Thứ Hai, 27 tháng 8, 2018

TRANG TRẦN MỸ GIỐNG TRÊN VIỆT VĂN MỚI (Kỳ 4)





Mục lục:




 
  Trần Nguyên Đán

  1 - Trần Nguyên Đán sinh năm 1325, mất năm 1390, hiệu Băng Hồ tử (chàng trai có tấm lòng trắng trong như tuyết), quê hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (nay là thôn Tức Mặc, phường Lộc Vượng, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định). Thân phụ ông là Uy Túc công Trần Văn Bích giữ chức Nhập nội Thái bảo, từng giúp Văn miếu gây nên nghiệp thái bình. Tổ là Văn Túc vương Trần Đạo Tái, 14 tuổi đã đỗ Bảng nhãn. Tổ bốn đời là Thượng tướng Thái sư Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, con thứ vua Trần Thái Tông.
  Vốn dòng tôn thất, lại thông minh đức độ nên Trần Nguyên Đán được bổ làm quan từ khi còn trẻ tuổi. Ông hăng hái mong được đem hết sức mình phục vụ đất nước, đáp đền ơn vua, sẵn sàng xông vào nơi nguy hiểm. Trong bài “Canh Tân Bình an phủ Phạm công Sư Mạnh “Tân Bình thư sự” vận” (Họa vần bài thơ “Tân Bình thư sự” của quan An phủ sứ trấn Tân Bình Phạm Sư Mạnh) của ông có đoạn:
Chí sĩ ninh từ đạo hải nguy
Cao ca tràng khiếu nhậm thiên nghê
Sương soa, thử lạp thù minh chúa
Hổ lạc xà khu uý viễn lê.
(Người chí sĩ đâu chịu chối từ cái nguy vượt biển
Cất cao tiếng hát với tất cả lòng mình
Mang tơi sương, đội nón nắng đền đáp minh chúa
Vào hang hùm, tới ổ rắn an ủi dân xa)
Dưới triều Trần Dụ Tông (1341 - 1369), Trần Nguyên Đán làm quan Ngự sử Đại phu, chuyên lo việc khuyến cáo, can gián những lỗi lầm của vua và đàn hặc các quan phạm tội. Bấy giờ vua không chăm lo việc nước, quyền thần có nhiều kẻ không coi trọng phép nước, Trần Nguyên Đán nhiều lần can gián nhưng vua không nghe. Sau khi Trần Dụ Tông mất, Hiến từ Hoàng Thái hậu cho Dương Nhật Lễ lên làm vua. Dương Nhật Lễ là kẻ hoang dâm vô độ, tính tình tàn ác nên việc nước càng trở nên tồi tệ. Trần Nguyên Đán lại dâng thư trình bày chính sự nhưng vẫn không được vua đếm xỉa đến. Sau này, Hồ Nguyên Trừng đã viết trong Nam Ông mộng lục về Trần Nguyên Đán như sau:
“Vào năm Chí Chính nhà Nguyên (1341 - 1367) ở Giao Chỉ (tức Việt Nam) có Trần Nguyên Đán đứng đầu hàng tông thất nhà Trần, giúp vua Dụ Tông ở chức Đại phu Ngự sử. Vua không chăm việc nước, quyền thần có nhiều kẻ không tôn trọng phép tắc, Nguyên Đán nhiều phen can gián nhà vua không nghe, đến khi vua Dụ Tông mất, cháu kế ngôi là người mê nuội. Bấy giờ việc nước càng tệ, Nguyên Đán dâng thư trình bày không được vua hỏi đến, ông bèn xin cáo lỗi mà đi...” 
Năm 1370 Trần Nguyên Đán từ chức, bỏ đi giúp Cung Định Đại vương Trần Phủ (tức vua Trần Nghệ Tông) tập hợp lực lượng, dẹp được loạn Dương Nhật Lễ. Do có nhiều công lao với nhà Trần, nhất là đã giúp Trần Nghệ Tông lên ngôi Hoàng đế, khôi phục nhà Trần, ổn định chính sự, nên năm 1371 Trần Nguyên Đán được phong chức Tư đồ phụ chính. Ông ở ngôi Tể tướng lâu năm. Đến thời Trần Duệ Tông (1374 - 1377) ông được ban tước Chương Túc Quốc Thượng hầu, lại được giao thêm trọng trách trông coi việc quân ở trấn Quảng Oai.
Trần Nguyên Đán là viên quan trụ cột của vương triều Trần hồi cuối thế kỷ 14. Khi xuất thế, Trần Nguyên Đán đem hết sức lực và tài năng phò vua, giúp nước. Nguyễn Trãi đã viết về ông trong Ức Trai di tập như sau:
“Vững tay lái trong cơn sóng gió, chống nhà siêu giữa lúc phong ba. Chỉ trong ít năm mà trong nước bình trị. Người trong nước đều khen là hiền tướng, từ đứa trẻ thơ đến người lính tốt cũng đều biết tiếng”. 
Không chỉ là vị quan tài năng, hết lòng với dân với nước, mà Trần Nguyên Đán còn nổi tiếng là người có tấm lòng bao dung nhân hậu hiếm có. Trong dân gian còn lưu truyền, sử sách còn ghi câu chuyện về thái độ của Trần Nguyên Đán đối với hiền sĩ.
Chuyện kể rằng, Nguyễn ứng Long (tức Nguyễn Phi Khanh) là một thanh niên nổi tiếng hay chữ, giỏi văn thơ nên dù xuất thân từ tầng lớp nhà nghèo vẫn được Trần Nguyên Đán mời về dạy con gái mình là Trần Thị Thái. Chẳng bao lâu đôi trai tài gái sắc cảm mến nhau, tình duyên nảy nở, kết quả là bà Trần Thị Thái mang thai. Đến ngày bà Trần Thị Thái sinh nở, Nguyễn ứng Long sợ bị trọng tội liền bỏ trốn. Biết chuyện, Trần Nguyên Đán liền sai người đi tìm Nguyễn ứng Long trở về. Nguyễn ứng Long sợ hãi vào gặp quan Tư đồ, trong lòng cầm chắc cái chết. Không ngờ Trần Nguyên Đán không hề bắt tội mà lại ôn tồn bảo:
“Người xưa có việc như thế, chẳng thấy Văn Quân và Tương Như (1) đấy ư? Hay được như Tương Như, danh truyền đời sau, đấy là sở nguyện của ta”.
Cảm động trước đức độ của Trần Nguyên Đán, Nguyễn ứng Long chăm chỉ học tập, đến năm 1374 đời Trần Duệ Tông thì thi đỗ Thái học sinh. Sau này Nguyễn ứng Long ra làm quan cho nhà Hồ tới chức Đại lý Tự khanh. Vợ chồng Nguyễn ứng Long và Trần Thị Thái đã sinh ra Nguyễn Trãi. Nguyễn Trãi cũng đỗ Thái học sinh, trở thành một vĩ nhân, một anh hùng dân tộc mà tên tuổi ông gắn liền với Lê Lợi trong mười năm kháng chiến chống giặc Minh.
Nếu không có tấm lòng bao dung nhân hậu của Trần Nguyên Đán, cõ lẽ dân tộc Việt Nam sẽ không có nhà văn hoá lớn, thi sĩ thiên tài, anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, tác giả Bình Ngô đại cáo nổi tiếng.
Trần Nguyên Đán làm quan vào thời kỳ nhà Trần suy yếu. Hồ Quý Ly ngày càng thâu tóm quyền bính và lũng đoạn triều đình. Tiên đoán trước nguy cơ nhà Trần sẽ mất về tay Hồ Quý Ly, ông luôn ý thức nhắc nhở bạn bè về nghĩa vụ làm tôi. Bản thân bất lực trước thời thế, cuối cùng ông kết thông gia với Hồ Quý Ly mong đảm bảo sự yên ổn cho con cháu về sau.

