toàn dân, cố kết dân tộc, gắn bó các thế hệ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam độc lập, dân chủ, xã hội công bằng văn minh. Từ thực tế lịch sử nước nhà, rút ra bài học quý giá là chỉ khi nào đoàn kết được các lực lượng yêu nước dưới sự dẫn dắt của một vị tướng lĩnh tài ba, trung thành với dân tộc, yêu nước sâu sắc, đặt quyền lợi dân tộc lên trên tất cả thì mới có thể đánh đuổi được giặc ngoại xâm, xây dựng đất nước độc lập tự chủ. Ngược lại, một khi triều đại suy thoái, không thực hiện được đoàn kết dân tộc, thiếu vị thủ lĩnh tài ba đức độ thì tất yếu sẽ bị kẻ thù lợi dụng, chia rẽ và tiêu diệt.
Mở đầu sách, tác giả nói rõ lý do ông viết cuốn Việt Nam lịch sử diễn ca: “Tài liệu sách vở về lịch sử nước nhà không thiếu. Có những bộ sử hay, đồ sộ tới mấy nghìn trang, hàng chục vạn chữ nhưng đã có mấy ai đọc hết. Có chăng chỉ giúp các nhà nghiên cứu, còn với đa số nhân dân nhất là lớp trẻ hiện nay thì những chồng sách trên quả còn xa vời với họ quá.”... “Thiết nghĩ nếu tóm tắt gọn lại và diễn đạt dưới dạng văn vần có lẽ sẽ có nhiều người thích đọc và nhớ được nhiều”.
Từ suy nghĩ trên, tác giả đã cố gắng thể hiện những vấn đề cốt lõi lịch sử Việt Nam dưới hình thức thơ song thất lục bát - một thể thơ truyền thống của dân tộc ta. Hình thức diễn ca thể hiện vấn đề lịch sử bằng hình thức thơ lục bát hoặc song thất lục bát thường dễ đi vào lòng người, dễ thuộc, dễ hiểu, dễ nhớ hơn văn xuôi. Bà nội tôi không biết chữ, mẹ tôi mới biết đọc biết viết qua lớp bình dân học vụ, nhưng lại thuộc làu làu Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm... Đó là vì ngoài nội dung có giá trị, các tác phẩm này còn được thể hiện bằng hình thức thơ lục bát và song thất lục bát. Vì thế, tôi tin chắc rằng, với kết cấu theo thời gian, bố cục chương mục mạch lạc, sự chọn lọc và thể hiện những sự kiện tiêu biểu bằng hình thức diễn ca song thất lục bát của Việt Nam lịch sử diễn ca, bạn đọc sẽ dễ thuộc, dễ nhớ, dễ nắm được khái quát tiến trình lịch sử Việt Nam nói chung, những sự kiện lịch sử và những anh hùng dân tộc tiêu biểu nói riêng.
Những nhân vật kiệt xuất, những anh hùng dân tộc như Hai Bà Trưng, Bà Triệu, Triệu Quang Phục, Mai Thúc Loan, Phùng Hưng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ - Quang Trung, Hồ Chí Minh... được tác giả miêu tả thật hào hùng bằng đôi nét chấm phá, lời giản dị, dân dã mà gây ấn tượng khó quên cho bạn đọc. Đơn cử, trường hợp tác giả viết về Bà Triệu: “Dòng hào kiệt Trinh Nương tên gọi, Phất cờ đào tụ hội ba quân”, “Thề cưỡi sóng chém cá kình sợ chi”. Khi bà ra trận “Sỏ guốc ngà ăn vận oai phong, Khoá ngoài chiếc áo giáp đồng, Cài trâm giắt kiếm cờ hồng giương cao”. Hình ảnh Bà Triệu oai phong đến nỗi giặc Ngô nhìn thấy đã khiếp vía “Thua mấy phen liên tiếp rụng rời”. Còn đây là hình ảnh Quang Trung Nguyễn Huệ sau trận chiến: “Quang Trung khoác tấm áo bào, Sạm đen khói súng vẫy chào muôn dân”. Lối diễn ca bằng lời giản dị, dân dã, tự nhiên theo mạch tình cảm chân thực của tác giả cứ tuôn chảy từ đầu đến cuối tác phẩm, càng về cuối càng dồi dào.
Việt Nam lịch sử diễn ca là chuyện kể lịch sử bằng hình thức thơ ca. ở phương diện là tác phẩm thơ ca, Việt Nam lịch sử diễn ca mang đậm âm hưởng anh hùng ca. Tình yêu đất nước quê hương, yêu truyền thống kiên cường bất khuất của dân tộc là tình cảm chủ đạo xuyên suốt tác phẩm.
Hiện nay chất lượng dạy và học môn lịch sử trong nhà trường có chiều suy giảm, thể hiện rõ qua kết quả thi cao đẳng và đại học môn lịch sử những năm gần đây tỷ lệ điểm kém cao tới mức đáng báo động. Nhiều nhà khoa học, nhiều nhà báo đã lên tiếng cảnh báo hiện tượng lớp trẻ ngày nay hiểu biết rất hạn chế về lịch sử, cần phải cải tiến hình thức và phương pháp giáo dục lịch sử nói chung và biên soạn sách sử nói riêng sao cho người đọc dễ hiểu, dễ nắm được kiến thức lịch sử. Trong tình hình đó, cuốn Việt Nam lịch sử diễn ca của Vũ Trung Chính đã góp phần tích cực, thiết thực vào việc làm ý nghĩa này.
Tác giả Vũ Trung Chính viết cuốn Việt Nam lịch sử diễn ca khi tuổi đã cao. Ông lại vốn là một nhà khoa học viết văn nên khó tránh khỏi những hạn chế như sách còn ít chất thơ, việc chọn vần, lựa chữ chưa được chú trọng thích đáng... nhưng điều đáng quý, đáng trân trọng là tấm lòng của ông thiết tha muốn đóng góp một việc làm có ích cho sự nghiệp cách mạng nước nhà.
Trân trọng giới thiệu cuốn sách cùng bạn đọc.
Cảm Xúc Chân Quê Trong Thơ Nguyễn Bính
ĐÒAN VĂN TĨNH - TRẦN MỸ GIỐNG
Thuở còn thơ, tôi thường nghe mẹ tôi hát ru những câu hát đại loại như:
Em õi! Em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa
Hay:
Nhà em có một giàn giầu
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Nhà tôi có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài thì nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?
Những câu hát ấy thấm vào hồn tôi, khiến tôi thuộc nằm lòng. Tôi cứ tưởng đó là những câu ca dao. Sau này lớn lên, đi học, tôi ngỡ ngàng khi biết đó không phải là ca dao, mà là những câu thơ tài hoa của nhà thơ Nguyễn Bình, một nhà thơ tiêu biểu cho "một thời đại thi ca" của dòng thơ lãng mạn Việt Nam thời kỳ 1930 - 1945. Tôi càng tự hào hơn khi biết tác giả của những câu thơ tài hoa ấy lại là một ngưười con sinh ra từ một làng quê nghèo nhưưng giàu truyền thống văn hiến của đất Nam Định quê tôi: làng Thiện Vịnh, xã Cộng Hoà, huyện Vụ Bản.
Thơ Nguyễn Bính đi vào lòng ngưười bởi cái hồn mộc mạc mang hương đồng gió nội, vưượt qua mọi lớp bụi thời gian, toả sáng trong thơ, toả sáng tâm hồn dân tộc, toả sáng nét đẹp nhân bản của con ngưười Nam Định, Việt Nam.
Thơ Nguyễn Bính, bài ngắn thì hai câu, bốn câu, bài dài có cả trăm câu, nội dung đề cập tới hàng loạt vấn đề. Nhỏ thì tâm tư tình cảm cá nhân, gia đình, bạn bè, lớn thì tình yêu quê hương đất nưước, nhiều hơn cả là tình yêu nam nữ.
Trong chúng ta, có lẽ không ai là không thuộc thơ Nguyễn Bính, ít ra là một vài câu. Trên thực tế, thơ Nguyễn Bính đã đi vào tâm hồn dân tộc, thấm vào lời ăn tiếng nói người dân quê, trong câu hát ru của mẹ, của bà, trong lời giao duyên tình tứ của những đôi lứa yêu nhau... Có lẽ ở góc độ này, Nguyễn Bính chỉ đứng sau đại thi hào Nguyễn Du mà thôi.
Vậy điều gì đã tạo cho thơ Nguyễn Bính sức hấp dẫn làm say lòng người đến thế? Có lẽ cái làm cho thơ Nguyễn Bính in một dấu son không phai mờ trong lòng bạn đọc lại không hoàn toàn nằm ở số lượng nhiều bài, không nằm ở thể tài, thậm chí không nằm ở nội dung, mà cái chính là ở chất chân quê mộc mạc, cái tình quê đằm thắm rất riêng biệt chỉ có ở thơ Nguyễn Bính, làm ngưười đọc không thể lẫn thơ ông với thơ của tác giả khác.
Để hiểu cái điều bình dị và kỳ diệu ấy, ta hãy trở về cái không khí xã hội, không khí văn học Việt Nam, thời Nguyễn Bính mới xuất hiện giữa làng thơ. Thời kỳ ấy, trưước làn gió mới mẻ của phương Tây thổi vào, khi mà ngưười ta háo hức hiện đại hoá, đua nhau cách tân, lao vào tìm hiểu những cái mới lạ của phương Tây, thì Nguyễn Bính cứ hồn nhiên giữa làng thơ với chất quê mộc mạc của mình. Những là:
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
(Tương tư )
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng
(Tương tư )
Hay là:
Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai ngưười sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
(Người hàng xóm )
Cách nhau cái dậu mùng tơi xanh rờn
Hai ngưười sống giữa cô đơn
Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi
Giá đừng có dậu mùng tơi
Thế nào tôi cũng sang chơi thăm nàng
(Người hàng xóm )
Trong cuốn Thi nhân Việt Nam xuất bản năm 1940, nhà nghiên cứu phê bình văn học nổi tiếng Hoài Thanh đã quả quyết rằng: "Trong lịch sử thi ca Việt Nam, chưa bao giờ có một hồn thơ "quê mùa" như Nguyễn Bính". Quê mùa mà nổi tiếng, vì quê mùa ở đây chính là cái gốc nhân bản của con ngưười Việt Nam, cái hương vị thanh tao của đồng quê, cái hồn mộc mạc của quê hương.
Nguyễn Bính đã đưa vào thơ mình cái chất quê mùa của hương đồng gió nội một cách có ý thức sâu sắc. Có thể coi bài Chân quê là một tuyên ngôn nghệ thuật của ông về cái hồn quê ấy. Trong bài thơ, tác giả mưượn lời trách nhẹ nhàng cô ngưười yêu đi tỉnh về đã để cho hương đồng gió nội bay đi ít nhiều, để bộc lộ quan điểm về cái chân quê của mình:
Hôm qua em đi tỉnh về
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng
áo cài khuy bấm em làm khổ tôi
Đợi em ở mãi con đê đầu làng
Khăn nhung, quần lĩnh rộn ràng
áo cài khuy bấm em làm khổ tôi
Mà:
Nói ra sợ mất lòng em
Nên:
Van em em hãy giữ nguyên quê mùa
Bởi vì:
Hoa chanh nở giữa vườn chanh
Thày u mình với chúng mình chân quê.
Thày u mình với chúng mình chân quê.
Với Nguyễn Bính, chân quê chính là cái gốc, là bản sắc văn hoá dân tộc, là nét đẹp nhân bản của con người Việt Nam, phải biết bảo vệ và gìn giữ nó.
Trong bài Thư gửi thày mẹ, sau khi tự trách cái tính giang hồ lãng tử của đứa con bất hiếu là mình:
Con đi mười mấy năm trời
Một thân bé bỏng, nửa đời gió sương
Thày đừng nhớ, mẹ đừng thương
Cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi!
Một thân bé bỏng, nửa đời gió sương
Thày đừng nhớ, mẹ đừng thương
Cầm như đồng kẽm ngang đường bỏ rơi!
Nhà thơ đã có những lời nhắn gửi thật sâu xa, cảm động:
Thày ơi, đừng chặt vườn chè
Mẹ ơi đừng bán cây lê con trồng.
Mẹ ơi đừng bán cây lê con trồng.
Ðến với thơ Nguyễn Bính, ta nhưư đưược trở về với tuổi thơ của chính mình, trở về với luỹ tre làng quê hương thân thuộc. Từ những hình ảnh thôn Đoài, thôn Đông, con đò, giếng nước, cây đa, sân đình... đến dậu mùng tơi, cánh bưướm, cánh diều, lá giầu, cây cau, cỏ may, đồng nội... Tất cả đã đi vào thơ Nguyễn Bính một cách tự nhiên và đầm ấm tình ngưười. Khi đọc thành lời diễn cảm đoạn thơ sau đây của Nguyễn Bính, ta thấy thú vị trưước cách cảm, cách nghĩ, cách so sánh ví von, cách dùng điệp từ, cách sử dụng lời ăn tiếng nói rất dân gian của ông:
Ví chãng nhớ có như tơ nhỉ
Em thử quay xem được mấy vòng
Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ
Em thử lào xem được mấy thưng
(Nhớ)
Em thử quay xem được mấy vòng
Ví chăng nhớ có như vừng nhỉ
Em thử lào xem được mấy thưng
(Nhớ)
Hay câu:
Một năm đến lắm là ngày
Mùa thu mùa cốm vào ngay mùa hồng
Từ ngày cô đi lấy chồng
Gớm sao có một quãng đồng mà xa.
(Qua nhà)
Mùa thu mùa cốm vào ngay mùa hồng
Từ ngày cô đi lấy chồng
Gớm sao có một quãng đồng mà xa.
(Qua nhà)
Đến như bài thơ sau đây thì dường như cái hồn thơ Nguyễn Bính đã hoà đồng đến máu thịt với đời sống tâm hồn của con người xứ quê:
Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em chừng dập miếng giầu em sang
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh
Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình với nhau.
Ai làm cả gió đắt cau
Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non
(Chờ nhau)
Chờ em chừng dập miếng giầu em sang
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh
Em nghe họ nói mong manh
Hình như họ biết chúng mình với nhau.
Ai làm cả gió đắt cau
Mấy hôm sương muối cho giầu đổ non
(Chờ nhau)
Những cách tính thời gian chừng dập miếng giầu, cách nói ỡm ờ mà tế nhị, mà tình tứ hình nhưư họ biết chúng mình với nhau, các thành ngữ cả gió đắt cau, sưương muối giầu đổ non... là lời ăn tiếng nói, là cách cảm, cách nghĩ của ngưười xứ quê và chỉ ngưười xứ quê mới có. Đó là những viên ngọc còn thô mà Nguyễn Bính chỉ cần gia công đôi chút là trở thành những bài thơ tuyệt tác, một viên ngọc ngôn ngữ của một nghệ sĩ bậc thầy. Khi cái nét quê mộc mạc gặp gỡ với chất nghệ sĩ bậc thầy, Nguyễn Bính đã sáng tạo cho đời những dòng thơ cảm tác tuyệt hay:
Hôm qua dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu... cánh buồm nâu... cánh buồm.
(Không đề)
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu... cánh buồm nâu... cánh buồm.
(Không đề)
Ðọc thơ Nguyễn Bính ta nhận ra vô số những viên ngọc ngôn ngữ dung dị mà duyên dáng, sâu sắc mà hồn nhiên, lung linh toả sáng, toát ra cái hồn quê mộc mạc, tình quê đằm thắm, tạo thành phong cách Nguyễn Bính, phong cách chân quê. Trong mạch thơ đồng quê ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ 20, có một số nhà thơ nổi tiếng như Đoàn Văn Cừ, Anh Thơ, Bàng Bá Lân… đã để lại cho đời những bức tranh quê chân thực. Trong số đó, Nguyễn Bính có một giọng thơ riêng, để lại cho đời những bài thơ mang âm hưưởng tình quê chân thực. Dù có một số bài còn dàn trải, có vẻ dễ dãi, thơ Nguyễn Bính vẫn đưược đông đảo bạn đọc thuộc và yêu mến, bởi thơ ông đã nói hộ nỗi lòng, trạng thái tình cảm đa dạng trong tình ái của nhiều lớp ngưười quê. Những mối tình quê trong thơ ông thưường éo le, ngang trái, sầu muộn mà đằng sau nó, bạn đọc dễ dàng nhận ra tâm sự bi phẫn về hoàn cảnh xã hội ngột ngạt, niềm hoài hương khắc khoải khôn nguôi và khát vọng đổi thay…
Hiện nay, đất nước ta đã bước vào thời kỳ mới, thời kỳ mở cửa, chúng ta có điều kiện tiếp xúc với nhiều nền văn hoá trên thế giới. Điều này là cần thiết và phù hợp với xu thế thời đại. Nhưng tiếp thu các nền văn hoá mới cần phải có chọn lọc, hoà nhập với thế giới nhưng không hoà tan, hội nhập mà không đánh mất bản sắc văn hoá của chính mình. Đó là điều mà tòan dân ta mong đợi. Về một phưương diện nào đó, điều ấy, Nguyễn Bính đã từng cố gắng làm từ hơn nửa thế kỷ trước. Vì thế, thơ Nguyễn Bính vẫn còn nguyên giá trị và sẽ sống mãi trong dân gian.
Lạc Nẻo Đường Trăng của Chu Đình An
Mới quen biết Chu Đình An gần đây, nhưng tôi đã được đọc và thích thơ ông từ khá lâu qua nhiều tuyển thơ: Vườn thơ tao ngộ, Chưa nhắm đã say (Nxb. Trẻ), Hà Nội trong tim (Nxb. Giao thông vận tải), Bút xưa 6, Thắp sáng đường thi (T.1 và 2 Nxb. Văn hóa dân tộc), Ngàn dặm tình thơ, Tác giả thơ Việt Nam đương đại (Nxb. Thanh niên), Những bài thơ Việt Nam hay lạ xưa nay (Nxb. Văn nghệ), 1000 năm thơ Thăng Long Hà Nội – Thiên Trường Nam Định (Hội VHNT Nam Định)...
Chu Đình An, bút danh Nam Thắng, nguyên là anh bộ đội Cụ Hồ, từng gần hai chục năm trong quân ngũ thì có tới 12 năm chiến đấu trên các chiến trường B, C, K (Miền Nam, Lào, Căm pu chia) trong kháng chiến chống Mỹ, rồi chuyển ngành công tác trong lĩnh vực thương nghiệp cho đến khi nghỉ hưu. Ông được “Trời phú cho ông có chữ tài, Văn chương cẩm tú bút hoa khai”, biết làm thơ từ khi mới lớn. Hơn nửa thế kỷ làm thơ, ông có tới cả ngàn bài, một số bài đăng báo hoặc in trong các tuyển thơ, còn phần lớn chưa in thành sách. Mãi năm 65 tuổi ông mới cho ra tập thơ riêng đầu tiên “Chặng đường hoa” (Sở Văn hóa Thông tin Nam Định, 2004). Hai năm sau ông in tập “Năm tháng xôn xao” (Nxb. Lao động, 2006).
“Lạc nẻo đường trăng” (Nxb. Hội Nhà văn, 2011) là tập thơ thứ ba ông mới trình đời. Sách khổ 13 x 19 cm, 96 trang. Trang bìa xanh lơ, trăng vàng, núi xa mờ, thác trắng gợi cho ta liên tưởng tới cõi lung linh huyền ảo, trộn lẫn giữa thực và mơ - cõi thơ. “Thơ trình đời dẫu muộn / In nếp nghĩ thần tiên”. Tình cảm chủ đạo trong “Lạc nẻo đường trăng” vẫn tươi nguyên như “Chặng đường hoa” và “Năm tháng xôn xao”, là tình yêu quê hương đất nước sâu sắc, yêu người thiết tha. Nhưng có lẽ tình cảm thẩm mỹ nổi trội nhất của tác giả trong tập thơ là tình yêu... thơ. Đọc Lạc nẻo đường trăng, ta thường bắt gặp cảm xúc, tình cảm, tâm trạng, suy tư thể hiện tình yêu thơ của tác giả. Tôi lấy làm lạ là có tới gần bốn chục lần ông nhắc tới từ “thơ”. Thường trong một tập thơ nhỏ mà lặp lại một tứ, một từ dăm ba lần đã gây cho người đọc cảm giác nhàm. Nhưng với tần xuất từ “thơ” trong Lạc nẻo đường trăng lớn như vậy mà tôi không cảm thấy nhàm chán. Phải là người vững tay “nghề” tác giả mới làm được điều đó. Trong hoàn cảnh thời chiến hay thời bình, tâm trạng buồn hay vui, ông luôn có xu hướng liên hệ tới “thơ” – tình yêu thơ. Trước giờ xuất trận, ông nhớ quê thao thiết thì “Chao nghiêng một nhánh thơ gầy”. Trước cảnh trời mây, “gió dâng hương níu giữ trăng vàng” làm xao xuyến cõi lòng, ông bật ra “Câu thơ thức tỉnh đam mê”. Dù trải bao gian khó trong cuộc mưu sinh hay trong chiến đấu đối mặt với kẻ thù, dù trong bộn bề năm tháng thì ông vẫn “Dặm trường thơ đam mê”. Khi ông “Đan cài sương gió vào thơ”, lúc lại trút “Nỗi niềm day dứt trang thơ”. Ông coi thơ là cái nghiệp mà ông tự nguyện dấn thân “Thơ và đời mãi mãi đa mang” với khát vọng “Cài vương miện lên thơ lên chữ” có ích để lại cho đời nên ông băn khoăn “Hồn thơ trang sách mai sau có còn”... Tôi liên tưởng tới thần đồng thơ Trần Đăng Khoa hiện đã làm tới chức Cục trưởng, nhưng bạn đọc thường chỉ nhớ “Từ góc sân nhà em”, còn từ khi anh trưởng thành có bài gì hay thì liệu mấy người biết đây. Chu Đình An không phải thần đồng, nhưng càng cao tuổi thì thơ ông càng hay. Chu Đình An duy trì được “phong độ” thơ của mình như vậy, phải chăng, ngoài chút năng khiếu trời phú, còn do ông đam mê, miệt mài làm thơ suốt hơn nửa thế kỷ:
Càn khôn đẽo gọt một thời
ủ trong cát bụi nảy chồi đơm hoa
Đêm ngày thao thiết lòng ta
Dòng sông thơ vắt ngang qua đỉnh trời.
ủ trong cát bụi nảy chồi đơm hoa
Đêm ngày thao thiết lòng ta
Dòng sông thơ vắt ngang qua đỉnh trời.
Bao nhiêu thao thiết, đau khổ, nhọc nhằn với thơ - với đời để có được mùa thu hoạch nảy chồi đơm hoa, để dòng thơ vắt ngang qua đỉnh trời thì cũng đáng lắm, tự hào lắm. Hình ảnh, tứ thơ như vụt lóe, sự giao thoa giữa ý và tình, thể hiện rõ ý tưởng và cảm xúc mạnh mẽ, khát vọng lớn lao của tác giả.
Quả là Chu Đình An yêu thơ đến đam mê, nhưng xét đến cùng thơ cũng chỉ là phương tiện để ông thể hiện tình yêu quê hương đất nước, yêu người, yêu đời của mình. Những địa danh đất nước như Thăng Long – Hà Nội, Đống Đa, Ba Đình, núi Phật Bà, Ninh Bình, Tản Viên, Vườn Vải, động Phong Nha, cổng trời Tam Đảo, bình minh Hà Nội, Hương Sơn... mà ông có dịp đến thăm đã đi vào thơ ông một cách tự nhiên, chân thực và hiển hiện thật đẹp:
Núi biếc bao phen say chiến trận
Ngàn xanh mấy độ tiến quân ca
Suối luồn cõng đá lưng không mỏi
Nước lượn xuyên đèo dốc vẫn qua
(Động Phong Nha)
Ngàn xanh mấy độ tiến quân ca
Suối luồn cõng đá lưng không mỏi
Nước lượn xuyên đèo dốc vẫn qua
(Động Phong Nha)
Chu Đình An dành cho quê hương Đại An – Nam Thắng của mình tình yêu tha thiết nhất. Ông lấy tên xã Nam Thắng quê ông làm bút danh của mình. Bài “Quê hương xanh” ông viết năm 1961 có câu “Vươn tới năm hai ngàn”... “Đại An mình giàu sang”, ngày nay thực tế đã chứng minh điều ông mơ ước, tiên đoán là đúng. Trong ông luôn thường trực niềm tự hào về quê có Trang nguyên Nguyễn Hiền trẻ nhất trong lịch sử nước ta, nơi có “Tiến sĩ, Trạng nguyên bia đá tạc”. Biền biệt những năm tháng xa quê, những hình ảnh thân thuộc của quê luôn hiển hiện trong nỗi nhớ của ông. Con đê, đồng lúa xanh, bãi dâu xanh, sông Hồng đỏ phủ sa, cảnh chợ làng, người dân quê... đều trở thành nguồn cảm hứng trong thơ ông.
Mẹ nghèo dãi nắng dầm mưa
Thương con tôm tép trách trưa hờn chiều
Hoàng hôn bóng chợ liêu xiêu
Hồn quê ôm ấp bao điều xa xôi.
(Chợ làng)
Thương con tôm tép trách trưa hờn chiều
Hoàng hôn bóng chợ liêu xiêu
Hồn quê ôm ấp bao điều xa xôi.
(Chợ làng)
Ông viết về những người con gái quê mình bằng những hình ảnh tuyệt mỹ với tấm lòng yêu mến biết bao: “Người con gái quê anh / Trên đầu em đội nắng / áo ướt đẫm mồ hôi / Cơm ăn chẳng được ngồi”, khi “Sáng sớm giọt sương rơi / Long lanh đầu lá cỏ” đã “Vin cành hái lá dâu”, chiều về trên đường làng “Đôi chân em thoăn thoắt / Nặng trĩu gánh tơ vàng”.
Những bài viết về người thân, tác giả thường dùng thể thơ tự do để cho cảm xúc, tình cảm được tung hoành. Tuy những bài này chất thơ không nhiều, nhưng tình cảm chân thật đến hồn nhiên của ông đã làm cho bài thơ “đứng” được trong lòng người đọc.
Dẫu con đã vào trường đại học
Bố mẹ vẫn coi như bé dại trong đời
(Thơ gửi con trai)
Thao thức thâu canh buồn ứa lệ
Con ngoan có hiểu thấu tình cha
(Mưa đêm)
Bố mẹ vẫn coi như bé dại trong đời
(Thơ gửi con trai)
Thao thức thâu canh buồn ứa lệ
Con ngoan có hiểu thấu tình cha
(Mưa đêm)
Tâm lý của những người làm cha mẹ coi con còn thơ dại dù con đã trưởng thành là rất phổ biến, “nước mắt chảy xuôi” mà, tấm lòng cha mẹ đối với con cái sâu sắc và rộng lớn bao la. Cha mẹ luôn lo lắng cho con, nhưng con cái mấy ai hiểu thấu lòng cha mẹ. Mong sao con hiểu lòng cha yêu con vô hạn là trạng thái tâm lý chân thực và phổ biến. Tâm trạng đó cũng là tâm trạng chung của tất cả những người làm cha mẹ.