  2 - Trần Nguyên Đán lui về ẩn dật, song thâm tâm ông vẫn không nguôi nỗi lo cho nước cho dân. Bài thơ gửi bạn đồng liêu trong đài quan của ông khi đã về hưu thể hiện rõ nỗi lo ấy:
Đài quan nhất khứ tiện thiên nhi
Hồi thủ thương tâm sự sự vi
Cửu mạch trần ai nhân dị lão
Ngũ hồ phong vũ khách tư quy
Nho phong bất chấn hồi vô lực
Quốc thế như huyền khứ diệc phi
Kim cổ hưng vong chân khả giám
Chư công là nhẫn gián thư hy. 
(Đứng đầu hàng quan gián nghị một khi đi liền ra tận chân trời
Ngoảnh lại lòng đau vì mọi việc đều sai lầm cả
Người ta trong bụi trần trăm năm dễ già cỗi
Cho nên bạn nghĩ về cảnh mưa gió năm hồ theo gót Phạm Lãi
Tinh thần Nho học không chấn hưng quay lại đã hết sức
Thế nước treo sợi tóc, bỏ đi thực không phải
Xưa nay suy thịnh thật có thể soi xem
Các ông sao nhẫn tâm ít lời can gián.)
Ngụ ý chê việc Trần Nghệ Tông “không biết chọn mặt gửi vàng”, đem con là Trần Thuận Tông giao phó cho Hồ Quý Ly, chẳng khác nào đem trứng cho ác, Trần Nguyên Đán viết bài Thập cầm (Mười giống chim) khuyên vua hãy cảnh giác với “con quạ già hiểm độc” (chỉ Hồ Quý Ly). Trong bài thơ có câu:
Nhân ngôn ký gửi dữ lão nha
Bất thức lão nha liên ái phầu 
(Gửi con cho lão quạ già
Biết là lão quạ thương là mấy thương)
Tiếc là lời cảnh tỉnh của Trần Nguyên Đán đã không được vua Trần đếm xỉa đến, để rồi kết cục nhà Trần mất về tay Hồ Quý Ly, đúng như tiên đoán của Trần Nguyên Đán.
Trước sự suy vong của triều Trần, khi làm quan cũng như khi về ẩn dật, Trần Nguyên Đán luôn day dứt về nỗi bất lực của mình:
Tam phần đầu bạch thốn tâm đan
Thế thượng phân phân vạn sự nan 
(Ba phần tóc trên đầu đã bạc, vẫn tấc lòng son
Sự đời bối rối, muôn việc khó khăn).
Bài “Mậu thân chính nguyệt tác” (Thơ làm tháng Giêng năm Mậu Thân). 
Có lúc ông lại nghĩ rằng khoẻ mạnh mà không giúp được việc nước thì thà cứ bệnh còn đỡ day dứt hơn:
Mục tiền tận thị quân tâm sự
Bệnh dũ bất như do bệnh thì 
(Trước mắt đều là những việc phải lo lắng
Khỏi bệnh không bằng đang bị bệnh.)
Năm 1385, thấy rõ “vận nước sắp hết”, Trần Nguyên Đán xin về trí sĩ ở Côn Sơn. Ông vẫn không nguôi băn khoăn về việc xuất xử của mình, vẫn canh cánh bên lòng nỗi ưu thời mẫn thế, vẫn đau đáu tâm sự ưu tư vì nước vì dân. Nhiều khi ông hy vọng vào một kỳ thi chọn được những người trẻ tuổi tài năng... Ông nhắn gửi các quan trường về việc thi chọn nhân tài:
Ngọc thạch tối nghi khu biện biệt
Loan kê nhẫn sử tính phi tường
Đắc hiền Đổng Tử lưng viêm Hán
Truất thực Lưu Phần nhược vãn Đường
Thiên chiếu đinh ninh dung bác thủ
Yếu tiên trung đảng, hậu từ chương. 
(Ngọc hay đá phải phân biệt cho rõ
Đừng để phượng với gà phải bay chung với nhau
Được người hiền tài như Đổng Tử làm hưng thịnh nhà Hán
Truất người trung thực như Lưu Phần làm suy yếu nhà Đường
Chiếu vua cặn kẽ cho phép lấy rộng
Trước phải xem phần trung chính sau hãy xét đến văn chương)
Với quan điểm chọn nhân tài như vậy, Trần Nguyên Đán đã hết sức vui mừng khi Chu Văn An, một nhà giáo nổi tiếng tài đức, người từng dâng “Thất trảm sớ” lên vua Trần, được giao chức Quốc Tử Giám tư nghiệp. Trong bài “Hạ Tiều ẩn Chu tiên sinh bái Quốc tử Tư nghiệp” (Mừng ông Chu Tiều ẩn được bổ chức Tư nghiệp ở Quốc Tử giám) của ông có câu:
Học hải hồi lan tục tái thuần
Thượng tường Sơn, Đẩu đắc tư nhân
Cùng kinh bác sử công phu đại
Kính Lão, sùng Nho chính hoá tân. 
(Xoay làn sóng biển học làm cho phong tục lại được thuần hậu
Nhà trường đã được bậc đạo đức như Thái Sơn, Bắc Đẩu đến dạy
Đọc hết kinh, xem rộng sử, công phu rất lớn
Kính đạo Lão, sùng Nho học, chính sự và giáo hoá được đổi mới)
Rõ ràng cái học của Trần Nguyên Đán là cái học thực tiễn, luôn vì nước mà lo cho vận nước, vừa sùng mộ Nho giáo, vừa coi trọng cái học của Đạo gia. Nho phong mà Trần Nguyên Đán muốn chấn hưng là thứ Nho học tâm linh khai phóng, chứ không phải thứ Nho học của bọn “Bạch diện thư sinh” lệ Tống nho, hình thức, giáo điều.
Thơ Trần Nguyên Đán là tiếng lòng của một người yêu nước thương dân. Ông thông cảm với nỗi khổ của dân, đau cùng cái đau mất mùa của dân. Trước cái đau của dân, ông cảm thấy mình có lỗi:
Niên lai hạ hạn hựu thu lâm
Hoà cảo miêu thương hại chuyển thâm
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ
Bạch đầu không phụ ái dân tâm.
Bài “Nhâm dần niên lục nguyệt tác” 
(Năm nay hạ hạn lại thu mưa
Đau nỗi mùa màng những thiệt thua
Ba vạn sách dày đành xếp xó
Yêu dân còn nợ, mái đầu phơ)
Trần Nguyên Đán dùng thơ chủ yếu để dãi bày tâm sự, thể hiện lòng yêu nước thương dân, tâm trạng lo đời, thương mình trước hiện thực vận nước sắp hết. Những bài thơ về chủ đề này như “Đề Huyền Thiên quán”, “Sơn trung túc sự”. “Dạ quy chu trung tác”, “Bất mị”... là những bài hay nhất của ông.
Về nghệ thuật, thơ Trần Nguyên Đán tha thiết, gợi cảm, đằm thắm, phong cách tự trào, hình tượng gợi tả, hình ảnh đối lập mạnh mẽ đã làm nên sự thành công của thơ ông. Chẳng hạn bài “Phụng canh Thái Thượng hoàng ngự chế đề Thiên Trường phủ Trùng Quang cung” (Họa bài thơ của Thái Thượng hoàng đề ở cung Trùng Quang, phủ Thiên Trường) là một ví dụ:
Trường không thu hạo Hoàng giang nguyệt
Phương thảo xuân hồi Lục Phố phong
Thanh hạ mỗi tồn tông xã niệm
Liệu tri mộng mị đáo Thăng Long. 
(Mênh mông trời thu bóng trăng Hoàng giang
Hương cỏ xuân về thoảng gió Lục phố
Trong nhàn nhã Thượng hoàng vẫn nghĩ đến việc nước
Chắc trong giấc ngủ vẫn mộng thấy mình đến Thăng Long).
Bài Đề Huyền Thiên quán cũng là một bài hay:
Bạch nhật thăng thiên dị
Trí quân Nghiêu Thuấn nan
Trần ai lục thập tải
Hồi thủ quí hoàng quan. 
(Ban ngày bay lên trời còn dễ
Giúp vua để vua được như Nghiêu, Thuấn mới khó
Sáu mươi năm sống trong cõi trần
Ngoảnh lại luống thẹn với người đội mũ vàng).
Trần Nguyên Đán còn là một nhà khoa học. Sinh thời ông rất chú trọng việc nghiên cứu khoa học phục vụ thực tiễn. Ông đi sâu nghiên cứu thiên văn học, khí tượng học Việt Nam. Tác phẩm Bách thế thông kỷ (còn gọi là Bách thế thông khảo hoặc Bách thế thông kỷ thư) của ông là một bộ lịch pháp rất giá trị, khảo cứu về năm tháng, nhật thực, nguyệt thực, thời tiết, vị trí các ngôi sao... từ trước công nguyên tới thế kỷ 15. Với tác phẩm này, ông được coi là một nhà khoa học Việt Nam cuối thời Trần. Hồ Nguyên Trừng trong Nam Ông mộng lục có đoạn đánh giá về ông như sau :
“Ông thông hiểu lịch pháp, thường xem sách thông kỷ trăm đời, ngược lên khảo đến Giáp Thìn vua Nghiêu, vua Thuấn xuống đến nhà Tống, nhà Nguyên, vạch ra vận hành tiền độ của mặt trăng, mặt trời giao dung (che lấp lẫn nhau) so với thời xưa rất phù hợp...” 
Sáng tác chủ yếu của Trần Nguyên Đán là hai tác phẩm Bách thế thông kỷ và Băng Hồ ngọc hác tập. Rất tiếc cả hai tác phẩm này đã thất lạc đến nay chưa tìm thấy. Hiện chỉ tìm thấy 51 bài thơ của ông chép trong các sách Việt âm thi tập, Toàn Việt thi lục, Trích Diễm thi tập, Tinh tuyển gia luật thi... Dù vậy, với công lao to lớn đóng góp cho lịch sử dân tộc và tư tưởng yêu nước thương dân tiến bộ thể hiện trong những sáng tác văn thơ của mình, Trần Nguyên Đán xứng đáng là một danh nhân văn hoá, một tác gia Hán - Nôm tiêu biểu cuối thời Trần.
….…….
Chú thích :

(*) Tương Như : Tư Mã Tương Như (179 – 118 trước Công nguyên) tự Trường Khanh, người Thành Đô nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) là nhà viết phú tiêu biểu đời Hán. Ông nổi tiếng là người tài hoa. Tiếng đàn của ông đã lôi cuốn được người đàn bà goá còn trẻ và đẹp là Trác Văn Quân.





CÓ HAY KHÔNG LỆ KHAI ẤN ĐỀN TRẦN (NAM ĐỊNH)?

                    TRẦN MỸ GIỐNG - DƯƠNG VĂN VƯỢNG

  Lễ khai ấn đền Trần (Nam Định) diễn ra có quy mô, có tổ chức từ vài chục năm gần đây vào ngày Rằm tháng Giêng hàng năm đã thu hút hàng vạn người về dự. Những người về dự lễ khai ấn không chỉ là dân thường mà còn có rất đông quan chức các ngành các cấp từ trung ương xuống địa phương. Ảnh hưởng của khai ấn đền Trần Nam Định như một phản xạ dây truyền kéo theo nhiều nơi khác cũng tiến hành khai ấn và bán ấn như đền Trần ở Hưng Hà (Thái Bình), đền Trần Thương (Hà Nam)... Khai ấn đền Trần trở thành một sinh hoạt tâm linh có ảnh hưởng lớn trong đời sống tinh thần của nhân dân cả nước nói chung và Nam Định nói riêng. Đó là một thực tế không thể phủ nhận.
  Hiện có hàng nghìn bài báo viết về lễ khai ấn đền Trần khen chê rất trái ngược nhau, trong đó có ý kiến của các nhà khoa học rất đáng được chú ý. Một số tác giả viết bài nhận định lệ khai ấn đền Trần (Nam Định) diễn ra từ thời Trần, bắt nguồn từ việc sau khi đánh thắng quân Nguyên - Mông, vua Trần thiết triều ở Tức Mặc - Thiên Trường để thưởng công, ban tước. Nếu đúng như vậy thì không có gì phải bàn cãi, lệ khai ấn là có thật ở thời Trần. Nhưng rất tiếc những tác giả này lại không đưa ra một chứng cứ nào chứng minh điều nhận định của mình là xác đáng để bạn đọc tin tưởng. Điều đáng ngờ nhận định này là ở chỗ: thường thì việc xét công ban thưởng phải diễn ra ở kinh thành, cụ thể thời Trần là kinh thành Thăng Long, sao lại có chuyện xét công ban thưởng ở Thiên Trường? Chúng tôi cũng không tìm thấy cuốn sử nào viết nhà Trần, sau khi chiến thắng Nguyên Mông đã xét công ban thưởng ở Thiên Trường. Như thế, nhận định nêu trên là không đủ cơ sở thuyết phục.
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên (Viện Khảo cổ học VN) trong bài “Có hay không tục “Khai ấn đền Trần” đăng trên trang wet http://hn.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/co-hay-khong-tuc-khai-an-den-tran-c46a358596.html và nhiều báo điện tử khác, khẳng định: “Không hề có chuyện nguồn gốc của lễ khai ấn bắt nguồn từ việc sau khi đánh thắng quân Nguyên - Mông, vua Trần thiết triều ở Tức Mặc - Thiên Trường để thưởng công, ban tước như nhiều ý kiến. Việc đó sử chép là diễn ra ở Thăng Long”. Tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên còn viết bài “Lễ khai ấn đền Trần - một xuyên tạc lịch sử” nói rõ trong thư tịch cổ không hề chép gì về cái gọi là “lễ khai ấn đền Trần”.
Chính sử có chép: vua Trần Anh Tông từng ban tước hơi nhiều cho các quan trong triều. Thượng hoàng Nhân Tông biết được sai lấy sổ xem rồi ghi vào trong đó rằng: “Sao lại có một nước bé bằng bàn tay mà phong quan tước nhiều như thế?” Từ đó vua Trần Anh Tông lại càng thận trọng khi ban chức tước. Xem như thế, rất khó có chuyện vua Trần có lệ khai ấn đền Trần.
Tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên còn dẫn sách “Ấn chương Việt Nam” nêu rõ các ấn bằng gỗ ở nhiều đền thờ đức thánh Trần được phân loại là ấn tín trong lĩnh vực tôn giáo tín ngưỡng. Cuối đời lui về Kiếp Bạc, Hưng Đạo vương có tu theo Đạo giáo và sau khi mất đã hiển thánh cho nên các đền và điện thờ đức thánh Trần và việc hành nghề đạo sĩ phải có con dấu của đức thánh Trần để đóng trên bùa chú cho tăng tính linh thiêng. Như vậy, ấn đức Thánh Trần dùng trong sinh hoạt tôn giáo chứ không có chuyện khai ấn thưởng công ban tước trong chính quyền.
Trong bản thảo bài viết “Tìm hiểu lệ khai ấn...” của Nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang lúc sinh thời nói rõ có hai loại lễ khai ấn:
- Một là khai ấn “Sắc mệnh chi bảo” của nhà vua dùng cho các quan trước và sau kỳ nghỉ tết hàng năm từ 26 tháng Chạp đến 6 tháng Giêng. Phải chăng ấn “Trần triều quốc bảo” mà ngành văn hóa Nam Định phát hiện gần đây chính là loại ấn thuộc loại ấn “Sắc mệnh chi bảo”?
- Hai là khai ấn “Trần miếu tự điển” nghĩa là ấn điển thờ ở miếu nhà Trần vào Rằm tháng Giêng hàng năm dành cho nhân dân đi lễ đầu năm, xin tờ điệp có dấu “Trần miếu tự điển” đem về treo ở nhà trừ tà ma, cầu bình an khỏe mạnh, mọi việc như ý. Một thời gian dài Nam Định đã dùng ấn “Trần miếu tự điển” trong lễ khai ấn đền Trần.
Tuy nhiên nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang cũng không đưa ra được cơ sở nào cho bài viết của mình.
Còn các nhà nghiên cứu chuyên ngành ở địa phương nói gì về lệ khai ấn đền Trần? Tháng 7 năm 2009 diễn ra cuộc hội thảo khoa học “Lễ khai ấn đầu xuân tại đền Trần Nam Định - giá trị và giải pháp bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân tộc” do Viện Văn hóa - Nghệ thuật Việt Nam phối hợp với Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nam Định tổ chức. Trong số các bài tham luận của hội thảo, chúng tôi chú ý tới một vài tham luận đề cập đến tục lệ khai ấn đền Trần của các nhà nghiên cứu địa phương.
Nhà nghiên cứu Phạm Văn Huyên (trưởng phòng nghiệp vụ ban quản lý di tích và danh thắng tỉnh Nam Định, hiện là Phó Giám đốc) với bài tham luận “Khu di tích lịch sử - văn hóa đền Trần với lễ tục khai ấn đầu xuân” cho biết ý nghĩa ban đầu của lễ tục khai ấn là mở đầu cho ngày làm việc của một năm mới, song không đưa ra được bằng chứng văn bản tin cậy nào để thuyết phục rằng thời Trần có lễ tục khai ấn.
Nhà nghiên cứu Trần Đăng Ngọc (phó chủ tịch Hội Khoa học Lịch sử tỉnh Nam Định, nguyên giám đốc bảo táng tỉnh Nam Định) trong tham luận “Lễ khai ấn ở đền Trần Nam Định” viết: “Theo các cố lão ở địa phương cũng như truyền thuyết dân gian thì trước đây vào thời Trần, hằng năm cứ vào ngày 15 tháng chạp cơ quan hành chính các cấp nghỉ ăn tết, mãi đến rằm tháng giêng năm sau mới trở lại làm việc bình thường. Ngày làm việc đầu tiên trong năm hết sức quan trọng nên được triều đình tổ chức rất trọng thể. Các dấu ấn đã niêm phong cất đi nghỉ ăn tết, nay được lấy ra lau chùi sạch sẽ. Triều đình tổ chức lễ cáo trời đất, sau đó nhà vua sẽ đóng con dấu đầu tiên để mở đầu cho một năm làm việc và mong cho mọi sự tốt lành...” Nhà nghiên cứu Trần Đăng Ngọc còn miêu tả quá trình hành lễ khai ấn đền Trần khá chi tiết. Tuy nhiên, ông cũng không đưa ra được những nguồn tư liệu lịch sử đáng tin cậy mà chỉ dựa theo lời kể của các cụ cố lão, cao niên hiện nay.
  Chúng tôi được biết, theo ông Nguyễn Văn Thư (Giám đốc bảo tàng tỉnh Nam Định) và ông Nguyễn Xuân Cao (Chuyên viên Hán Nôm Bảo tàng Nam Định) thì: Lịch sử, nguồn gốc lễ khai ấn chưa rõ bắt đầu từ thời gian nào, không có sử sách nào ghi chép mà chỉ tương truyền trong dân gian là có từ thời Trần Thái Tông khi về yết lễ tại tiên miếu và ban thưởng cho nhân dân.
Như vậy, ý kiến của các nhà nghiên cứu địa phương đều không trích dẫn được nguồn gốc lịch sử, tài liệu chính sử hay dã sử hoặc thư tịch cổ nào ghi chép về lễ hội này, mà chỉ căn cứ vào ý kiến của các cụ cao niên hoặc tương truyền trong dân gian. Còn các nhà nghiên cứu cấp trung ương thì không có mấy người đề cập trực tiếp đến lệ khai ấn đền Trần, nếu có thì cũng chung chung và không có bất cứ tài liệu nào làm cơ sở chứng minh lệ khai ấn đền Trần là có thật trong lịch sử.
Trong khi sưu tầm tài liệu để biên soạn cuốn “1000 năm Thăng Long – Hà Nội, Thiên Trường: Thơ” do Hội Nhà văn xuất bản năm 2010, chúng tôi có phát hiện bài thơ của Đỗ Hựu có nội dung nói về lễ khai ấn đền Trần. Bài thơ này đã được Ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định đưa vào “Đề án tổ chức lễ hội đền Trần 2012” và lấy đó làm căn cứ chủ yếu. Tiến sĩ Nguyễn Chí Bền (Viện VHNT), tiến sĩ Nguyễn Xuân Năm (nguyên Giám đốc Sở VHTT Nam Định) và một số người khác cũng dùng bài thơ này làm căn cứ chính để tham luận bảo vệ lệ khai ấn đền Trần trong Hội thảo về Đề án tổ chức lễ hội (khai ấn) đền Trần diễn ra ngày 18 – 7 – 2011 tại Nam Định. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Năm công khai nói ông có công đưa lễ khai ấn đền Trần lên tầm quốc gia. Trái ngược với ý kiến này, tiến sĩ Nguyễn Hồng Kiên tham luận “Về cái gọi là lễ khai ấn đền Trần” nhấn mạnh: Cái ấn Trần Miếu Tự Điển được dùng trong việc đóng ấn chỉ là ấn tín ngưỡng và nó chỉ quan trọng đối với dân làng Lộc Vượng, chứ không có ý nghĩa gì đối với toàn quốc như cách hiểu của nhiều quan chức và người dân. Tiến sĩ Nguyễn Xuân Diện tham luận nêu rõ “Hội thảo khoa học thì phải căn cứ vào những căn cứ khoa học lịch sử; khảo cổ, Hán Nôm, chưa phát hiện được tài liệu gì hết, đúng như tham luận của TS Hồng Kiên. Nếu không có chứng cứ vào lịch sử, phải dựa vào dân gian: lễ hội nền tảng là ở trong dân gian. Khai ấn và phát ấn có hay không?” Ông đòi được phản biện về chứng cứ của Đề án nhưng ông Nguyễn Chí Bền vội kết thúc hội nghị với lý do hết giờ. Ông Nguyễn Xuân Diện tuyên bố: “Tôi - Nguyễn Xuân Diện cho rằng: Bài thơ chữ Hán của Đỗ Hựu (1441 - ?), Tiến sĩ Khoa Mậu Tuất (1478) là tư liệu được Đề án Lễ hội 2012 đưa ra làm căn cứ chính cho rằng việc Khai ấn có ở tk XV, là tài liệu chưa được kiểm chứng, không đáng tin cậy, có thể là bịa đặt.”
Là những người phát hiện và dịch bài thơ của Đỗ Hựu, chúng tôi có ý kiến như sau:
Khi phát hiện và dịch bài thơ này, chúng tôi không đặt ra mục đích để các vị chức sắc đưa vào Đề án lễ hội khai ấn đền Trần 2012 mà chỉ đơn giản là nhằm cung cấp cho bạn đọc một bài thơ mới tìm thấy trong di sản của cha ông để lại. Nôi dung bài thơ được dịch và in trong sách từ giữa năm 2010, nhưng tới ngày 15 tháng 7 năm 2011 chúng tôi mới công bố bài thơ được lấy từ “Nam châu vịnh tập”. Hơn nữa chúng tôi không đủ tài để bịa ra một bài thơ chữ Hán hay như thế.
Tác giả Đỗ Hựu sinh năm 1441, không rõ năm mất, quê xã Đại Nhiễm (thời Trần là xã Văn Tập), huyện Ý Yên nay thuộc xã Yên Bình, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9(1478) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến Lại bộ Tả Thị lang, từng đi sứ nhà Minh và có công chiêu dân khai hoang vùng đất ven sông Hát. Ông có tác phẩm “Sơn thủy hành ca”.
Theo nội dung và chú thích bài thơ của Tiến sĩ Đỗ Hựu ở thế kỷ 15 thì lệ khai ấn đền Trần tương truyền là lệ vốn có của riêng tộc Trần, vào thời kỳ tác giả sống lễ khai ấn tại tộc miếu của họ Trần vẫn còn diễn ra. Lệ này không phải lệ của quốc gia. Bài thơ tuy là sáng tác văn học nhưng những điều phản ánh trong tác phẩm lại là điều tai nghe mắt thấy nên rất đáng tin. Như vậy, lệ khai ấn thời Trần không phải thời Nguyễn (Minh Mệnh) hay về sau này mới nghe, mà đã được tương truyền từ thế kỷ 15 mà bài thơ của Đỗ Hựu là một minh chứng rõ ràng. Các ý kiến phủ định cho rằng lệ khai ấn đền Trần là không có thực trong lịch sử là không khách quan, là phủ định lịch sử. Ngược lại, các ý kiến khẳng định lệ khai ấn đền Trần là lệ quốc gia hoặc trong thực tế nâng lệ này lên tầm quốc gia là bóp méo sự thật lịch sử.
Theo chúng tôi được biết thì hiện tới thời điểm này, chưa có một tác giả nào đưa ra được chứng cứ xác thực về lệ khai ấn đền Trần sớm và thuyết phục hơn bài thơ của Tiến sĩ Đỗ Hựu. Xin chép lại bài thơ này để nhiều người đọc.
      