Tôi tin một điều là hình ảnh đẹp của các cô gái, của các “Em”, của người tình trong thơ ông đều có phần lấy từ hình ảnh vợ ông. Tôi đã mấy lần được nói chuyện về thơ, về đời với bà, tôi càng tin điều tôi nghĩ là đúng. Bà tuy không biết làm thơ, nhưng vì yêu chồng nên bà cũng yêu thơ. Bà chăm chút, khuyến khích, tạo điều kiện tốt nhất cho ông đeo đuổi nghiệp thơ. Bà cũng là độc giả đầu tiên đọc và góp ý thơ ông. Có lần bà sôi nổi tranh luận với tôi để bảo vệ thơ ông, mà ý kiến của bà lại rất giản dị và có lý. Thế nên ông yêu quý và biết ơn bà:
Em yêu thơ rất lạ
Không cùng anh đồng hành
Chỉ ra đề bật mí
Nảy mầm thơ vươn xanh
(Em)
Không cùng anh đồng hành
Chỉ ra đề bật mí
Nảy mầm thơ vươn xanh
(Em)
Khi “Xa em anh làm thơ / Cho đời khỏi bơ vơ”, “Những đêm ngày chiến đấu” ông giữ tấm hình vợ trong túi ngực coi như báu vật, và “Yêu em đến ngẩn ngơ”.
Về nghệ thuật, Chu Đình An làm cả thơ cách luật và thơ tự do, nhưng chủ yếu là thơ cách luật. Ông trung thành với quan điểm thơ phải có ngôn ngữ hàm súc, cô đọng, giàu hình ảnh, nhịp điệu, có vần, có tứ. Ngay cả những bài thơ theo thể tự do của ông cũng rất giàu tính nhịp điệu của ngôn từ và hài hòa âm thanh - vần điệu. Sở trường của ông là thơ cách luật. Lạc nẻo đường trăng gồm 63 bài thì chỉ có dăm bài theo thể thơ tự do, còn hầu hết là thơ cách luật (15 bài lục bát, 2 bài song thất lục bát, 17 bài thơ 5 chữ, 1 bài thơ 6 chữ, 3 bài tứ tuyệt, còn lại là thơ Đường luật...). Thơ lục bát của ông mượt mà, ngôn ngữ chắt lọc. Khi ông viết “Trời xôn xao, biển xôn xao / Buông câu thơ thả vượt rào vũ môn” thì sức tưởng tượng của ông đã như cá hóa rồng, vượt khỏi đời thường mà ra ngoài vũ trụ.
Những bài thuộc dạng vịnh cảnh, ông thường dùng thể thơ Đường luật. Ông rất chú trọng yêu cầu về niêm, luật bằng trắc, vần, đối, nhịp điệu. Đây là hai câu thực tả cảnh Yên Tử trong bài “Lên Yên Tử”:
Những bài thuộc dạng vịnh cảnh, ông thường dùng thể thơ Đường luật. Ông rất chú trọng yêu cầu về niêm, luật bằng trắc, vần, đối, nhịp điệu. Đây là hai câu thực tả cảnh Yên Tử trong bài “Lên Yên Tử”:
Gieo gió trên không kinh vang vọng
Rắc sương dưới dốc nắng vàng reo
Rắc sương dưới dốc nắng vàng reo
Còn đây là cảnh “Thung lũng vùng quanh”:
Uốn éo đèo cao đường khập khễnh
Vòng vèo dốc dựng lối chông chênh
Thung thăng bướm lượn râu tênh vểnh
Loáng thoáng ong bay cánh phập phềnh
Vòng vèo dốc dựng lối chông chênh
Thung thăng bướm lượn râu tênh vểnh
Loáng thoáng ong bay cánh phập phềnh
Quả là tác giả đã tiếp thu được tinh hoa thơ của các tiền nhân Hồ Xuân Hương, Nguyễn Khuyến, Bà Huyện Thanh Quan, Trần Tế Xương... không chỉ ở niêm, luật, nhịp điệu mà còn trong việc sử dụng từ ngữ . Các động từ, tính từ trong thơ Chu Đình An thường rất gợi cảm, gây ấn tượng khó quên cho người đọc. Chẳng hạn các động từ được sử dụng rất gợi cảm, lạ và táo bạo trong câu:
Hoa móng rồng ngát lạ
Hoàng hôn về cuỗm đi
(Trời xuân tươi)
Hoàng hôn về cuỗm đi
(Trời xuân tươi)
Hoặc câu:
Sương đêm vắt vẻo cành đào
Bình minh em đã lẻn vào hồn tôi
(Bỗng dưng)
Bình minh em đã lẻn vào hồn tôi
(Bỗng dưng)
Đọc Lạc nẻo đường trăng, ta luôn bắt gặp những câu, những từ rất gợi cảm, nâng bài thơ lên rất nhiều như “Nghẹn trời mây”, “Hờn đất đá”, “Thẹn núi đồi” (khi nói về cái oan của Nguyễn Trãi), “Moi tan núi”, “Ngoáy đổ ngàn” (nói về bọn tham nhũng), “Trăng sóng xoài vòm cây”, “Đồng lúa xôn xao ướp nắng vàng”, “Nêm câu chào hỏi”, “Lách hương gió nội”... Có thể coi đây là cái riêng của Chu Đình An.
Phần cuối của Lạc nẻo đường trăng có 9 bài chân dung (chọn trong số 25 bài chân dung ông đã viết). Từng quen biết và đọc tác phẩm của Nhà nghiên cứu Đỗ Huy Vinh, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định, tôi rất thú khi “Chân dung 6” đã vẽ ra rất rõ và đúng tính tình, phong cách ông:
Không đò thì xắn quần lên
Này thơ, này sách, này đèn, này đây...
Thơ ông vai sánh chốn này
Hàng Thao em bé tháng ngày xôn xao...
... Mắm tôm nhoe nhoét mời chào...
Này thơ, này sách, này đèn, này đây...
Thơ ông vai sánh chốn này
Hàng Thao em bé tháng ngày xôn xao...
... Mắm tôm nhoe nhoét mời chào...
Mảng thơ chân dung của Chu Đình An có nét riêng, không giống với thơ chân dung của tác giả khác, đọc và suy ngẫm cũng có nhiều thú vị.
Tôi cứ gờn gợn tiếc một điều ở cái đề bài “Tiếng đàn”: Tác giả suy ngẫm quan hệ thiên, địa, nhân để nói về sự nhỏ nhoi, quá mỏng manh của một đời người như hạt sương bay mà lại đặt tên bài là “Tiếng đàn” thì... Sao không giữ nguyên cái đề trong bản thảo là “Hạt sương bay” nhỉ.
Dù vậy, với Lạc nẻo đường trăng, Chu Đình An góp thêm một dòng chảy lấp lánh phù sa bồi đắp cánh đồng thơ Nam Định, Việt Nam.
Thành Nam, ngày 12 – 2 – 2011
Tiến sĩ Phạm Đạo Phú - Một Ngôi Sao Trong Tao Đàn Nhị Thập Bát Tú
1- Phạm Đạo Phú (có sách chép nhầm là Nguyễn Phú Đạo, Nguyễn Đạo Phú) sinh năm Quang Thuận 4(1463), mất năm Nguyên Hoà 7(1539), quê ở làng Hoàng Xá, huyện Đại An (nay là thôn Phạm Xá, xã Yên Nhân, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định).
Phạm Đạo Phú là một nhà khoa bảng Nam Định nổi tiếng về văn học. Ông là một ngôi sao trong Tao Đàn nhị thập bát tú thời Lê Thánh Tông. Trong tiềm thức dân gian, tên tuổi ông thường gắn liền với tên tuổi người em họ của ông là Hoàng giáp Đại tướng đổng quân Phạm Bảo. Hai anh em ông liên tiếp cùng đỗ đại khoa, cùng làm quan một triều, cùng được tôn làm phúc thần và được thờ chung trong một ngôi đền.
Phạm Bảo (có sách chép là Phạm Nguyễn Báu) đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18(1487) đời Lê Thánh Tông. Sau khi đỗ đại khoa, ông được bổ làm Phó đô ngự sử ở Ngự sử đài, giúp cho Đô ngự sử chuyên lo việc can gián nhà vua và thanh tra các quan lại trong cả nước. Do ông rất giỏi võ nghệ nên vua Lê Thánh Tông chuyển ông sang ngạch vũ giai. Lúc đầu ông giữ chức Chưởng quản Nội thị, sau được thăng đến Đại tướng Đổng quân. Ông từng được cử cầm quân đi chiêu dụ Ai Lao, đánh dẹp giặc Ngọc Lâu nổi loạn ở miền Hưng Hoá. Năm Hồng Đức 23(1492) trại của Đa La Lý họp người Man Cam Cát nổi loạn, triều đình cử ông cùng Đại tướng Trần Tường mang quân đi đánh dẹp. Ông có công bắt sống Đa La Lý, chiêu an được các Man động nên vua Lê phong cho ông là Võ huân tướng quân Tả hiệu điểm, giữ chức Trấn thủ Nghệ An. Năm Cảnh Thống 4(1501) đời Lê Hiến Tông, ông hộ giá vua thân chinh đi đánh đồn Bổn Man, giữa đường thì mất. Vua thương xót ông là người văn võ song toàn, có nhiều công lao hiển hách nên truy phong cho ông hàm Thiếu uý và ban tên thuỵ là Vũ Thành. Linh cữu của ông được đưa về an táng tại làng Hưng Thịnh, huyện Đại An. Lăng mộ ông hiện nay vẫn còn ở xứ Mả Người, đường Đồng Tân, thôn Hưng Thịnh (thuộc huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Năm Quang Hưng 18(1595) đời Lê Thế Tông, ông được phong làm phúc thần và được lập đền thờ tại làng Hưng Thịnh.
Người anh họ của Phạm Bảo là Phạm Đạo Phú cũng nổi tiếng thông minh, học giỏi từ nhỏ. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất niên hiệu Hồng Đức 21(1490) đời Lê Thánh Tông. Năm Hồng Đức 26(1495) ông được giao chức Hàn lâm viện Hiệu kiểm (tức Hàn lâm viện Kiểm thảo sau này), chuyên lo việc kiểm thảo các văn thư ở Viện Hàn lâm. Sau ông lại được thăng đến chức Hình bộ Tả thị lang, một chức quan cao cấp ở bộ Hình, chỉ đứng sau Thượng thư và Tham tri, mang hàm Chánh tam phẩm, giúp Thượng thư trông coi việc pháp luật, duyệt lại những tội nặng án ngờ, tra xét kỹ những tù giam ngục cấm. Ông làm quan cần mẫn trải bảy đời vua: Thánh Tông, Hiến Tông, Túc Tông, Uy Mục Đế, Tương Dực Đế, Chiêu Tông, Cung Hoàng. Cùng với Phạm Bảo, ông được người đời đánh giá là "Anh em cùng nhau nối tiếp trước sau, trọn vẹn tiếng tốt ở đương thời"(Văn bia ở miếu thờ hai ông đỗ đại khoa ở làng Hưng Thịnh do Hoàng giáp Phạm Văn Nghị soạn).
Năm Đinh Hợi niên hiệu Thống Nguyên 6(1527) Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Phạm Đạo Phú một lòng trung thành với nhà Lê đã treo ấn từ quan về quê dạy học. Nhà Mạc nhiều lần triệu ra làm quan nhưng ông kiên quyết từ chối. Thực chất những năm về ở ẩn, Phạm Đạo Phú ngầm chiêu tập nghĩa binh dưới hình thức mở trường dạy học để mưu nổi dậy chống nhà Mạc. Việc không thành, ông cho con cháu đổi họ Phạm thành họ Ngô để đề phòng nhà Mạc trả thù. Con cháu ông mang họ Ngô nhưng vẫn trông coi từ đường họ Phạm. Gần đây con cháu ông đã được chính quyền sở tại cho phép đổi họ Ngô trở lại họ Phạm.
Ngày 2 tháng 8 năm Nguyên Hoà 7(1539) Phạm Đạo Phú mất. Lăng mộ ông hiện nay ở gò Con Ngựa, xứ đồng Mả Cả, đường Trung Đồng, thôn Hưng Thịnh, xã Hoàng Nam, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định. Sau khi ông mất, vua Lê Thế Tông xếp ông vào hàng các trung thần của triều Lê, truy tặng ông hàm Tham tri và ban tên thuỵ là Trung ý Trung đẳng thần, sức cho dân bản xã lập đền thờ làm phúc thần. Năm Tự Đức 7(1854) dân làng Hưng Thịnh lấy số hoa lợi "Cấp tứ" (20 mẫu ruộng do triều Lê Trung Hưng cấp cho dân làng làm hương hoả thờ cúng Phạm Đạo Phú gọi là ruộng "Cấp tứ") và tiền khao vọng hơn 3000 quan xây dồn đền thờ ông với đền thờ Phạm Bảo. Bài vị thờ ông ghi là: "An dân trấn quốc hiển sĩ binh thần tuấn lương đại vương".
Hiện nay đền thờ hai anh em Phạm Đạo Phú ở thôn Hưng Thịnh, xã Hoàng Nam, huyện Nghĩa Hưng được thờ chung với Thuỷ thần. Trải các triều đại phong kiến, các vua chúa đời sau đều có sắc phong để nhân dân hai làng Hưng Thịnh và Phạm Xá thờ cúng hai anh em ông.