      
      
      
      
      
      
      
      

Phiên âm : THẬP TỨ DẠ QUAN KHAI ẤN HỘI
Tằng văn tích nhật hữu Trần vương
Tức Mặc do lưu tộc tổ đường
Vạn Khoảnh di lai điền địa quảng
Khang thôn định trạch hiếu hoà chương
Triển thành dĩ tế tiền ngự miếu
Khai ấn duy kỳ hậu khắc xương
Thiên hạ như kim thùy đối thử
Tư dân tư ấp vọng ân trường.

Dịch nghĩa :
  TỐI MƯỜI BỐN ĐI THĂM HỘI KHAI ẤN
Từng nghe rằng ngày trước vua Trần
Ở đất Tức Mặc có đền thờ tổ
Ban đầu dời tới Vạn Khoảnh(1) đất đai rộng rãi,
Sang Khang thôn, lấy sự hiếu với mẹ cha, hoà cùng anh em cư trú.
Từ ấy tỏ lòng thành kính hằng năm tế tại Ngư miếu;
Và khai ấn để cầu sự tốt lành cho lớp tương lai(2)
Nay trong thiên hạ, nơi nào sánh được
Thế là dân làng sở tại mãi mãi nhờ ơn to lớn.
Dịch Thơ:
Từng nghe ngày trước Trần vương
Tức Mặc còn có tổ đường nơi đây
Dời về Vạn Khoảnh đất này
Khang thôn định trạch thảo ngay hoà hài
Lòng thành tế cá hôm mai
Khai ấn cầu vọng lâu dài yên vui
Đến nay đâu sánh ở đời
Dân thôn mãi mãi bày lời tạ ơn.
(Dương Văn Vượng dịch)
….……..
Chú thích :
(1) Vạn Khoảnh: Nhà Trần vốn gốc ở Chương Châu mang họ Dương, dời đến Yên Tử vẫn thế, về Vạn Khoảnh vẫn chưa đổi, sau sang Khang Kiện, vì bất hoà nên mới chia ra. Chi họ Dương dời sang lập làng Dương Xá (nay là xã Tiến Đức, Hưng Hà, Thái Bình) chi ở lại lấy họ Trần, nay là Tức Mặc - Mỹ Lộc- Nam Định.
(2) Lệ này tương truyền là lệ vốn có của tộc đảng chốn quê của họ Trần. Thiên hạ không thấy có lệ ấy




TIẾN SĨ VŨ HUY TRÁC và Giang Nam Lão Phố Thi Tập

  I – Tiểu sử Vũ Huy Trác:
  Tiến sĩ Vũ Huy Trác (gia phả họ Vũ chép là Vũ Duy Trác) hiệu Giác Trai, thuỵ Trung Thận, sinh ngày 7 tháng 5 năm 1730 tại ấp Lộng Điền, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng, đạo Sơn Nam (nay là thôn Lộng Điền, xã Nghĩa Đồng, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định). Ông mất ngày 3 tháng 10 năm 1793. Thân phụ ông là Huấn đạo phủ Trường Khánh Vũ Hưng Nhai, thân mẫu là bà Vũ Thị Ngọ. Theo tộc phả họ Vũ, ông thuộc đời thứ tám tính từ khi cụ thuỷ tổ họ Vũ về lập nghiệp ở Lộng Điền.
Vũ Huy Trác là một học trò thông minh, hiếu học. Năm lên tám tuổi, ông theo học thầy Kim Lan họ Trịnh là Tri phủ Cẩm Giàng. Năm Đinh Mão (1747) ông dự kỳ thi sát hạch ở huyện Đại An được xếp thứ ba khi mới 18 tuổi. Năm Canh Ngọ (1750) ông theo học Thám hoa Phan Kính(1). Năm Tân Mùi (1751) Vũ Huy Trác thọ nghiệp quan Quốc tử giám trực giảng Trần Văn Trứ(2).
Năm Quý Dậu (1753) Vũ Huy Trác đỗ Tỉnh nguyên Hương cống. Lúc này cha ông đã mất được ba năm. Theo yêu cầu của mẹ, sau khi hết tang cha, ông lập gia đình với con gái cụ sinh đồ Phạm Khắc Du.
Sau khi lấy vợ, Vũ Huy Trác vẫn quyết chí học hành để đỗ đạt cao hơn. Ông đã tìm đến nhiều thày giỏi để học tập. Năm Ất Hợi (1755) ông theo học thầy Hà Tông Huân(3). Sau đó ông lại tìm đến tận nhà Hoàng giáp Đoàn Nguyễn Thục xin theo học(4). Sau khi đã ra làm quan, ông còn tìm đến theo học Hoàng giáp Nguyễn Tông Quai ở Phúc Khê(5).
Vũ Huy Trác là người học giỏi, có chí và đức độ nên được tiến cử làm Thị nội thư tả công phiên tùng giảng ứng vụ vào năm Tân Tỵ (1761). Năm Nhâm Ngọ (1762) ông được thăng Binh bộ Tư vụ. Năm Giáp Thân (1764) ông được bổ làm Huấn đạo phủ Tiên Hưng. Năm Mậu Tý (1768) ông làm Tri huyện Nam Chân. Tương truyền, thời gian làm quan Tri huyện Nam Chân ông đã hết lòng giúp đỡ nhân dân nên được dân sở tại rất yêu mến. Thấy ông hiếu học, ham đọc sách, nhân dân trong huyện đã góp tiền mua một mảnh đất làm ngôi nhà ba gian khang trang ở khu đất Long Đàm để ông làm nơi đọc sách. Nhưng ông chưa được ở ngôi nhà đó ngày nào thì phải chuyển đi làm quan ở nơi khác.
Năm Cảnh Hưng 33 đời Lê Hiển Tông khoa Nhâm Thìn (1772) Vũ Huy Trác đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Năm Quý Tỵ (1773) ông được thăng Hàn lâm viện hiệu thảo. Năm Giáp Ngọ (1774) ông làm Giám sát ngự sử đạo Thanh Hoá. Cuối năm này ông lại được đổi làm Hiến sát sứ Kinh Bắc. Năm 1776 ông làm Công khoa đô cấp sự trung. Năm Đinh Dậu (1777) ông được đổi làm Tham chính Thanh Hoá. Năm 1779 ông làm Hiến sát sứ Nghệ An. Ông tỏ ra là viên quan mẫu mực, có tài thu phục nhân tâm, được triều đình tín nhiệm. Nhiều nơi ông đến nhậm chức được dân sở tại xin vẽ hình để thờ phụng. Năm Quý Mão (1783) triều đình cử ông làm Tham chính Kinh Bắc. Năm 1784 ông được thăng Hàn lâm viện thị thư và làm Đốc trấn Lạng Sơn. Ông đã giải quyết nhiều vụ tai ương thấu tình đạt lý, được nhân dân mến phục. Bằng tài đức và tấm lòng chân thực yêu thương con người, ông còn cảm hoá quy tụ được dân phiên mục. Năm Ất Tỵ (1785) ông lại được Triều đình triệu về kinh giao cho chức Hàn lâm viện thị giảng (hàm tòng ngũ phẩm).
Ngày 2 tháng 12 năm Ất Tỵ (1785) thân mẫu ông qua đời. Ông được về quê chịu tang. Tháng 6 năm 1786 Bắc Bình vương Tây Sơn Nguyễn Huệ ra Bắc diệt Trịnh. Vũ Huy Trác đang cư tang mẹ ở quê thì được chiếu của vua Lê liền đến Nhĩ Độ theo việc binh và được cử làm Giám quân đạo Sơn Nam. Ông có công giữ vững thành Vị Hoàng (nay thuộc thành phố Nam Định), được vua Lê ban chức Hàn lâm viện Thị độc, tước Côi Lĩnh bá. Năm 1788 ông về kinh nhận chức Lễ bộ Tả thị lang (hàng tam phẩm) kiêm Quốc Tử giám Tư nghiệp.
Năm Kỷ dậu (1789) kinh thành thất thủ, Quang Trung đại phá Quân Thanh, vua Lê chạy đi Trung Quốc. Vũ Huy Trác theo vua Lê đến biên giới nhưng vua Lê dụ ông về quê vì ông đã già yếu.
Sau khi về trí sĩ ở quê, Vũ Huy Trác dạy học, làm vườn, làm thuốc chữa bệnh, làm thơ, sống thanh đạm. Ông là một nhà giáo có nhiều học trò giỏi như Tri huyện Chân Ninh Đặng Xưởng người làng Ninh Cường, Tri phủ Nghĩa Hưng Nguyễn Văn Tường...
Vũ Huy Trác chẳng những hiếu thảo với cha mẹ mà còn có tình nghĩa với làng xóm. Ông đã dành dụm tiền lương mua gỗ lim làm lại ngôi chùa làng Lộng Điền.
Ngày 3 tháng 10 năm 1793 Vũ Huy Trác tạ thế, để lại niềm tiếc thương vô hạn cho dân làng. Ông được táng ở sứ Hậu Đồng làng Vân Cù (nay thuộc huyện Nam Trực). Sau khi mất ông được thờ phối tự với thành hoàng làng Lộng Điền.
Quan Đông các hiệu thư Ngô Tiêm (1749 - 1818) người Cát Đằng (nay thuộc xã Yên Tiến, huyện Ý Yên), đỗ Tiến sĩ năm 1779 đã làm câu đối viếng Vũ Huy Trác như sau:
Vị giang nhất phiến cô trung, Gia Cát vị vong do thị Hán
Lão bạ lục niên nhiêu hạng, Bá Di trung tử bất thần Chu.
Câu đối lấy sự tích ở Trung Quốc ca ngợi Tiến sĩ Vũ Huy Trác tài đức như Gia Cát Lượng thời Tam Quốc, trung quân như Bá Di thời Chiến Quốc vậy.