2 - Về quê quán của hai anh em Phạm Đạo Phú, các tài liệu viết không thống nhất. Một số tài liệu chép quê các ông ở làng Hưng Thịnh, huyện Đại An. Một số tài liệu lại viết quê các ông là làng Hoàng Xá, huyện Đại An. Theo "Hương chỉ" của làng Hưng Thịnh, anh em Phạm Đạo Phú là những người có công sáng lập làng Hưng Thịnh. Người đầu tiên khai phá vùng đất Hưng Thịnh là ông Nguyễn Đại Lang, thứ hai là anh em Phạm Đạo Phú và Phạm Bảo. Hai anh em ông đã cùng bà con khai khẩn đất hoang, tạo lập thành làng. Lúc đầu đặt tên là làng Hưng Phú. Dần dần làng Hưng Phú ngày thêm trù phú và đông đúc mới đổi lại là làng Hưng Thịnh. Phạm Đạo Phú sau khi từ quan về dạy học đã sống đến hết đời ở làng Hưng Thịnh. Có lẽ vì thế mà có tài liệu chép quê ông là làng Hưng Thịnh chăng. Sau khi anh em ông mất, thi hài hai ông đều được an táng ở làng, đều được làng Hưng Thịnh thờ làm Phúc thần. Trong đền thờ hai ông có câu đối:
Sơn nhạc giáng thần cố lý tân từ linh tích tại
Văn chương minh thế thạch bi kim bảng thịnh danh truyền.
(Núi lớn giáng thần, dấu thiêng thiêng ở làng xưa đền mới
Văn chương sáng sủa, tiếng tốt đẹp truyền bia đá bảng vàng).
Văn chương minh thế thạch bi kim bảng thịnh danh truyền.
(Núi lớn giáng thần, dấu thiêng thiêng ở làng xưa đền mới
Văn chương sáng sủa, tiếng tốt đẹp truyền bia đá bảng vàng).
Gần ngôi đền thờ Phạm Đạo Phú có tấm bia đá do Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị soạn nói về hành trạng của hai anh em ông, có câu:
"Sinh vi danh thần, tử vi phúc thần, nhi miếu ủ ấp cổ lai hãn hỹ"
(Sống là danh thần, khi mất làm phúc thần mà đền miếu ở quê nhà, từ xưa đến nay quả là hiếm vậy).
Như vậy, làng Hưng Thịnh là nơi hai anh em Phạm Đạo Phú có công tạo lập, còn quê quán của các ông chính là làng Phạm Xá. Theo gia phả họ Phạm ở làng Phạm Xá (nay thuộc xã Yên Nhân, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định) thì ông bà, cha mẹ Phạm Đạo Phú là những người đầu tiên đến khai phá vùng ven biển Đại An. Lúc đầu dân cư còn thưa thớt, làng còn nghèo nàn, những người khai phá vùng đất này thành lập trại cô bần. Sau làng đông đúc và trù phú mới đặt tên làng là Hoàng Xá. Tương truyền, sau khi anh em Phạm Đạo Phú đỗ đại khoa, làng Hoàng Xá được đổi thành làng Phạm Xá để ghi nhớ sự vinh hiển của con cháu họ Phạm. Từ đường họ Phạm có bức hoành phi đề là "Văn minh tổ" (Tổ khai sáng văn minh). Cũng ở làng Phạm Xá hiện còn có ngôi đình thờ anh em Phạm Đạo Phú, gọi là đình ông Nghè. Trong đình có một số bia ghi công đức của những người đóng góp tu sửa đình và hơn vài chục câu đối bằng chữ Hán khắc vào cột đá của các bậc đại khoa đời sau đề tặng. Câu đối của Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh, người làng Chân Mỹ, huyện Đại An (nay thuộc làng Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định) viết là :
Tích Lê triều Hồng Đức thái bình thiên, Đinh Mùi, Canh Tuất lưỡng khoa phật kinh liên kế;
Kim Nam quận Đại An văn vật địa, Phạm Xá, Hưng Thịnh nhị xã thần miếu tương vương.
(Xưa Hồng Đức triều Lê, trời thanh bình, Đinh Mùi, Canh Tuất hai khoa liền nhau đỗ đạt.
Nay quận Đại An nước Nam, đất văn vật, Phạm Xá, Hưng Thịnh hai xã cùng thờ miếu thần).
Kim Nam quận Đại An văn vật địa, Phạm Xá, Hưng Thịnh nhị xã thần miếu tương vương.
(Xưa Hồng Đức triều Lê, trời thanh bình, Đinh Mùi, Canh Tuất hai khoa liền nhau đỗ đạt.
Nay quận Đại An nước Nam, đất văn vật, Phạm Xá, Hưng Thịnh hai xã cùng thờ miếu thần).
Trước hiên đình có câu đối của Hoàng giáp La Ngạn Đỗ Huy Liêu (người làng La Ngạn, huyện Đại An nay là thôn La Ngạn, xã Yên Đồng, huyện ý Yên, tỉnh Nam Đinh) như sau:
Hồng Đức đương thiên huynh đệ bảng
Nha thành thử địa cổ kim danh.
(Anh em đề bảng thời Hồng Đức ấy,
Muôn thuở lừng danh đất Nha Thành này).
Nha thành thử địa cổ kim danh.
(Anh em đề bảng thời Hồng Đức ấy,
Muôn thuở lừng danh đất Nha Thành này).
Nha Thành còn có tên là cửa Nha ác. Vùng đất Hưng Thịnh, Phạm Xá xưa kia liên tiếp nhau chính là cửa biển Đại ác (sau đối là Đại An). Ngày nay hai làng này ngăn cách nhau bởi cửa sông Độc Bộ và thuộc hai huyện khác nhau: Hưng Thịnh thuộc xã Hoàng Nam của huyện Nghĩa Hưng, Phạm Xá thuộc xã Yên Nhân của huyện Ý Yên.
3 - Hai anh em họ Phạm đều xuất thân là những vị đại khoa nhưng Phạm Bảo nổi tiếng về võ công hiển hách, Phạm Đạo Phú lại nổi tiếng có tài văn học. Ngay từ nhỏ Phạm Đạo Phú đã thông minh, học giỏi, có tiếng là làm từ phú hay. Năm Hồng Đức 21(1490) đỗ Tiến sĩ thì ngay năm sau (1491) ông được vua Lê Thánh Tông cho cùng về thăm Lam Kinh với một số quần thần khác. Trong chuyến đi này vua tôi cùng xướng hoạ thi ca, chép lại thành tập gọi là "Văn minh cổ xuý" . Phạm Đạo Phú có 6 bài thơ phụng hoạ trong tập này. Năm Hồng Đức 26(1495) vua Lê Thánh Tông thành lập Tao Đàn hội. Phạm Đạo Phú được chọn làm Hội viên chính thức. Nhân hai năm Quý Sửu (1493) và Giáp Dần (1494) được mùa liền, vua Lê Thánh Tông làm 9 bài thơ gọi là Quỳnh Uyển cửu ca, chọn 28 văn thần ứng với 28 ngôi sao trên trời phong làm Tao Đàn nhị thập bát tú, có nhiệm vụ phụng bình, phụng canh, phụng hoạ các bài thơ của vua. Hai mươi tám ngôi sao đó là: Giác, Khang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chuỷ, Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Chương, Dực, Chẩn. Phạm Đạo Phú được xếp ở vị trí thứ 27 (tức là sao Dực) trong số 28 ngôi sao trên đàn văn chương này.
Mặc dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn (từ năm 1495 đến năm 1497) Tao Đàn hội vẫn được coi là một thi xã cung đình đầu tiên, có quy mô khá lớn ở nước ta. Tao Đàn hội do vua Lê Thánh Tông làm Nguyên suý. Các hội viên được chọn lọc trong hàng ngũ quan lại cao cấp, có học vị từ Đồng Tiến sĩ đến Trạng nguyên. Tôn chỉ mục đích của hội được nhà vua nói rõ trong bài Tựa và trong chùm thơ Quỳnh Uyển cửu ca. Tôn chỉ mang ý nghĩa chính trị và giáo dục sâu sắc, góp phần bảo vệ hoà bình và xây dựng đất nước ngày càng phồn thịnh. Hai vị Đông các Đại học sĩ Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận được phong là Phó nguyên suý. Ngoài 28 hội viên chính thức của hội, vua Lê Thánh Tông còn phong cho Trạng nguyên Lương Thế Vinh và Tiến sĩ Sái Thuận chức Tao Đàn sái phu, có nhiệm vụ "quét dọn" (biên tập) các sáng tác của hội. Cơ cấu của hội mang tính chất khoa học nhiều mặt: sáng tác, bình văn, thẩm văn, nhuận sắc văn. Tác phẩm chủ yếu của hội là Quỳnh Uyển cửu ca (Chín khúc ca trong vườn Quỳnh) gồm hơn hai trăm bài thơ xướng hoạ. Chín bài thơ xướng của Lê Thánh Tông có đầu đề là:
- Sửu, Dần nhị tuế, bách cốc phong đăng hiệp vu ca vịnh ký kỳ thuỵ (Hai năm Sửu, Dần mùa màng tươi tốt, làm thơ phổ vào lời ca để ghi lại điềm lành ấy). Viết tắt là: Bách cốc phong đăng.
- Quân đạo (Đạo làm vua).
- Thần tiết (Tiết tháo bề tôi).
- Dư tĩnh toạ thâm cung hà tư cổ tích, quân minh thần lương, dữ đương kim cơ nghiệp chi thịnh, ngẫu thành nhất luật (Ta ngồi trong chính điện, nghĩ tới các bậc vua sáng tôi hiền ngày xưa và cơ nghiệp thịnh trị ngày nay, ngẫu nhiên làm một bài thơ). Viết tắt là : Quân minh thần lương.
- Dư độc thư chi bạ, dao tưởng anh hiền, tự dư thi hoài triển chuyển, ngẫu thành nhất luật (Ta trong lúc đọc sách rỗi, nghĩ tới các bậc tài giỏi, ý thơ trăn trở, bỗng thành một bài thơ). Viết tắt là Dao tưởng anh hiền.
- Kỳ khí (Khí tiết kỳ diệu).
- Thư thảo hý thành (Đùa thành bài thơ về viết thảo).
- Văn nhân (Văn nhân).
- Mai hoa (Hoa mai).
- Thần tiết (Tiết tháo bề tôi).
- Dư tĩnh toạ thâm cung hà tư cổ tích, quân minh thần lương, dữ đương kim cơ nghiệp chi thịnh, ngẫu thành nhất luật (Ta ngồi trong chính điện, nghĩ tới các bậc vua sáng tôi hiền ngày xưa và cơ nghiệp thịnh trị ngày nay, ngẫu nhiên làm một bài thơ). Viết tắt là : Quân minh thần lương.
- Dư độc thư chi bạ, dao tưởng anh hiền, tự dư thi hoài triển chuyển, ngẫu thành nhất luật (Ta trong lúc đọc sách rỗi, nghĩ tới các bậc tài giỏi, ý thơ trăn trở, bỗng thành một bài thơ). Viết tắt là Dao tưởng anh hiền.
- Kỳ khí (Khí tiết kỳ diệu).
- Thư thảo hý thành (Đùa thành bài thơ về viết thảo).
- Văn nhân (Văn nhân).
- Mai hoa (Hoa mai).
Tiến sĩ Phạm Đạo Phú làm đủ cả 9 bài thơ phụng hoạ các bài thơ xướng của vua Lê Thánh Tông. Phạm Đạo Phú là người duy nhất ở vùng đất Nam Định được mời làm hội viên chính thức của hội thơ nổi tiếng này. Nam Định còn có Trạng nguyên Lương Thế Vinh được phong làm Tao Đàn sái phu, nhưng không phải là hội viên chính thức của hội. Việc được Lê Thánh Tông, vị vua nổi tiếng tài đức chọn làm hội viên chính thức của Tao Đàn hội đã chứng tỏ Phạm Đạo Phú là người có tài có đức, đặc biệt về văn thơ.
Năm Cảnh Thống 1(1498) dựng bia Quang Thục thái hoàng thái hậu ở Lam Kinh, khắc bài thơ khóc bà của vua Lê Hiến Tông và thơ của 36 vị quần thần khác. Phạm Đạo Phú có một bài thơ được chọn khắc trong bia này. Bài thơ của ông tình cảm rất thống thiết, có câu:
Xuất thổ quần sinh mộng ủ hú
Bất thăng cảm đức lộ triêm cân.
(Cõi đất muôn loài ơn ấp ủ
Xót thương mến đức lệ trào khăn).
Bất thăng cảm đức lộ triêm cân.
(Cõi đất muôn loài ơn ấp ủ
Xót thương mến đức lệ trào khăn).
Sự nghiệp thơ văn của Phạm Đạo Phú còn lại không nhiều. Con cháu họ Phạm ở Phạm Xá còn lưu giữ được một tập thơ chiêu hồn bằng chữ Nôm chép lại vào năm 1913, đề là: "Do tướng công Phạm Đạo Phú soạn, Khiếu Năng Tĩnh viết lời bạt". Phần thơ xướng hoạ của ông còn 15 bài chép trong các sách Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xuý, Lê triều thi tập, Cúc Đường thi tập, Quỳnh Uyển cửu ca, Toàn Việt thi lục.
Thơ Phạm Đạo Phú lời lẽ giản dị, khiêm nhường, rất ít dùng điển cố. Hai vị Phó nguyên suý của Tao Đàn hội là Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận đã từng bình thơ ông là: "Phá, kết ý hảo. Dư diệc bình thường" (Câu mở đầu và câu kết có ý hay, ngoài ra bình thường).