  II – Một số giai thoại về Tiến sĩ Vũ Huy Trác: 

  1 – Là thủy thần sông Hát:
  Năm Canh Tuất (1730) khắp vùng Đại An bị ngập lụt, dân tình khổ cực. Sáng ngày 6 tháng 5, ông lý trưởng Lộng Điền là Nguyễn Xuân Điệp lội nước ra chùa tìm gặp ông tiên chỉ Trần Đức Huy để kể về giấc mơ đêm qua ông được thần linh báo mộng là ngày mai con trai quan Huấn đạo Vũ Hưng Nhai ra đời nước sẽ rút hết. Con trai quan Huấn Vũ là thuỷ thần sông Hát (sông Đáy). Ông Chánh tổng Hương khi biết chuyện này liền sai lý Điệp và tiên chỉ Huy mang thủ lợn và gạo đến mừng quan Huấn Vũ sinh quý tử. Sau khi con trai quan Huấn Vũ ra đời, được đặt tên là Vũ Huy Trác thì nước bắt đầu rút xuống. Chuyện đến tai quan Tri phủ Nghĩa Hưng Lâm Duy Hợp. Đích thân quan phủ cưỡi ngựa đến xem hư thực ra sao và sai người mang ba thúng gạo đến nhà mừng quan Huấn Vũ.
(Theo Đại An huyện chí)
  2 – Trị ma cây đa:
  Tương truyền hồi đó ở phía đông làng Lộng Điền, bên Cồn Chè có một cây đa cành lá xum xuê che kín vài sào ruộng. Người trong làng đồn cây đa là nơi trú ngụ của ma quỷ. Mùa hè nóng nực, ai đi qua mà ngồi nghỉ dưới gốc đa đều bị ốm, phải mang lễ vật đến cúng tế mới khỏi. Súc vật đi qua gốc đa mà bậy ra thì thế nào cũng bị vật chết. Chuyện về cây đa ma quỷ không biết đã xuất hiện từ khi nào làm nhiều người rất sợ hãi. Một buổi chiều ngày rằm tháng Giêng, cậu học trò Vũ Huy Trác ở chùa về nhà, ghé vào gốc đa tìm lá cối xay cho mẹ. Cậu Trác đã cùng bạn là Lê Văn Thảo nối dây mơ trói gốc đa lại rồi dùng cành dâu làm roi đánh đủ 100 roi trị tội cây đa ma quỷ. Ít lâu sau cây đa chết đứng. Dân làng kháo nhau cây đa ma quái đã bị trò Vũ Huy Trác đánh chết rồi.
                              (Theo Đại An huyện chí)
  3 – Là con vua Thủy Tề:
  Thật trùng hợp là mỗi lần Tiến sĩ Vũ Huy Trác về thăm quê trời lại đổ mưa rào. Vì thế dân địa phương cho rằng ông là con vua Thủy Tề giáng thế. Ông lại là người rất giỏi chữa bệnh nên dân gian lan truyền tin ông là con vua Thủy Tề giáng thế. Một lần có con bệnh làng bên ốm thập tử nhất sinh, đã chạy chữa nhiều nơi mà bệnh tình không thuyên giàm, chỉ còn nằm chờ chết. Có người mách người nhà con bệnh khênh bệnh nhân đến nhà Vũ Huy Trác xin cứu chữa. Vũ Huy Trác bắt mạch, kê đơn bốc thuốc và viết một chữ son lên giấy rồi đốt hòa nước mưa cho con bệnh uống. Sau một thời gian được Vũ Huy Trác chữa trị, con bệnh khỏi hẳn. Dân làng càng tin ông là con vua Thủy Tề giáng thế và lưu truyền rộng rãi trong dân gian.
  4 - Đối đáp với sứ giả Tây Sơn:
  Sau khi bình định Bắc Hà, vua Quang Trung có chủ trương sử dụng những quan lại có năng lực của nhà Lê. Xét thấy Vũ Huy Trác là vị quan nhà Lê có tư cách đạo đức trong sáng và có tài thu phục nhân tâm, vua Quang Trung sai sứ giả về tận quê mời ông ra làm quan với triều Tây Sơn. Nhưng ông mang nặng tư tưởng "Tôi trung không thờ hai chúa", cho rằng mình hưởng lộc nhà Lê mà lại ra giúp Tây Sơn thì sẽ bị người đời chê cười nên ông đã từ chối, không ra làm quan nữa.
  Khi sứ giả Tây Sơn về quê mời Vũ Huy Trác ra làm quan với nhà Tây Sơn, ông viện cớ mắt thong manh để từ chối. Sứ giả không tin, liền lấy cây kim nhọn bất ngờ dứ dứ vào mắt ông. Thấy ông mắt không chớp, nét mặt vẫn bình thản, sứ giả liền đọc một vế đối:
Con ngươi lồng lộng trong như ngọc.
  Ông ứng khẩu đáp lại ngay:
  Thằng bé ngăm ngăm cứng tựa đanh.
  Vế đối của sứ giả thanh mà tục, tỏ ý xấc xược lại nhắc đến tên làng Lộng Điền của Vũ Huy Trác. Vế đối của Vũ Huy Trác dùng chữ "nghiêm trang" nói đến tên làng Ngăm của sứ giả (Vị sứ giả này là người làng Nghiêm Trang), cũng rất thanh mà rất tục, tỏ rõ ý coi khinh sứ giả (coi vị sứ giả này cũng như ... cái chim thằng bé mà thôi). Vế đối của Vũ Huy Trác rất chuẩn, chữ đối chữ, ý đối ý làm sứ giả tím mặt mà không chê vào đâu được. Sau sự kiện này, vua Quang Trung biết không thể thuyết phục được Vũ Huy Trác nên đành cho biên tên ông vào sổ nhiêu lão và để yên cho ông sống ở quê.
  Dân gian lưu truyền và nhiều sách ghi lại chuyện Vũ Huy Trác đối đáp với sứ giả Tây Sơn như là một giai thoại xác nhận tài năng văn học của ông.
  5 – Làm quan không sợ uy quyền:
  Trong cả cuộc đời làm quan, Vũ Huy Trác luôn giữ mình trong sạch, thanh liêm và cương trực. Thời gian làm Hiến sát sứ Kinh Bắc, ông đã sử nhiều vụ án rất nghiêm minh, bênh vực người dân vô tội, trấn áp bọn quan lại và kẻ giàu có cậy quyền thế hà hiếp nhân dân, được nhân dân hết lời ca ngợi. Vụ phạt Đặng Mộng Lân là một trong những vụ án Vũ Huy Trác đã xử được nhân dân ca ngợi. Chuyện kể rằng:
  Đặng Thị Huệ người làng Phù Đổng, huyện Tiên Sơn, sứ Kinh Bắc là người có nhan sắc nhưng vô cùng xảo quyệt và đầy tham vọng. Sau khi được tuyển làm cung nữ, thị Huệ tìm mọi cách quyến rũ Thái tử Lê Duy Vĩ. Nhưng khi biết vua Lê không có thực quyền, thị Huệ lại tìm cách chạy sang phủ chúa để quyến rũ Trịnh Sâm. Từ một cung nữ, Đặng Thị Huệ trở thành Tuyên phi đầy quyền lực, được chúa Trịnh vô cùng yêu chiều. Đặng Mộng Lân (thường gọi là Ba Trà) là em trai Đặng Thị Huệ, đã ỷ thế của chị tha hồ tác oai tác quái, làm nhiều điều ngang ngược côn đồ mà không ai giám trị tội. Khi Vũ Huy Trác về làm Hiến sát sứ Kinh Bắc, có người đánh bạo kêu lên ông là Ba Trà tự do giết người cướp của, hãm hiếp phụ nữ giữa ban ngày, ai chống cự thì bị cắt vú sẻo tai... Nhân dân vô cùng căm phẫn nhưng các quan sở tại đều phải làm ngơ vì sợ uy quyền nhà chúa. Vũ Huy Trác cho gọi Đặng Mộng Lân đến công đường xét xử nhưng y không đến. Ông liền sai lính đến bắt giải y tới công đường, kể tội và ra lệnh phạt 30 trượng rồi tống giam y vào ngục. Việc đến tai nhà chúa, Tuyên phi vô cùng tức giận, nhưng chúa Trịnh đành phải làm thinh vì biết Vũ Huy Trác là người cương trực. Vua Lê thì hết lời khen ngợi và thưởng cho ông 500 quan tiền.
  Làm quan nghiêm minh, không sợ uy quyền, quyết giữ nghiêm phép nước như Vũ Huy Trác là tấm gương sáng muôn đời.

  III - Giang nam lão phố thi tập(6): 

  Sinh thời Vũ Huy Trác làm nhiều thơ phú, nhất là giai đoạn từ sau khi ông về sống ở quê nhưng không ghi lại thành tập nên ngày nay phần lớn đã bị thất lạc. Người học trò của ông là Nguyễn Văn Tường đã sưu tầm được 50 bài, chép lại đặt tên là Giang nam lão phố thi tập. 
Thơ Vũ Huy Trác bộc lộ tâm trạng yêu nước, thương dân, biết ơn công đức tiền nhân. Ông khẳng định quan điểm sống của mình thật chí lý:
Vinh vi ngưu mã thân tâm sỉ
Nhục tác thần tiên miếu tự truyền.
(Thế nhân)
(Vinh làm trâu ngựa thân thêm nhục
Nhục được dân thờ lại hoá vinh).
Cuộc đời ông đã hành động theo quan niệm sống ấy, tất cả vì dân. Bởi vậy, khi làm quan cũng như khi về hưu, ông tự thấy mình “mái cỏ suy tư không vướng vít”, “hành tàng đều không thẹn”.
Ông viết một loạt bài về chủ đề danh nhân, di tích lịch sử của đất nước với thái độ trân trọng, tự hào: Xuân nhật bái mộ tổ, Nhân quy ngoại tổ gia yết phúc thần miếu, Hoà Lạc miếu, Hiến Nam Cần thôn Dương Hậu miếu, Nguyễn gia tam tướng, Hải Khẩu tiên từ, Độc Cước từ sơn, Nham Sơn động, Tang lâm Thánh Mẫu từ, Dữ Từ Quán Hoàng Tiến sĩ, Tạo sĩ công, Quá Phùng Vương từ, Triệu Vương miếu, Quá Phạm tổ từ, Phạm công miếu, Đức Nhuệ công
  Trên đường công cán, qua bến Kim Tông thuộc huyện Ý Yên, ông nhớ người họ Đặng thời Trần từng có công bảo vệ và xây dựng vùng đất nơi đây qua bài Kim Tông cổ độ (Kim Tông nơi bến sông xưa):
Trần mạt Đặng công vi sự quốc
Thiên sơn vạn thuỷ cảm ngôn nan
Phúc Thành ngự tặc tiêu Nam sử
Già cảng trừ Minh khứ vãn lan
Cổ độ trúc đê tồn tự miếu
Thuỷ thần thác tích ký từ nhan
Toán lai chí kim tứ bách tải
Tư đức hương yên bất cải quan.
(Trần mạt Đặng công lo việc nước
Muôn sông ngàn núi chẳng từ nan.
Phúc Thành gặp giặc ghi Nam sử,
Cảng Thái trừ Minh lớp sóng buông.
Ngăn lũ đắp đê dân kể lại,
Thuỷ thần mượn bóng đặt tên đền.
Bốn trăm năm trải không thay đổi,
Nhang khói ơn sâu mãi mãi bền).
Trước cảnh một số di tích ghi công các tiền nhân bị bỏ hoang phế, ông lấy làm đau lòng, như bài Lê sơn Lý Đại Thành từ (Đền thờ Lý Đại Thành ở núi Lê):
Mạc thời đại tướng trấn biên cương
Hải tặc văn thanh bất cảm đương
Cộng đạo Nam nhân sùng tiết nghĩa
Như hà hương hoả thái thê lương?
(Mạc tướng biên cương từng trấn giữ
Nghe danh giặc biển đã kinh hoàng
Người Nam vốn trọng điều ân nghĩa
Sao để nơi này lạnh khói hương?)
Ông tỏ ra hài lòng trước việc nhân dân chăm sóc nơi tưởng niệm danh nhân, hoặc nhắc nhở người sau phải nhớ công ơn của tiền nhân. Trong bài Hoà Lạc miếu ông ca ngợi công tích đánh đuổi giặc phương Bắc dưới thời Trần của hai anh em được thờ làm thành hoàng làng và nhắc nhở:
Ký ngữ Nguyễn, Lê thị
Phụng sự yếu tình thành.
(Nhắn lời cho Lê, Nguyễn
Thờ cúng phải chân thành).
Do điều kiện lịch sử hạn chế, ông luôn tâm niệm quan điểm "Tôi trung không thờ hai chúa", cuối đời còn luyến tiếc nhà Lê:
Thân cư giang chi nam
Tâm tại giang chi bắc
  (Giang nam lão phố.)
(Thân ở bên bờ nam
  Tâm lại bên bờ bắc).
Ông thừa hiểu thời thế không thể đảo ngược bánh xe lịch sử, nhưng ông vẫn canh cánh bên lòng nỗi luyến tiếc nhà Lê :
Lợi độn binh gia nan dĩ vọng
Quân thần nghĩa tụ huấn lương lân
(Tạc nhật)
(Trông thắng việc binh không thể được,
Dựng cờ dấy nghĩa lại khó khăn).
Phong tiền trà cúc phô xuân sắc
Thế ngoại hương dân yếm cựu liêu
Thí bốc hồi kinh chân bất vọng
Ỷ lan song lý ức đan biều.
(Nhàn ngâm)
(Trước gió cúc trà khoe sắc mới
Ngoài đời dân chúng chán vua quan
Về kinh ngày ấy dường không thể
Tựa cửa người xưa vẫn nhớ mong).
Vũ Huy Trác là một y sư có tiếng ở vùng đất Sơn Nam. Trong Giang nam lão phố thi tập của ông có tới 18 bài thơ về các bài thuốc Nam. Ông rất trọng nghề y, coi người làm cha làm mẹ biết nghề y là nhân từ, con cái biết nghề y là có hiếu:
Phụ mẫu tri y khả dĩ từ
Nữ nhi học dược hiếu tiên kỳ.
(Cha mẹ biết y đáng gọi là từ
Con gái học y là điều đầu tiên của hiếu).
Ông tuyển chọn những bài thuốc Nam gia truyền đơn giản mà công hiệu, viết thành thơ (Tác dược phương thi) để dạy học trò và cho nhân dân dễ nhớ:
Gia truyền kinh nghiệm vi thi tụng
Gia giảm tuỳ thời bất tận quy.
(Đem các phương gia truyền viết thành thơ cho dễ nhớ,
Gia giảm phải tuỳ thời mà vận dụng cũng không hết phép tắc).
Một số bài “thơ thuốc” của ông như Nông nhân tứ thời cảm mạo phương, Giải thử phương, ẩm thực phúc thống phương, Ngược tật phương, Phong thấp tửu, Sang độc gia truyền phương, Trần bì phương... thường ngắn gọn, đơn giản, dễ hiểu, dễ thuộc, dễ thực hành mà hiệu nghiệm, rất thuận lợi cho dân nghèo. Chẳng hạn bài Trị xà giảo phương (Phương thuốc chữa rắn cắn) là một trong số đó:
Xà giảo tầm thường chúng bất tri
Mã đề lộ thượng chính kham y
Địa dương khương thảo phù đao diệp
Khởi tử hồi sinh lập khả kỳ.
(Rắn cắn tầm thường mấy kẻ hay
Mã đề trên lối đắp ăn ngay
Cỏ gừng, cỏ may, bồ cu vẽ
Khởi tử hồi sinh mới có ngày).
Hầu hết các bài trong Giang nam lão phố là thơ Đường luật, chủ yếu là thất ngôn bát cú và thất ngôn tứ tuyệt, còn ngũ ngôn bát cú chỉ có ba bài. Nói chung các bài thơ Đường luật của “Thần phú Giác Trai” niêm luật chặt chẽ, đối chỉnh. Một vài bài phá cách khá đẹp hoặc ở thể cổ phong phóng túng. Thơ Vũ Huy Trác ít dùng điển cố, từ ngữ dễ hiểu, hình ảnh giản dị gần gũi với nhân dân, gây được cảm xúc thẩm mỹ cho người đọc, đồng thời mang tính tư tưởng của tác giả rõ nét, như bài Giai tiền thảo vịnh:
Trước thềm dải cỏ sinh
Mây tóc bốn mùa xanh
Củ rễ dưỡng da, phế
Xinh tươi đã rõ rành
Người nằm trên chiếu nghỉ
Thịt rượu dùng thường xuyên
Ngày một thêm già yếu
Vô tình việc nước non.
Đọc Giang nam lão phố, phần nào ta hiểu được những suy tư tình cảm và tài năng văn học của Tiến sĩ Vũ Huy Trác, một danh nhân của Nam Định địa linh nhân kiệt, tác gia Hán Nôm tiêu biểu cho tầng lớp sĩ phu Bắc Hà thời Hậu Lê, ta thêm tự hào về truyền thống cha ông. Đặc biệt, đối với bạn đọc yêu mến thơ Đường luật, Giang nam lão phố thi tập là tài liệu tham khảo bổ ích.
….………
Chú Thích:
(1) Phan Kính (1715 - 1761) người xã Lai Thạch, huyện La Sơn nay thuộc xã Song Lộc, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông đỗ Thám hoa năm 1743, làm quan đến Đốc đồng Tuyên Quang, có tập  Trực thi tập để lại ở đời.
(2) Trần Văn Trứ (1716 - ?) người xã Từ Ô, huyện Thanh Miện nay thuộc xã Tân Trào, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1743, làm quan đến Hàn lâm viện Đãi chế, Thự Thiêm đô ngự sử kiêm Quốc tử giám Trực giảng.
(3) Hà Tông Huân (1697 - 1766) người xã Kim Vực, huyện Yên Định nay thuộc huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hoá. Ông đỗ Bảng nhãn năm 1724, làm quan đến Tham tụng, Binh bộ Thượng thư. Ông nổi tiếng là bậc tôn sư, đào tạo được nhiều học trò đỗ đạt cao.
(4) Đoàn Nguyễn Thục trước tên là Đoàn Duy Tĩnh (1728 - 1783) người xã Hải An, huyện Quỳnh Côi nay thuộc xã Quỳnh Nguyên, huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Hoàng giáp năm 1752, làm quan đến Phó đô ngự sử.
(5) Nguyễn Tông Quai (1693 - 1767) người xã Phúc Khê, huyện Ngự Thiên nay thuộc xã Hiệp Hoà, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Ông đỗ Hội nguyên Hoàng giáp khoa Tân Sửu (1721), làm quan đến Hộ bộ Tả thị lang, tước Ngọ Đình hầu.
(6) Các trích dẫn thơ trong bài theo bản dịch của nhóm Dương Văn Vượng, Trần Mỹ Giống, Hoàng Dương Chương.