Trong khuôn khổ của các bài thơ hoạ nguyên vận, các sáng tác của Phạm Đạo Phú cũng như của những Tao Đàn hội viên khác đều có hạn chế là khuôn sáo, cầu kỳ, tư tưởng tình cảm bị gò bó. Dẫu sao thơ ông vẫn mang những yếu tố tích cực nhất định. Đó là sự thể hiện tấm lòng yêu nước thiết tha, tự hào về truyền thống vinh quang của ông cha, và nhất là sự quan tâm đến nhân dân, mong muốn cho dân giàu nước mạnh. Trong bài "Phụng hoạ ngự chế: Bách cốc phong đăng" ông đưa ra tiền đề:
Tuế lũ kim nhương thượng thuỵ đẳng
(Đã bao năm được mùa lúa vàng).
(Đã bao năm được mùa lúa vàng).
ở câu kết của bài này ông viết :
Tứ dã nghiêu dân tư hạo hạo
(Khắp chốn thôn dã dân lành vui vẻ hớn hở).
(Khắp chốn thôn dã dân lành vui vẻ hớn hở).
Bài thơ đã diễn đạt rất đúng tâm trạng vui vẻ của người nông dân khi được mùa, thể hiện sự cảm thông của tác giả đối với nhân dân lao động. Không chỉ cảm thông với người nông dân mà ông còn ước mong cho dân có được đời sống yên ổn, thanh bình:
Cửu tự cửu ca quân thánh hoá
Khang cù kích nhưỡng lạc Nghiêu niên.
(Bài Phụng hoạ ngự chế : Quân đạo )
(Chín khúc ca vui là sự giáo hoá của bậc thánh nhân,
Dân lành vui vẻ trong cảnh thái bình của vua Nghiêu).
Khang cù kích nhưỡng lạc Nghiêu niên.
(Bài Phụng hoạ ngự chế : Quân đạo )
(Chín khúc ca vui là sự giáo hoá của bậc thánh nhân,
Dân lành vui vẻ trong cảnh thái bình của vua Nghiêu).
Triều đại vua Lê Thánh Tông là thời đại thịnh trị nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Thời kỳ này mọi mặt kinh tế, văn hoá, giáo dục... đều phát triển và có nhiều thành tựu đáng kể. Phạm Đạo Phú đã ca lên:
Xuân hồi thảo mộc tân tiên nghiên, ... Đa hạnh tư thần phùng thánh đại,
Nguy nguy hiếu trị nhật trung thiên.
(Bài "Phụng hoạ ngự chế : Bái yết Sơn lăng cảm thành"
(Xuân về cây cỏ thảy đều tươi,
...
Vua sáng tôi hiền may mắn gặp,
Xây nền hiếu trị vững muôn đời).
Nguy nguy hiếu trị nhật trung thiên.
(Bài "Phụng hoạ ngự chế : Bái yết Sơn lăng cảm thành"
(Xuân về cây cỏ thảy đều tươi,
...
Vua sáng tôi hiền may mắn gặp,
Xây nền hiếu trị vững muôn đời).
Vua sáng, tôi hiền và nền hiếu trị là ước mơ mong muốn về một xã hội tốt đẹp của ông cũng như của nhân dân ta thời đó. Cho nên ông lấy làm sung sướng được là tôi hiền của vị vua sáng Lê Thánh Tông.
Giữa những bài thơ xướng hoạ thù tạc, ca ngợi vua, ca tụng chế độ phong kiến, mang tính chất khuôn sáo, gò bó, cầu kỳ... lại có được những ý thơ, những câu thơ, những bài thơ quan tâm đến đời sống nhân dân, thể hiện lòng yêu đất nước, yêu dân như của Phạm Đạo Phú là điều rất đáng quý.
Mặc dù thơ Phạm Đạo Phú chỉ còn rất ít, nhưng chỉ với những tác phẩm còn lại đó cũng đủ để ông xứng đáng được ghi nhận là một tác gia của dòng văn học bác học Việt Nam cuối thế kỷ 15 đầu thế kỷ 16 mà lịch sử văn học nước ta không thể không nhắc đến ông.
Thiền Sư Dương Không Lộ (1016 - 1094)
I - Sơ lược tiểu sử Dương Không Lộ
Thiền sư Dương Không Lộ huý Minh Nghiêm, hiệu Khổng Lồ đọc tránh là Không Lộ, biệt hiệu Thông Huyền, quê làng Giao Thuỷ (sau đổi là làng Hộ Xá), phủ Hải Thanh (đời Trần đổi là Thiên Thanh, sau lại đổi là Thiên Trường). Ông sinh ngày 14 tháng 9 năm Bính Thìn niên hiệu Thuận Thiên thứ 7(1016) đời Lý Thái Tổ, tại quê mẹ là làng Hán Lý, phủ Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.
Gia đình Dương Không Lộ sống ở làng Giao Thuỷ, chuyên nghề chài lưới ven sông. Khi lớn lên, ông lấy việc câu cá, quăng chài làm vui và thường du ngoạn nhiều nơi danh lam thắng cảnh, tuỳ hứng ngâm vịnh và sáng tác thơ ca.
Năm Giáp Thân (1044) triều Lý Thái Tông, ông 29 tuổi, bỏ nghề đánh cá để theo học đạo thiền. Ban đầu ông theo học Noãn cư sĩ làng Bảo Tài (chưa rõ nay ở đâu). Sau ông đắc đạo, trở thành Tổ thứ 10 của thiền phái Vô Ngôn Thông, một thiền phái được thành lập ở nước ta vào đầu thế kỷ thứ IX.
Năm Đinh Dậu (1057) ông chuyển sang theo học thiền phái Thảo Đường. Thảo Đường thiền sư từng nhận xét về học trò Không Lộ của mình: “Chú này cốt cách phi phàm, sau này tất làm pháp tự.” Quả nhiên về sau, Không Lộ trở thành Tổ đời thứ 3 của thiền phái Thảo Đường.
Năm Kỷ Hợi (1059), Không Lộ tu tại chùa Hà Trạch, rồi chuyển về tu ở chùa Duyên Phúc (tức chùa làng Hộ Xá) sau đổi là chùa Viên Quang.
Năm Nhâm Dần (1062) Không Lộ cùng Giác Hải và Đạo Hạnh đi Tây Trúc cầu kiến Phật Tổ, được Phật Tổ giác ngộ và truyền cho phép lạ.
Năm Quý Mão (1063) Không Lộ dựng chùa Nghiêm Quang (sau đổi là Thần Quang) tại làng Dũng Nhuệ. Sau do đất lở xuống sông Hồng, chùa được chuyển sang làng Dũng Nghĩa (Vũ Thư, Thái Bình).
Năm Nhâm Tý (1072), Không Lộ cùng Giác Hải chữa khỏi bệnh sợ tắc kè kêu cho vua Lý Nhân Tông. Ông được phong làm Quốc sư. Vua Lý Nhân Tông có bài thơ ca ngợi hai ông như sau :
Giác Hải tâm như hải
Thông Huyền đạo cánh huyền
Thần thông năng biến hoá
Nhất Phật nhất thần tiên.
(Giác Hải lòng tựa biển
Thông Huyền đạo lại huyền
Thần thông hay biến hoá
Một Phật, một thần tiên).
Thông Huyền đạo cánh huyền
Thần thông năng biến hoá
Nhất Phật nhất thần tiên.
(Giác Hải lòng tựa biển
Thông Huyền đạo lại huyền
Thần thông hay biến hoá
Một Phật, một thần tiên).
Có tác giả cho rằng Thông Huyền là đạo sĩ nên vua Lý mới phân biệt “Bên Phật” (chỉ Giác Hải) và “Bên thần tiên” (chỉ Thông Huyền). Nếu đúng Thông Huyền là đạo sĩ thì không thể là Không Lộ. Nhưng về tiểu sử cuả Thông Huyền đạo sĩ thì chưa thấy tác giả nào nêu được, mà Thông Huyền là biệt hiệu của Không Lộ thì một số thư tịch đã nói rõ. Trong bài thơ, có thể tác giả chỉ đơn thuần sử dụng hình tượng Phật và Tiên là những đấng bất tử và có phép nhiệm màu để ca ngợi Giác Hải và Không Lộ mà thôi.
Ngày 3 tháng 6 năm Giáp Tuất (1094), Không Lộ thiền sư viên tịch, thọ 79 tuổi. Ngày 10 tháng 8 năm ất Hợi (1095) Giác Hải thu thập xá lị của Không Lộ, xây tháp để chôn cất, tạc tượng để thờ tại chùa Nghiêm Quang. Vua Lý Nhân Tông xuống chiếu tu sửa chùa, cắt 3.000 hộ hương khói phụng thờ ông.
Do thời gian đã quá xa, thư tịch lịch sử không còn nhiều, tìm hiểu cuộc đời và sự nghiệp của Không Lộ phần lớn dựa vào truyền thuyết và huyền thoại nên còn một số điều chưa rõ ràng, không thống nhất. Một số tác giả cho rằng Không Lộ chính là Minh Không. Chẳng hạn, trong cuốn Không Lộ - Minh Không (Văn hoá dân tộc, 2000) tác giả Lê Xuân Quang chứng minh hai ông là một người. Tác giả Nguyễn Lang cho rằng Không Lộ mất cùng năm mất với Minh Không, nghĩa là Không Lộ cũng là Minh Không. Những cứ liệu mà các tác giả chứng minh rằng Không Lộ là Minh Không đều chưa đủ sức thuyết phục. Một số tác giả khác lại cho rằng Không Lộ và Minh Không là hai người khác nhau. Trong “Bài bạt về việc khảo cứu sự tích đức Thánh tổ ”, Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng đã đưa ra những chứng cứ khá thuyết phục chứng minh Không Lộ không phải là Minh Không. So sánh Chích quái của Nguyễn Quỳnh với chính sử, ông đã chỉ ra những điểm khác nhau rõ ràng giữa Không Lộ và Minh Không:
- Thứ nhất, họ và tên hai người khác nhau: Không Lộ họ Dương huý Minh Nghiêm, Minh Không họ Nguyễn huý Chí Thành.
- Thứ hai, quán chỉ hai ông khác nhau: Không Lộ quê Giao Thuỷ phủ Hải Thanh, Minh Không ở Đàm Xá.
- Thứ ba, năm sinh và năm mất hai ông khác nhau: Không Lộ sinh năm Bính Thìn (1016), Minh Không sinh năm Bính Ngọ (1066), Không Lộ hoá năm Giáp Tuất (1094), Minh Không hoá năm Tân Dậu (1141).
Như vậy, Không Lộ và Minh Không không thể là một người. Có lẽ Không Lộ và Minh Không, người trước người sau đều từng tu ở một chùa, đều có pháp thuật linh hiển, đều được vua Lý phong làm Quốc sư, đều chữa bệnh cho vua Lý (Không Lộ chữa bệnh sợ tiếng tắc kè kêu của Lý Nhân Tông, Minh Không chữa bệnh hoá hổ cho Lý Thần Tông ) nên người đời sau nhầm hai ông là một. Tài liệu liên quan đến Không Lộ phần lớn là truyền thuyết, huyền thoại nên cũng khó xác định đâu là thực, đâu là hư. Tuy vậy, với cãi lõi là lịch sử, các huyền thoại đã thể hiện rõ Không Lộ là một thiền sư nổi tiếng thời Lý, kỳ tài, tâm hồn phóng khoáng và tài thơ văn. Sáng tác của ông hiện không còn nhiều, nhưng đều là những tuyệt tác.
2 - Nhà thơ Dương Không Lộ
Trong các sách giáo khoa văn, các tổng tập và tuyển tập văn học Việt Nam và một số sách khác xuất bản gần đây cho biết Không Lộ chỉ còn hai bài thơ là “Ngôn hoài ” và “Ngư nhàn ”.
Khi chọn được đất làm chùa Nghiêm Quang, ông có bài kệ nổi tiếng mà người đời sau gọi là bài “Ngôn hoài” (Nói nỗi cảm hoài):
Trạch đắc long xà địa khả cư
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái dư.
(Chọn đất long xà tới nghỉ ngơi
Lòng quê vui thích thú thảnh thơi
Núi cao có lúc trèo lên đỉnh
Thét một tiếng vang lạnh cả trời.)
Dã tình chung nhật lạc vô dư
Hữu thời trực thượng cô phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh hàn thái dư.
(Chọn đất long xà tới nghỉ ngơi
Lòng quê vui thích thú thảnh thơi
Núi cao có lúc trèo lên đỉnh
Thét một tiếng vang lạnh cả trời.)
Bài thơ thể hiện nỗi vui mừng khi chọn được đất tốt để xây chùa làm nơi trụ trì, bộc lộ tình cảm bất tận của tác giả đối với đồng quê, thiên nhiên, tạo vật, đất nước. Có khi tác giả trèo lên một đỉnh núi, nhìn ngắm thiên nhiên hùng vĩ, với tâm hồn phóng khoáng, cảm khoái và cao hứng thét lên một hơi dài làm lạnh cả bầu trời. Bài thơ cũng thể hiện tinh thần “Vô chấp giới” nhằm đạt tới sự tự do hoàn toàn, giải phóng bản thể mà hoà nhập với vũ trụ theo quan điểm nhà Phật “Vạn vật nhất thể ”. Câu kết của bài thơ, “Trường khiếu nhất thanh hàn thái dư” - Thét một tiếng dài làm lay động cả bầu trời là hình ảnh hào hùng, sảng khoái hiếm thấy trong lịch sử thơ thiền Việt Nam.