ĐỌC THƠ CHỮ HÁN BÙI THÚC TRINH

  1- - Bùi Thúc Trinh (1811 – 1891) tự Anh Xuyên, tục gọi Nhất Trung, quê thôn Trung Cường, xã Quần Anh Hạ, huyện Chân Ninh (nay là xóm Đông Cường, thị trấn Yên Định, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định).
  Sinh trưởng trong một gia đình trung hậu, ba đời làm nghề thuốc trị bệnh cứu người, Bùi Thúc Trinh sớm tiếp thu được kiến thức y học và tấm lòng yêu thương con người, tất cả vì người bệnh. Ông thông minh, chăm chỉ, học khá nhưng “nửa đời thi danh chửa đạt”, chỉ đỗ đến Nhất trường. Sau nhiều năm nghiên cứu không mệt mỏi và trực tiếp trị bệnh cứu người, ông trở thành vị danh y nổi tiếng, một tác giả y học có nhiều bộ sách quý để lại cho đời: Hội anh (28 quyển), Sơ thí tiện dụng (3 quyển), Vệ sinh mạch quyết, Vệ sinh yếu chỉ (8 quyển), Thuyết nghi, Điển trai y môn tạp chứng... Vừa làm nghề thuốc chữa bệnh, ông vừa mở trường dạy nghề y, đào tạo được nhiều thày thuốc giỏi trong vùng. Các tác phẩm y học của ông là sự tổng kết kinh nghiệm và kiến thức trong nhiều năm thực hành chữa bệnh. Các tác phẩm này đề cập những vấn đề y học rất cơ bản về lý thuyết và thực hành như cách phân biệt bệnh, phương pháp xem mạch, phương pháp chữa bệnh, các bài thuốc nam dễ kiếm mà công hiệu. Ngày nay các tác phẩm của Bùi Thúc Trinh được các lương y ở Nam Định vận dụng, coi như cẩm nang nghề y học dân tộc.
  2 - Bùi Thúc Trinh không chỉ là một tác giả Hán Nôm về lĩnh vực y học, mà ông còn là tác giả văn học với tác phẩm Di nhàn tập khá xuất sắc. Di nhàn tập là tập thơ của một lương y, thể hiện y đức và tình yêu thiết tha đối với quê hương, đất nước, thiên nhiên, con người.
  Hàng ngày chứng kiến những cảnh sống nghèo khổ, cơ cực của người dân, Bùi Thúc Trinh mủi lòng, thương xót. Ông tố cáo hiện thực xã hội thực dân phong kiến đương thời là bệnh hoạn, rối ren và xấu xa. Trong xã hội “âm u”, “mưa gió sập xùi”, người dân lương thiện luôn phải sống trong cảnh “tê cóng co ro”... Trong xã hội quan lại nhiễu nhương, trình độ học vấn của dân thấp kém, lại sinh ra nhiều loại người làm khổ dân lành như “thày phù thuỷ”, “thày lang băm”... đời sống nhân dân càng thêm khổ cực.
  Năm Ất Sửu (1865), bão vỡ đê Đông, nhà cửa trôi dạt, nhiều người bị chết đuối, sau chết đói, chết bệnh. Hiện ở xã Hải Tây (Hải Hậu) còn đền Âm Hồn thờ các nạn nhân năm đó. Bùi Thúc Trinh đã ghi lại cảnh sống khổ cực của dân năm đó:
Thu nguyệt vô như Ất Sửu thu,
Thê thê lãnh lãnh nhất hà vưu.
Yên không tây xá triêu do tịch,
Chử đảo đông lân dạ vị hưu.
Đối nguyệt hồng nhan tu phấn giảm,
Lâm phong kiềm thủ khiếp dung thu.
Khởi kỳ ngọc nhữ thiên tâm hậu,
Thu nguyệt vô như Ất Sửu thu?
  (Thu thiên cảm tác, kỳ nhị)
Thu năm Ất Sửu có thu nào.
Tê cóng co ro cực xiết bao!
Bóng dãi, nhà bên tro vẫn lạnh,
Canh khuya, xóm cạnh cối còn kêu.
Ngắm trăng mặt ngọc hờn son nhạt,
Lướt gió, đầu đen sợ vóc hao.
Chuốt ngọc phải chăng trời tốt bụng,
Thu như Ất Sửu có thu nào?
Những dòng thơ trên là lời than thể hiện tấm lòng thông cảm thương xót người nghèo trong cơn hoạn nạn, cũng là bản cáo trạng lên án vua quan, những kẻ thay trời chăm lo đời sống trăm họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử.
Bùi Thúc Trinh là một thày thuốc giỏi, từng cứu sống nhiều người bệnh bằng các bài thuốc nổi tiếng công hiệu như thần, nhưng lại bất lực trước căn bệnh của xã hội. Ông quan niệm chữa bệnh cho con người và chữa bệnh thời cuộc đều có thuốc cả “Y bệnh y thời thục phỉ y” (Chữa bệnh và chữa thời cuộc đâu chẳng phải là chữa thuốc).  Nhưng khi bất lực trước thời cuộc, ông tự an ủi mình rằng đó là số mệnh: “Ký ngôn “Tuỳ ngộ nhưng an mệnh” (Nhớ câu “Tuỳ mệnh” mà yên phận), “Tu tín nhân sinh đô phận mệnh” (Cuộc thế nên tin đều có số).
Hạn chế về tư tưởng tin vào số mệnh ở Bùi Thúc Trinh cũng là hạn chế thời đại khó tránh khỏi. May thay, ông không buông trôi tất cả, mà ông chuyên tâm nghiên cứu y thuật và truyền lại cho đời: “Cố tương Kỳ, Biển pháp vi sư ” (Đem pháp thuật của Kỳ Bá, Biển Thước làm thày).
Dù đã là bậc y sư nổi tiếng, Bùi Thúc Trinh vẫn luôn luôn khiêm tốn, tự thấy mình vẫn còn phải học tập thật nhiều:
Bất tài tự quý “Liên quân tử”
Độc thị ô nê nhược vị tri.
(Hoạ Châu Hải Cử nhân Đinh Chính Phủ thi tặng, kỳ nhất)
Tài sơ thẹn với Sen quân tử,
Có ố bùn không vẫn chửa hay.
Ông tự thẹn vì chưa hiểu thấu đáo y thuật của các vị y sư nổi tiếng của Trung Quốc như Biển Thước: “Tự quý học phi Lư Biển ngộ” (Thẹn học Biển, Lư chưa thấu đáo). Ông một lòng nuôi dưỡng tâm nguyện không ngừng học hỏi y thuật. Một khi chưa làm được việc cứu giúp rộng rãi thì ông đâu giám tự nhận mình là có tài:
Đắc dưỡng “tam nguyên” tồn thuật nghiệp,
Vị năng “phổ tế” cảm vân hoài.
(Hoạ Lạn Hải Đỗ Tú tài hạ nhật lai phưởng hữu thi tặng)
“Tâm nguyên” bồi dưỡng nền y học,
“Phổ tế ” chưa hay dám nói tài!
Bùi Thúc Trinh là nhà y học có tài thơ văn. Nghệ thuật thơ của ông khá già dặn, nhất là thủ pháp tả cảnh tả tình. Phải là người yêu thiên nhiên, yêu quê hương sâu đậm Bùi Thúc Trinh mới sáng tạo được những câu thơ tả cảnh thôn quê đẹp như đoạn thơ sau đây:
Giao duyên hồi chuyển mai đình bắc,
Yên vụ mê li trúc ổ đông.
Thanh phú miêu vân thiên tễ hậu,
Lục phù áp trướng vũ thu trung...
(Thu thiên chu hành quá Trung xã giang phận, diểu vọng Nguyễn gia trang cảm tác ký chủ nhân)
Đồng ruộng loanh quanh mai ngõ bắc,
Sương mù mờ mịt trúc tường đông,
Mây xanh vừa tạnh lúa mơn mởn,
Nước biếc sau mưa vịt vẫy vùng...
Trong “Di nhàn tập” của Bùi Thúc Trinh có nhiều câu thơ tả tình tả cảnh hay như thế, như câu sau:
Hoàng thư tùng cúc kim trang kính,
Bích trướng hoành đường thuỷ tẩm thiên.
Vạn khoảnh giao nguyên phù thuý lãng,
Thiên gia thôn lạc đậu tình yên.
(Thu thiên tễ cảnh kỷ kiến, ký Nguyễn Trứ phủ)
Xoè vàng, tùng cúc: vàng in lối,
Dềnh biếc, ao ngang: nước nhuộm trời.
Muôn khoảnh, lờn vờn màu trả nổi,
Nghìn nhà, lơ lửng khói vàng phơi.
Hoặc câu:
Sơn tước tam phong nghi hổ phục,
Thuỷ trừng nhất giám ẩn du ngư.
Thanh hàm lương suý lan hương viễn,
Cao phất tà dương bách ảnh sơ.
(Đề Thành Chương phương viên)
Ba ngọn lô nhô hùm phục cảnh,
Một gương trong vắt cá len bờ.
Vi vu gió mát hương lan thoảng,
Vòi vọi trời hôm bóng bách thưa.
Nghệ thuật chơi chữ trong thơ Bùi Thúc Trinh cũng thật tài tình, như khi tả cái giàu của người buôn bè, ông dùng chữ “phong lưu” nghĩa đen là gió thổi dòng trôi, thuận buồm xuôi nước để mừng người buôn bè gặp vận may, làm ăn phát đạt; Hoặc khi hoạ thơ một người bạn là lương y, đồng nghiệp với mình, ông khéo lồng vào những tên bài thuốc bổ, ngụ ý vừa trân trọng, vừa trìu mến một cách hóm hỉnh mà tuyệt diệu:
“Biệt ly” kỷ độ bội tương tư.
Hà hạnh “ôn trung” cộng luận y.
Hữu “ích âm” lương lưu viện vũ,
Giải “thanh thử” nhiệt mãn giao kỳ.
“Thập toàn” ý củ do huyền tưởng,
“Tam diệu” chân thuyên mạn tự kỳ.
Đắc dưỡng “tâm nguyên” tồn thuật nghiệp,
Vị năng “phổ tế” cảm vân kỳ.
(Hoạ Lạn Hải Đỗ Tú tài hạ nhật lai phưởng hữu thi tặng)
Tự buổi “biệt ly” tưởng nhớ hoài,
“Ôn trung” may được góp đôi lời.
“Ích âm” mát mẻ tràn trong viện,
“Thanh thử” thung dung khắp cõi ngoài.
Đúng cách “thập toàn” hằng tưởng muốn,
Thật liều “tam diệu” chẳng đơn sai.
“Tâm nguyên” bồi dưỡng nền y học,
“Phổ tế ” chưa hay dám nói tài!
Với “Di nhàn tập”, Bùi Thúc Trinh đã để lại cho đời một bản trường ca về nhân thuật và tâm nguyện, thể hiện tấm lòng bác ái của vị lương y như từ mẫu. Đọc thơ chữ Hán Bùi Thúc Trinh, hiểu rõ tâm sự của một lương y nổi tiếng, càng yêu mến và kính trọng nghề y và lương y, vì thơ ông toát lên y đức trong sáng mà hơn cả y thuật là tình yêu thương con người sâu sắc, tinh thần hết lòng vì người bệnh.