“Ngư nhàn” cũng là một bài thơ đặc sắc của Không Lộ. Bài thơ là một bức tranh phong cảnh sơn thuỷ sinh động và tuyệt đẹp: Dòng sông xanh liền với trời bát ngát, bãi dâu chen mọc, làn khói toả thanh bình trong thôn xóm, bác chài ngủ ngon lành trong thuyền khi tỉnh giấc thấy thuyền đầy hoa tuyết... Bài thơ mang cảm xúc thiền học tinh tế, trong trẻo, thể hiện trạng thái tâm hồn lâng lâng trong cõi không hư, mông lung và huyền ảo:
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên,
Ngư ông thuỵ trước vô nhân hoán
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.
(Bát ngát sông xanh, bát ngát trời,
Một thôn mây khói, một dâu gai.
Ông chài ngủ tít không người gọi,
Tỉnh dậy thuyền trưa ngập tuyết rơi).
(Ngọc Liên dịch)
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên,
Ngư ông thuỵ trước vô nhân hoán
Quá ngọ tỉnh lai tuyết mãn thuyền.
(Bát ngát sông xanh, bát ngát trời,
Một thôn mây khói, một dâu gai.
Ông chài ngủ tít không người gọi,
Tỉnh dậy thuyền trưa ngập tuyết rơi).
(Ngọc Liên dịch)
Có tác giả cho rằng bài “Ngư nhàn” không phải của Dương Không Lộ, mà là của Hàn Ô (Trung Quốc). Việc hai nhà thơ lớn cách xa nhau ngàn dặm có tứ thơ trùng nhau cũng là lẽ thường. Khẳng định “Ngư nhàn” không phải là của Dương Không Lộ cũng cần phải được khảo cứu kỹ lưỡng. Hơn nữa, cảm xúc và những hình ảnh được sử dụng trong bài thơ rất phù hợp với tâm hồn phóng khoáng và cuộc sống thực tế của ông chài sông nước - nhà thơ thiền sư Dương Không Lộ.
Trong dân gian và một số tài liệu chữ Hán như Hoàng triều thông chí thần phật môn Thiên tiên Phật thánh lục (không rõ tác giả), Sự tích đức Thánh tổ (Đặng Xuân Bảng biên soạn)... cho biết ngoài hai bài trên, Không Lộ còn một số bài khác (không có tiêu đề) sáng tác mỗi khi cao hứng. Việc xác định các bài thơ này có đúng là của Không Lộ không, còn cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng. Chúng tôi không đi sâu phân tích cái hay của thơ ông, mà chỉ nêu ra một số bài để bạn đọc tham khảo.
Năm 62 tuổi, một hôm Không Lộ đang tĩnh toạ thì chú tiểu hỏi: “Từ khi tôi đến đây chưa được thầy dạy cho tâm yếu ” . Không Lộ trả lời: “Chú đem kinh cho ta thì ta tiếp, đem nước cho ta thì ta nhận, lúc nào ta cũng dạy tâm yếu chú ” rồi cười và đọc bài kệ sau:
Đoàn luyện tâm thâm thuỷ đắc tinh
Sâm sâm trực thượng đối hư đình
Hữu nhân lai vấn không không pháp
Thân toạ bình biên ảnh tập hình.
(Tu luyện bao phen phép đã tinh
Muốn lên đối phó chốn hư đình
Không không nhẽ đó nào ai biết
Ngồi tựa bình phong, bóng ẩn hình.)
Sâm sâm trực thượng đối hư đình
Hữu nhân lai vấn không không pháp
Thân toạ bình biên ảnh tập hình.
(Tu luyện bao phen phép đã tinh
Muốn lên đối phó chốn hư đình
Không không nhẽ đó nào ai biết
Ngồi tựa bình phong, bóng ẩn hình.)
Trong cuốn Thiên tiên Phật Thánh lục có chép bài thơ sau đây của Không Lộ, khi ông gặp Giác Hải. Bài thơ rất lạ, đặc biệt là nghệ thuật sử dụng từ ngữ :
Thiên liên bích thụ, thụ liên thiên,
Yên toả thanh sơn, sơn toả yên,
Thụ nhiễu tùng la, la nhiễu thụ,
Xuyên thông vu giáp, giáp thông xuyên,
Tửu mê tuý khách, khách mê tửu,
Thuyền tống hành nhân, nhân tống thuyền,
Hội đắc tri âm, âm đắc hội,
Truyền kim đáo cổ, cổ kim truyền.
( Da trời giòng biếc nhuộm màu cây
Một giải non xanh toả khói mây
Cây quấn cây tùng, cây rậm rạp
Nước quanh đỉnh giáp, nước vơi đầy
Rượu mê người, người mê rượu đấy
Khách giục thuyền, thuyền giục khách đây
Liệu được tri âm, nào được mấy
Xưa nay vẫn nhớ mãi xưa nay.)
( Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng dịch)
Yên toả thanh sơn, sơn toả yên,
Thụ nhiễu tùng la, la nhiễu thụ,
Xuyên thông vu giáp, giáp thông xuyên,
Tửu mê tuý khách, khách mê tửu,
Thuyền tống hành nhân, nhân tống thuyền,
Hội đắc tri âm, âm đắc hội,
Truyền kim đáo cổ, cổ kim truyền.
( Da trời giòng biếc nhuộm màu cây
Một giải non xanh toả khói mây
Cây quấn cây tùng, cây rậm rạp
Nước quanh đỉnh giáp, nước vơi đầy
Rượu mê người, người mê rượu đấy
Khách giục thuyền, thuyền giục khách đây
Liệu được tri âm, nào được mấy
Xưa nay vẫn nhớ mãi xưa nay.)
( Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng dịch)
Hoặc khi gặp Từ Đạo Hạnh, ông cũng làm bài kệ trả lời Đạo Hạnh như sau:
Ngọc nang bí quyết nghĩ chân kim
Cá chung mãn nguyệt lộ thần tâm
Hà sa cách thị Bồ đề đạo
Nghĩ hướng Bồ đề mãn liễu cầm.
(Túi ngọc bí truyền rõ thực vàng
Tháng qua mưa móc dạ xốn xang
Hà sa thu gót Bồ đề đạo
Tìm gặp được nhau mấy đoạn trường.)
Cá chung mãn nguyệt lộ thần tâm
Hà sa cách thị Bồ đề đạo
Nghĩ hướng Bồ đề mãn liễu cầm.
(Túi ngọc bí truyền rõ thực vàng
Tháng qua mưa móc dạ xốn xang
Hà sa thu gót Bồ đề đạo
Tìm gặp được nhau mấy đoạn trường.)
Một buổi chiều thu, trời trong mây đẹp, ngồi trên thuyền câu, ông cảm hứng đọc thơ:
Ngọc phái chi trường, không sơn hà vạn lại
Dung toạ ngư, ngư khiếp điểu
Dương cung tiễu hạc, hạc nghi cung
Quang phóng vân tiêu ngoại
Phong quang đô hảo đạo khoái lạc.
(Ngọc Phái dẫu dài, không bằng núi sông muôn trùng ngọn gió
Thung dung ngồi câu cá, nhưng cá lại sợ chim
Dương cung bắn hạc, hạc ngờ cung
Vút bay rẽ mây lên tít trời cao
Thời tiết đẹp trên đường đi vui vẻ)
Dung toạ ngư, ngư khiếp điểu
Dương cung tiễu hạc, hạc nghi cung
Quang phóng vân tiêu ngoại
Phong quang đô hảo đạo khoái lạc.
(Ngọc Phái dẫu dài, không bằng núi sông muôn trùng ngọn gió
Thung dung ngồi câu cá, nhưng cá lại sợ chim
Dương cung bắn hạc, hạc ngờ cung
Vút bay rẽ mây lên tít trời cao
Thời tiết đẹp trên đường đi vui vẻ)
Bài thơ tác giả tự sự về bản thân mình cũng là một bài rất xuất sắc:
Lão hỷ yên hà tẩu
Na tri lợi lộc mến
Thuỳ điểu đương liễu ngạn
Tán võng địch hoá thôn
Bả trạo ngân phong tuyết
Đặc ngư thí tửu tôn
Sơn tiều thời ngộ ngã
Kim cổ mạn tương luân.
(Yên hà mùi vẫn thích
Danh lợi tính không ưa
Bến liễu buông câu sớm
Làn lau vãi lưới trưa
Gác mái ca phong nguyệt
Được cá chén say sưa
Kiếm củi người đi lại
Vui cùng dở chuyện xưa.)
( Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng dịch)
Na tri lợi lộc mến
Thuỳ điểu đương liễu ngạn
Tán võng địch hoá thôn
Bả trạo ngân phong tuyết
Đặc ngư thí tửu tôn
Sơn tiều thời ngộ ngã
Kim cổ mạn tương luân.
(Yên hà mùi vẫn thích
Danh lợi tính không ưa
Bến liễu buông câu sớm
Làn lau vãi lưới trưa
Gác mái ca phong nguyệt
Được cá chén say sưa
Kiếm củi người đi lại
Vui cùng dở chuyện xưa.)
( Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng dịch)
Các sáng tác của Dương Không Lộ thể hiện tình yêu cuộc sống, yêu đất nước, gắn bó với thiên nhiên, tạo vật và con người, bằng bút pháp tài hoa, phóng khoáng hiếm thấy ở một thiền sư. Vì thế, thơ ông trải qua hàng nghìn năm vẫn được lưu truyền, vẫn gây được xúc cảm và tình cảm thẩm mỹ cho người đọc.
Không Lộ và Minh Không Là Hai hay Một Người
Gần đây có một số tác giả viết bài trên tạp chí và in trong sách cho rằng Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không chỉ là một người. Từ quan điểm đó dẫn đến nhìn nhận những sự kiện, chi tiết phi lý, trái với thư tịch lịch sử. Chẳng hạn, trong bài “Đức Thánh Nguyễn Minh Không” của Đỗ Danh Gia (Tạp chí Văn nghệ Ninh Bình, số 59 năm 2008) có đoạn: “...Minh Không làm nên tứ đại khí, là bốn báu vật của nước Nam ta...” và “Chí Thành (Nguyễn Minh Không) nuôi chí lớn, đi chu du thiên hạ, lúc thì đăng sơn kích thỏ, lúc thì phóng thuỷ cầu ngư, gặp ông Đạo Hạnh ở chùa Sài Sơn kính làm anh em”. Sách “Bái Đính – Ngàn năm tâm linh và huyền thoại” của Trương Đình Tưởng (Nxb. Thế giới, 2008) cũng viết về Nguyễn Minh Không: “Ông còn được mệnh danh là ông tổ đúc đồng, người tạo nên “Tứ đại khí” nổi tiếng ở nước ta thời nhà Lý là Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền, tượng Phật Quỳnh Lâm và đỉnh Phổ Minh”. Tác giả Trương Đình Tưởng còn cho rằng hai bài thơ của Dương Không Lộ là “Ngôn hoài” và “Ngư nhàn” là của Nguyễn Minh Không trên cơ sở hiểu “Mảnh đất “long xà” mà tác giả đề cập đến trong bài thơ “Ngôn hoài” chính là nói đến vùng đất Sinh Dược, có núi Bái Đính, nơi ông tu hành trên đỉnh núi...” Tôi không hiểu vì sao Trương Đình Tưởng viết “ông tu hành trên đỉnh núi” Bái Đính mà lại phải “Hữu thì trực thượng cô phong đỉnh”?!
Xin được trao đổi với hai tác giả thông qua bài trao đổi với Hồ Đức Thọ dưới đây.
Xin được trao đổi với hai tác giả thông qua bài trao đổi với Hồ Đức Thọ dưới đây.
Trong bài “Thiền sư Dương Không Lộ – Nguyễn Minh Không là hai hay là một” trên Tạp chí Văn nhân số 62 năm 2008, tác giả Hồ Đức Thọ đã thống kê một số tài liệu về hai thiền sư theo hai quan điểm: Hai ông là hai người và hai ông chỉ là một, từ đó kết luận: “Với những tư liệu sách vở và qua khảo sát điền dã hàng ba, bốn chục năm trong nghề, xin mạo muội nhận định hai vị Không Lộ Nguyễn Minh Không và Dương Không Lộ chỉ là một người” . Và tác giả Hồ Đức Thọ tự tin mời các trí giả, độc giả trao đổi trực tiếp, hoặc bằng văn bản, báo chí với ông.
Xin được trao đổi một số điều với tác giả Hồ Đức Thọ.
1– Về tài liệu tác giả Hồ Đức Thọ thống kê theo hai quan điểm:
Phần đầu bài viết của mình, tác giả Hồ Đức Thọ tóm tắt hai quan điểm khác nhau về Không Lộ và Minh Không. Về quan điểm hai nhân vật là khác nhau, tác giả nêu ba tài liệu là “Đại Nam nhất thống chí”, “Hoàng Việt thi văn tuyển”, “Hành Thiện xã chí”; Còn quan điểm hai nhân vật là một người thì căn cứ vào “Nam Định địa dư chí” của Khiếu Năng Tĩnh (Thực ra tên sách là “Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược”), “án cổ tích Đại Bi tự Thiền uyển thực lục” ở chùa Đại Bi xã Nam Giang, huyện Nam Trực (Nam Định), “Đại Việt sử ký toàn thư”, bài viết của Nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang và một số sắc phong từ thời Lê về sau...
Các tài liệu mà tác giả Hồ Đức Thọ nêu trên ra đời rất muộn với thời kỳ nhân vật sống, mỗi tài liệu lại đặt ra từ chính nội dung của nó những vấn đề nghi vấn cần phải làm rõ. Riêng “Đại Việt sử ký toàn thư” lại chỉ nói về Nguyễn Chí Thành, chẳng nói gì về Không Lộ nên không thể lấy đó mà nhận định Không Lộ cũng chính là Minh Không. Tác giả Hồ Đức Thọ căn cứ vào “Đại Việt sử ký toàn thư” là đúng nhưng ông lại không hiểu đúng (hoặc cố tình không hiểu) nên dẫn đến nhận thức sai lầm. Chẳng hạn, tác giả cho rằng sách chỉ nói về Minh Không, không hề nhắc đến Không Lộ thì tức là chỉ có nhân vật Minh Không, và Không Lộ cũng chỉ là Minh Không. Đó là cách hiểu chủ quan, cảm tính.
Các tài liệu mà tác giả Hồ Đức Thọ nêu trên ra đời rất muộn với thời kỳ nhân vật sống, mỗi tài liệu lại đặt ra từ chính nội dung của nó những vấn đề nghi vấn cần phải làm rõ. Riêng “Đại Việt sử ký toàn thư” lại chỉ nói về Nguyễn Chí Thành, chẳng nói gì về Không Lộ nên không thể lấy đó mà nhận định Không Lộ cũng chính là Minh Không. Tác giả Hồ Đức Thọ căn cứ vào “Đại Việt sử ký toàn thư” là đúng nhưng ông lại không hiểu đúng (hoặc cố tình không hiểu) nên dẫn đến nhận thức sai lầm. Chẳng hạn, tác giả cho rằng sách chỉ nói về Minh Không, không hề nhắc đến Không Lộ thì tức là chỉ có nhân vật Minh Không, và Không Lộ cũng chỉ là Minh Không. Đó là cách hiểu chủ quan, cảm tính.
Một số tài liệu ra đời sớm hiện còn trong đó đáng chú ý nhất là bản trùng san (in lại) “Thiền uyển tập anh” thì không được tác giả khảo cứu. “Thiền uyển tập anh” đã được các nhà khảo cứu kết luận do Thông Biện (? – 1134) khởi thảo, đến Biện Tài, Thường Chiếu và cuối cùng là ẩn Không (đầu thời Trần) hoàn chỉnh. Phần nói về Không Lộ tài liệu này viết rõ rằng ông họ Dương (? – 1119) quê ở Hải Thanh (nay thuộc tỉnh Nam Định). Đồng thời sách lại có riêng một truyện viết về Minh Không (1066 – 1141) họ Nguyễn, quê ở Đàm Xá (nay thuộc tỉnh Ninh Bình). Nếu Minh Không và Không Lộ chỉ là một người thì sách để riêng hai truyện làm gì.
“Trù Thủ tự Bảo Long am bi ký” - Bia chùa Trù Thủ để ở đình xã La Vân, huyện Quỳnh Côi (Thái Bình) do Phạm Đăng Dự soạn, dựng năm 1633 cũng nói rõ tác giả theo đúng cựu bản “Phật tổ ngữ lục” và “Thiền uyển” mà khắc vào bia phần “Phù Vân quốc sư ngữ lục” cho biết: Sư người Đàm Xá, huyện Gia Viễn, phủ Tràng An, họ Nguyễn huý Chí Thành, học trò của Từ Đạo Hạnh, được thày ban thưởng đổi tên là Nguyễn Minh Không...
Một số sách về sau cũng viết rõ Minh Không và Không Lộ là hai người như “Lĩnh Nam chích quái” (TK15), “Quỳnh Côi dư địa chí” (1933), “Quốc sư Bảo lục” (1898)...
Một số sách về sau cũng viết rõ Minh Không và Không Lộ là hai người như “Lĩnh Nam chích quái” (TK15), “Quỳnh Côi dư địa chí” (1933), “Quốc sư Bảo lục” (1898)...
Thiết nghĩ các tài liệu càng gần sự kiện bao nhiêu thì càng đáng tin cậy bấy nhiêu (trừ khi các tài liệu ra đời sau có cứ liệu xác đáng bác bỏ quan điểm của tài liệu trước). Nhân vật Không Lộ và Minh Không đều là các thiền sư. Tìm hiểu về hai nhân vật này phải căn cứ chính vào tài liệu lịch sử và tài liệu của nhà Phật. Tác giả Hồ Đức Thọ căn cứ vào các tài liệu ra đời muộn hơn nhiều so với “Thiền uyển tập anh” (tài liệu hiện còn của các nhà sư sống gần nhất với Không Lộ và Minh Không) nên độ tin cậy không cao. Cơ sở quan điểm của tác giả Hồ Đức Thọ không vững chắc tất yếu dẫn đến những nhận định chủ quan, phiến diện.
2– Tác giả Hồ Đức Thọ viết: “...Thực ra hội Ông (tức thánh Nguyễn Chí Thành – chú thích của TMG) tổ chức từ ngày 12 đến ngày 15 tháng Chín. Đây là dịp kỷ niệm Thiền sư thời Lý, một nhà chân tu, một vị danh y, một tổ sư của nghề đúc đồng, có công đúc bốn bảo vật to lớn cho quốc gia Đại Việt như Tháp Báo Thiên, chuông Quy Điền (Hà Nội), tượng chùa Quỳnh Lâm (Hải Dương) và vạc Phổ Minh (Nam Định)”... Tiếp theo tác giả dùng câu nghi vấn nhằm khẳng định Không Lộ, Minh Không chỉ là một người – Nguyễn Chí Thành: “Có phải Thiền sư họ Dương huý Minh Nghiêm quê Giao Thuỷ hiệu Không Lộ. Hay như chính sử và sách tham khảo, di ngôn khẳng định vị Thiền sư họ Nguyễn, huý Chí Thành, quê Đàm Xá hiệu Khổng Lồ, Không Lộ, Minh Không?”
Để kiểm chứng điều tác giả Hồ Đức Thọ nêu trên, tôi tra cứu lại sách sử thì thấy không hoàn toàn đúng như nhận định của tác giả. Với quan điểm Dương Không Lộ chính là Nguyễn Minh Không (1066 - 1141), tác giả nói ông đúc cả bốn bảo vật (tứ đại khí) là sai lầm. Xin hãy đọc kỹ lại các sách sử sẽ thấy:
A - Tượng Phật Di Lặc chùa Quỳnh Lâm:
“Đại Nam nhất thống chí” (H.: KHXH, 1971. – T.3. - Tr. 413) chép: “Chùa Quỳnh Lâm, xã Hạ Lôi, huyện Đông Triều, do Thiền sư triều Lý là Nguyễn Minh Không lập, đúc tượng đồng trong chùa”.
B – Tháp Báo Thiên:
“Đại Việt sử ký toàn thư” (H.: KHXH, 1998. – T.1. - Tr. 272) ghi: “Đinh Dậu (Long Thuỵ Thái Bình) năm thứ 4(1057). Mùa xuân, tháng Giêng, xây Bảo tháp Đại Thắng Tự Thiên cao vài chục trượng, theo kiểu 12 tầng (tức là tháp Báo Thiên)”.
Tháp Báo Thiên được xây dựng vào năm 1057, mà Minh Không ra đời vào năm 1066, tức là Tháp Báo Thiên đã có trước khi Nguyễn Minh Không ra đời tới 9 năm thì sao có thể nói Minh Không xây tháp Báo Thiên được. Tháp Báo Thiên do vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072) cho xây dựng nên những tác giả của “Đại Việt sử ký toàn thư” (Sđd. - T.1. - Tr. 271) phê phán ông là “... nhọc sức dân xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (H.: KHXH, 1992. – T.1. – Tr.193 – 194) cũng viết như thế: “Chỉ có việc xây tháp Báo Thiên, làm cung Dâm Đàm, nhọc dân tốn của”.
Tháp Báo Thiên được xây dựng vào năm 1057, mà Minh Không ra đời vào năm 1066, tức là Tháp Báo Thiên đã có trước khi Nguyễn Minh Không ra đời tới 9 năm thì sao có thể nói Minh Không xây tháp Báo Thiên được. Tháp Báo Thiên do vua Lý Thánh Tông (1054 – 1072) cho xây dựng nên những tác giả của “Đại Việt sử ký toàn thư” (Sđd. - T.1. - Tr. 271) phê phán ông là “... nhọc sức dân xây tháp Báo Thiên, phí của dân làm cung Dâm Đàm, đó là chỗ kém”. Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” của Phan Huy Chú (H.: KHXH, 1992. – T.1. – Tr.193 – 194) cũng viết như thế: “Chỉ có việc xây tháp Báo Thiên, làm cung Dâm Đàm, nhọc dân tốn của”.
C – Chuông Quy Điền:
- “Đại Việt sử ký toàn thư” (Sđd. - Tr. 281) chép: “Canh Thân (Anh Vũ Chiêu Thắng) năm thứ 5(1080). Mùa xuân, tháng hai, đúc chuông lớn cho chùa Diên Hựu. Chuông đúc xong, đánh không kêu, nhưng cho rằng nó đã thành khí không nên tiêu huỷ, bèn đem bỏ ở Quy Điền (ruộng rùa) của chùa. Ruộng ấy, thấp ướt, có nhiều rùa, người bấy giờ gọi là chuông Quy Điền”.
Như vậy, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” đã ghi rõ chuông Quy Điền là do vua Lý Nhân Tông cho đúc, khi ấy Nguyễn Minh Không mới 14 tuổi không thể đúc chuông này được.
Như vậy, sách “Đại Việt sử ký toàn thư” đã ghi rõ chuông Quy Điền là do vua Lý Nhân Tông cho đúc, khi ấy Nguyễn Minh Không mới 14 tuổi không thể đúc chuông này được.
- Cuốn “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” của Quốc sử quán triều Nguyễn (H.: Giáo dục, 1998. – T.1. – Tr. 365) chép: “Tân Tỵ, năm Long Phù thứ nhất (1101) (đời vua Lý Nhân Tông)”... “Sửa lại chùa Diên Hựu. Chùa này do Lý Thái Tông làm ra để cầu trường thọ; đến đây tu sửa lại. Lại đúc quả chuông lớn. Đúc xong, đánh thử, chuông không kêu, đem bỏ ở ngoài ruộng. Ruộng ấy sẵn nhiều rùa, nên người ta gọi là “Chuông Quy Điền”.
Cuốn “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” ra đời sau, tuy viết năm đúc chuông khác với “Đại Việt sử ký toàn thư”, nhưng cũng viết năm đúc chuông ở đời Lý Nhân Tông và cũng không hề nói chuông do Nguyễn Minh Không đúc.
Cuốn “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” ra đời sau, tuy viết năm đúc chuông khác với “Đại Việt sử ký toàn thư”, nhưng cũng viết năm đúc chuông ở đời Lý Nhân Tông và cũng không hề nói chuông do Nguyễn Minh Không đúc.
D – Vạc (đỉnh) Phổ Minh:
- “Đại Nam nhất thống chí” (Nxb. Thuận Hóa, 1992. – T.3. – Tr. 343) chép: “Đỉnh cũ Phổ Minh: Nặng ngàn quân, ở chùa Phổ Minh huyện Mỹ Lộc. Tương truyền, đời Lý, thiền sư Dương Không Lộ học được pháp thần thông, sang triều đình Bắc Quốc khuyến giáo đồng đỏ, vào kho đồng lấy được đầy túi mang về đúc thành đỉnh, nay đặt ở trước cửa chùa, tức là một trong “An Nam tứ khí”.
Như vậy, vạc Phổ Minh do Dương Không Lộ đúc. Việc chưa thể khẳng định được Dương Không Lộ cũng chính là Nguyễn Minh Không, nên cũng không thể nói vạc (đỉnh) Phổ Minh là do Nguyễn Minh Không đúc.
Như vậy, vạc Phổ Minh do Dương Không Lộ đúc. Việc chưa thể khẳng định được Dương Không Lộ cũng chính là Nguyễn Minh Không, nên cũng không thể nói vạc (đỉnh) Phổ Minh là do Nguyễn Minh Không đúc.
- Sách “Lịch triều hiến chương loại chí” (Sđd. – T.1. – Tr.196) lại chép: “Sau khi nhường ngôi, vua (Trần Nhân Tông) lưu tâm kinh điển nhà Phật, xây am Thiên Kiện, đúc đỉnh (vạc) Phổ Minh thờ Phật rất chăm”.
- Sách “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” (Sđd. – Tr. 490) chép: “Nhâm tuất (1262) (đời vua Trần Thánh Tông (1258 – 1278)”... “nhân đấy đổi làng Tức Mặc làm phủ Thiên Trường; dựng cung gọi là Trùng Quang để cho các vua đã nhường ngôi rồi về ở; phía tây cung dựng chùa Phổ Minh”. Như thế thì có chùa Phổ Minh rồi mới có đỉnh Phổ Minh.
Hai cuốn dẫn sau tuy nói khác nhau về thời gian ra đời của vạc Phổ Minh, nhưng đều thống nhất ở thời Trần. Nếu hai cuốn này viết đúng thì vạc Phổ Minh không thể do Minh Không thời Lý đúc được.
Rõ ràng việc tác giả Hồ Đức Thọ nói rằng căn vứ vào các sách sử thì Nguyễn Minh Không đúc cả tứ đại khí là một nhận định sai. Nguyễn Minh Không chỉ đúc tượng Phật chùa Quýnh Lâm, còn ba đại khí khác không phải do Nguyễn Minh Không làm.