….…….
Chú thích:
Các trích dẫn thơ trong bài lấy từ bản dịch của nhà nghiên cứu Đoàn Phọc Phan hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Nam Định.





NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LÊ TRỌNG HÀM TRONG LĨNH VỰC THƯ MỤC HỌC

  Lê Trọng Hàm tự Quốc Ninh, hiệu Đông Giang, Nam Á Dư Phu, Nam Sử Thị, tục gọi Nhì Hàm, sinh năm Nhâm Thân (1872) (có tài liệu viết ông sinh ngày 12 - 6 năm Quý Dậu 1873), mất ngày 2 tháng 9 năm Tân Mùi (1931), quê làng Hội Khê Ngoại, huyện Giao Thuỷ nay thuộc xã Hải Vân, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định.
Ông là một nhà nho yêu nước, cần cù sưu tầm tài liệu, biên soạn sách và sáng tác thơ ca tuyên truyền lòng yêu nước trong nhân dân. Tính ông rất hào hiệp, thường chu cấp tiền gạo cho học sinh nghèo ăn học và nuôi các nhà nho trong nhà viết sách.
Khoảng năm Nhâm Tuất Khải Định (1922), ông thành lập và đứng ra làm Hội chủ Nam Việt Đồng Thiên hội. Hội thu hút được nhiều nhà nho địa phương tham gia. Hoạt động chủ yếu của hội là biên soạn bộ Minh Đô sử. Sau 10 năm làm việc chuyên cần, hội đã hoàn thành bộ Minh Đô sử.
Thư viện gia đình của Lê Trọng Hàm có trên 2.000 sách xếp trong 20 tủ gỗ có cánh. Sách được đóng dấu “Xuân Hội - Lê Thị Gia Tàng”. Thư viện này hai lần bị tịch thu trong thời gian Kháng chiến chống Pháp và trong Cải cách ruộng đất. Con cháu Lê Trọng Hàm cất dấu được một số cuốn sách quý, sau giao lại cho Viện sử học, đích thân ông Nguyễn Đổng Chi nhận, trong đó có bộ Minh Đô sử và bộ Đại Việt sử ký toàn thư (bản khắc đời Cảnh Thịnh).
  Theo thống kê chưa đầy đủ của Thư viện tỉnh Nam Định, Lê Trọng Hàm có trên ba mươi tác phẩm viết về sử học, địa chí, ngôn ngữ, khoa học tự nhiên, sách giáo khoa, văn học nghệ thuật... như: Á châu tôn giáo (3 quyển), Bách niên nhân vật kỷ, Bảo Hán châu liên (10 quyển), Bùi gia huấn hài chú thích (giáo khoa), Cường dư (20 quyển, tóm tắt tri thức khoa học tự nhiên và xã hội), Di quyết văn (2 quyển, giáo khoa, những bài văn hay), Đại số học đại biên, Đàm Hoa pháp tự, Đăng khoa bị khảo, Đông cầu văn hoá sơ giải, Hải Nam văn chiến (20 quyển), Hán tự phong giao (Sưu tầm Ca dao sáng tác bằng chữ Hán), Hoàn hải kính đài (3 quyển, địa lý các nước), Hội Khê địa bạ, Kinh học chính tôn, Lê gia tộc phổ (2 quyển), Nam học tinh hoa (10 quyển), Ngũ truyện văn thông (15 quyển, tìm hiểu 5 nhà bác học Trung Quốc), Phạm Chỉ Trai văn tập (3 quyển, sưu tầm các tác phẩm của Phạm Thế Lịch), Phần hương chính yếu (Phong tục, lễ hội của làng Hội Khê Ngoại), Quảng tiếu lâm thư (sưu tầm truyện cười dân gianViệt Nam), Quế Hải văn kỳ (10 quyển, Các tác phẩm cổ văn chữ Hán của vùng đất Nam Định), Quốc sử quy tôn (50 quyển bản thảo), Quốc văn (7 quyển, tập hợp văn thơ Nôm hay), Thi gia tương độ (10 quyển), Thổ âm chính biên, Ty vô cao sử (3 quyển ), Vạn tự liên châu (2 quyển, giáo khoa)... Ngoài ra, ông còn nhiều thơ, ca dao có giá trị nuôi dưỡng và khích lệ lòng yêu nước được lưu truyền trong dân gian.
  Trong việc biên soạn bộ Minh Đô sử, Lê Trọng Hàm đóng góp nhiều công sức và trí tuệ. Ông vừa là người chủ trì, lo kinh phí cho hội hoạt động, vừa làm công việc trực tiếp biên soạn của một soạn giả. Một số tác phẩm của ông đã được đưa vào trong Minh Đô sử như: Hán văn Nam kỵ khảo (Sách 1), Mạc Kính thao truyện dịch thuật (Sách 46), Thuỷ tử ca (Sách 20)...
  Minh Đô sử gồm 93 quyển chính và 7 quyển phụ được chia làm 48 sách. Sách chép tay trên giấy bản thường, khổ 28 cm x 16 cm. Bản Minh Đô sử hiện còn lưu tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu HV285 thiếu 4 sách (số 32, 43, 44, 47). Tổng cộng 44 sách hiện còn gồm 3856 tờ, tờ 2 trang, trang 8 dòng, dòng 26 chữ. Chữ viết đá thảo, không đẹp nhưng dễ coi.
  Tên sách đầy đủ là Tân đính Nam Á Đại Minh đô đế quốc, quốc sử vựng toản xuân thu đại toàn. Như vậy, Minh Đô sử chỉ là tên gọi tắt của bộ sách. Theo cụ Đoàn Ngọc Phan viết trong cuốn Tác giả thơ văn Hán Nôm Hải Hậu (Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định xuất bản năm 2001), Minh Đô là tên gọi cũ của quận Giao Chỉ, tức nước ta thời Bắc thuộc. Nhưng trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm - Nguồn tư liệu văn học sử Việt nam (Nhà xuất bản Văn hoá, 1984, tập 1), cụ Trần Văn Giáp - Nhà Thư mục học Việt Nam giải thích rằng Minh Đô là một danh từ cổ, nghĩa là vùng đất ở phía Nam. Tác giả Lê Trọng Hàm đã theo nghĩa đó đặt tên cho sách của mình, ý muốn nói Minh Đô là sử nước