3– Tác giả căn cứ vào tập án cổ tích Đại Bi tự Thiền uyển thực lục đã viết: “Đoạn sau có ghi việc kết bạn của Minh Không, Giác Hải và Đạo Hạnh vào năm Canh Tý (1120) “Chí Canh Tý niên, Minh Không, Giác Hải dữ Đạo Hạnh kết vi huynh đệ ước vãng Tây Thiên Phật cầu ấn Độ pháp...” rồi kết luận “Sách không hề nói đến Dương Không Lộ, vậy Không Lộ huý Minh Nghiêm mất năm 1094 kết nghĩa với ai? Làm gì có chuyện đồng hành đi học đạo Tây Thiên với Giác Hải, Đạo Hạnh” để phản bác quan điểm Không Lộ và Minh Không là hai người khác nhau.
Về Giác Hải ta chưa rõ cụ thể năm sinh và năm mất, nhưng Đạo Hạnh (tức Từ Lộ) thì thư tịch cổ đã ghi rõ ông mất năm 1117. Vậy năm Canh Tý (1120) Minh Không kết bạn với Đạo Hạnh nào để đi Tây Thiên?
“Đại Việt sử ký toàn thư” (Sđd. - Tr. 308-309) chép vào tháng 3 năm 1136: “Vua bệnh nặng, chữa thuốc không khỏi. Nhà sư Minh Không chữa khỏi, phong làm quốc sư. Tha thuế dịch cho vài trăm hộ. (Tục truyền khi nhà sư Từ Đạo Hạnh sắp trút xác, trong khi ốm đem thuốc niệm thần chú rồi giao cho học trò là Nguyễn Chí Thành tức Nguyễn Minh Không, dặn rằng 20 năm sau nếu thấy quốc vương bị bệnh lạ thì đến chữa ngay, có lẽ là việc này.)”
“Đại Nam nhất thống chí” (Sđd. - Tr. 259) cũng chép: “Từ Đạo Hạnh sắp mất, dặn lại Nguyễn Minh Không rằng: “Sau này thày ở ngôi vua, khó trốn được nợ trần, cần được đệ tử cứu chữa”.
Như vậy, theo chính sử thì Minh Không là đệ tử của Đạo Hạnh, là thế hệ sau chứ không phải là bạn bè để “kết vi huynh đệ” với Đạo Hạnh. Những điều này chứng tỏ tài liệu tác giả Hồ Đức Thọ lấy làm căn cứ để bác bỏ quan điểm Minh Không và Không Lộ là hai người, từ đó nhận định quan điểm Minh Không và Không Lộ chỉ là một người là không đáng tin cậy, là sai lầm.
4 – Cách hiểu bài “Ngôn hoài”(của Dương Không Lộ) của tác giả Hồ Đức Thọ là khiên cưỡng khi nhận xét: “Cô phong Đính, địa phương cho là núi Bái Đính (có người dịch là đỉnh núi). Nhưng Giao Thuỷ làm gì có núi cao chót vót, kể cả núi hình rồng, hình rắn như thơ tả cảnh Đàm Xá, Gia Viễn. Vậy mà bàn cãi mãi.” Cách hiểu về bài “Ngôn hoài” của tác giả Hồ Đức Thọ cũng tương tự như cách hiểu của tác giả Trương Đình Tưởng. Từ cách hiểu như vậy Hồ Đức Thọ nhận định tác giả bài “Ngôn hoài” là của Nguyễn Minh Không, và Không Lộ cũng chính là Minh Không.
Tra cứu nguyên bản bài thơ “Ngôn hoài” trong “Thơ văn Lý Trần” thì ba chữ mà tác giả phiên âm là “Cô phong Đính” đúng theo từ điển phải phiên âm là “Cô phong đỉnh” (“cô” là một mình, đơn độc; “phong” là đỉnh núi; “đỉnh” là chỗ cao nhất của đầu). ( Từ lâm Hán Việt từ điển. - Nxb. Thuận Hoá, 2001 và Từ điển Hán Việt hiện đại. - Nxb. Thế giới, 1995). Một dị bản của bài Ngôn hoài chép chữ “lĩnh” (cổ, chỉ bộ phận quan trọng của sự vật) thay cho chữ “đỉnh”. Ba chữ này (“cô phong đỉnh” hoặc “cô phong lĩnh”) mà lại gán cho nó “là núi Bái Đính” có khiên cưỡng quá không? Có đúng không?
“Ngôn hoài” là một tác phẩm văn học dưới thể loại thơ tứ tuyệt, phải tìm hiểu cảm thụ nó trên cơ sở đặc trưng nghệ thuật của thơ, cụ thể là tác giả đã dùng hình ảnh, hình tượng, ngôn ngữ đặc trưng thể hiện cảm xúc, tình cảm của mình như thế nào, ta mới có thể hiểu đúng bài thơ và tư tưởng tác giả. Về việc cảm thụ bài thơ này đã có nhiều bài viết hay trong sách và trên báo, tạp chí nên thiết nghĩ không cần phân tích sâu, mà chỉ nêu đôi chỗ liên quan đến chủ đề bàn cãi. Theo tôi, “cô phong đỉnh” đơn giản chỉ là một hình tượng cô độc mà đẹp đẽ, hùng vĩ, độc lập, là hình ảnh của Thiền, là đỉnh cao của trí tuệ giác ngộ, không gì so sánh được. Có lẽ hình tượng “long xà địa” trong bài thơ làm tác giả Hồ Đức Thọ và Trương Đình Tưởng hiểu là những rặng núi hình rồng, hình rắn uốn quanh ngôi nhà rồi suy ra đó là “vùng đất Sinh Dược, có núi Bái Đính, nơi ông tu hành trên đỉnh núi...” Thực ra trong 92 thuật ngữ phong thuỷ không thấy có thuật ngữ “Long xà địa”. “Kinh dịch” có câu “Long xà chi chập, dĩ tồn thân dã” (Rồng rắn mà ẩn nấp cốt để giữ mình vậy). “Hán thư” cũng chép “Quân tử đắc thời tắc đại hành, bất đắc thời tắc long xà” (Người quân tử gặp thời thì làm việc lớn, không gặp thời thì ở ẩn). Hình ảnh “long xà địa” trong “Ngôn hoài” thể hiện người quân tử – tác giả mang chí lớn, nhưng chưa gặp thời mà “rồng hoá rắn”, ẩn mình chờ thời, một khi gặp đúng thời thì hành động kiên quyết, mạnh mẽ, táo bạo “trực thượng cô phong đỉnh”. Đằng sau sự thanh nhàn nơi thôn dã là hoài bão lớn lao của tác giả.
Như vậy, có nhiều cách cảm thụ bài thơ tuỳ theo trình độ, kiến văn và vốn sống của mỗi người. Tuy nhiên, vì “Ngôn hoài” là một tác phẩm văn học nên chúng ta cũng cần phải hiểu nó ở “tầm cấp tinh thần” gắn với đặc trưng của hình tượng văn học, không nên hiểu theo cách “vật chất hóa” hoặc “tầm thường hóa” và suy diễn dẫn đến hiểu sai lệch bài thơ.
Tra cứu nguyên bản bài thơ “Ngôn hoài” trong “Thơ văn Lý Trần” thì ba chữ mà tác giả phiên âm là “Cô phong Đính” đúng theo từ điển phải phiên âm là “Cô phong đỉnh” (“cô” là một mình, đơn độc; “phong” là đỉnh núi; “đỉnh” là chỗ cao nhất của đầu). ( Từ lâm Hán Việt từ điển. - Nxb. Thuận Hoá, 2001 và Từ điển Hán Việt hiện đại. - Nxb. Thế giới, 1995). Một dị bản của bài Ngôn hoài chép chữ “lĩnh” (cổ, chỉ bộ phận quan trọng của sự vật) thay cho chữ “đỉnh”. Ba chữ này (“cô phong đỉnh” hoặc “cô phong lĩnh”) mà lại gán cho nó “là núi Bái Đính” có khiên cưỡng quá không? Có đúng không?
“Ngôn hoài” là một tác phẩm văn học dưới thể loại thơ tứ tuyệt, phải tìm hiểu cảm thụ nó trên cơ sở đặc trưng nghệ thuật của thơ, cụ thể là tác giả đã dùng hình ảnh, hình tượng, ngôn ngữ đặc trưng thể hiện cảm xúc, tình cảm của mình như thế nào, ta mới có thể hiểu đúng bài thơ và tư tưởng tác giả. Về việc cảm thụ bài thơ này đã có nhiều bài viết hay trong sách và trên báo, tạp chí nên thiết nghĩ không cần phân tích sâu, mà chỉ nêu đôi chỗ liên quan đến chủ đề bàn cãi. Theo tôi, “cô phong đỉnh” đơn giản chỉ là một hình tượng cô độc mà đẹp đẽ, hùng vĩ, độc lập, là hình ảnh của Thiền, là đỉnh cao của trí tuệ giác ngộ, không gì so sánh được. Có lẽ hình tượng “long xà địa” trong bài thơ làm tác giả Hồ Đức Thọ và Trương Đình Tưởng hiểu là những rặng núi hình rồng, hình rắn uốn quanh ngôi nhà rồi suy ra đó là “vùng đất Sinh Dược, có núi Bái Đính, nơi ông tu hành trên đỉnh núi...” Thực ra trong 92 thuật ngữ phong thuỷ không thấy có thuật ngữ “Long xà địa”. “Kinh dịch” có câu “Long xà chi chập, dĩ tồn thân dã” (Rồng rắn mà ẩn nấp cốt để giữ mình vậy). “Hán thư” cũng chép “Quân tử đắc thời tắc đại hành, bất đắc thời tắc long xà” (Người quân tử gặp thời thì làm việc lớn, không gặp thời thì ở ẩn). Hình ảnh “long xà địa” trong “Ngôn hoài” thể hiện người quân tử – tác giả mang chí lớn, nhưng chưa gặp thời mà “rồng hoá rắn”, ẩn mình chờ thời, một khi gặp đúng thời thì hành động kiên quyết, mạnh mẽ, táo bạo “trực thượng cô phong đỉnh”. Đằng sau sự thanh nhàn nơi thôn dã là hoài bão lớn lao của tác giả.
Như vậy, có nhiều cách cảm thụ bài thơ tuỳ theo trình độ, kiến văn và vốn sống của mỗi người. Tuy nhiên, vì “Ngôn hoài” là một tác phẩm văn học nên chúng ta cũng cần phải hiểu nó ở “tầm cấp tinh thần” gắn với đặc trưng của hình tượng văn học, không nên hiểu theo cách “vật chất hóa” hoặc “tầm thường hóa” và suy diễn dẫn đến hiểu sai lệch bài thơ.
5 – Đề xuất một hướng nghiên cứu về Không Lộ và Minh Không:
Hiện nay ở Nam Định, Thái Bình, Hải Dương, Hà Nội, Quảng Ninh, Ninh Bình... có gần ba chục nơi thờ chính, thờ vọng, phối thờ thánh Không Lộ. Truyền thuyết về Không Lộ ở những nơi này khá giống nhau. Phải chăng việc kết hợp những huyền thoại với tiểu sử của hai nhân vật có thật là Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không đã “sáng tạo” ra Thánh Không Lộ (hoặc/và Thánh Minh Không)?
Đặc điểm địa lý tự nhiên của các vùng thờ Thánh Không Lộ là đất trũng, sát biển, hệ thống sông ngòi dày đặc, vùng đất “giao thuỷ” mênh mông làm con người thấy mình nhỏ bé, cần sự che chở của một vị thần linh, từ đó xuất hiện Thánh Không Lộ. Về sau cư dân chuyển từ đánh cá sang trồng lúa thì Thánh Không Lộ lại được sáng tạo trở thành vị thần linh nông nghiệp, giúp dân khai hoang trông lúa với các chi tiết thường nhật của nông dân như đơm đó, bắt lươn... Đồng thời các nghề thủ công phát triển, Thánh Không Lộ trở thành Tổ nghề đúc đồng. ảnh hưởng của Phật giáo trong đời sống tinh thần của nhân dân nước Việt góp phần sáng tạo Thánh Không Lộ là một nhà tu hành có nhiều phép linh dị. Rõ ràng hình tượng Thánh Dương Không Lộ (hoặc / và Thánh Nguyễn Minh Không) là kết quả quá trình chồng xếp lên nhau của nhiều lớp văn hoá, tín ngưỡng trong đó văn hoá biển là lớp văn hóa sớm nhất.
Tổng hợp, phân tích những tài liệu về Minh Không và Không Lộ, loại bỏ những huyền thoại (khá giống nhau ở hai nhân vật này), chúng ta còn lại hai nhân vật lịch sử có thật là Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không, với những điểm riêng biệt của mỗi người. Đó là danh tính khác nhau, năm sinh và năm mất khác nhau, quê quán khác nhau. Dương Không Lộ – nhà thơ. Nguyễn Minh Không – thày thuốc. Dương Không Lộ là sư tổ chùa Thần Quang, Nguyễn Minh Không là sư Tổ chùa Quỳnh Lâm. Cả hai đều được phong Quốc sư thời Lý và đều chữa bệnh cho vua Lý, nhưng ở hai đời vua khác nhau.
Tóm lại: Bằng những chứng cứ thiếu độ chính xác và không đủ sức thuyết phục với cách hiểu cảm tính, khiên cưỡng và phiến diện, Hồ Đức Thọ kết luận Dương Không Lộ và Nguyễn Minh Không chỉ là một người là không thuyết phục, là sai lầm.
….……..
Bài viết được nhà nghiên cứu lịch sử – văn hóa Lã Đăng Bật (Hội viên Hội Văn Nghệ Ninh Bình) góp ý kiến và cung cấp nhiều tư liệu.
Bài viết được nhà nghiên cứu lịch sử – văn hóa Lã Đăng Bật (Hội viên Hội Văn Nghệ Ninh Bình) góp ý kiến và cung cấp nhiều tư liệu.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét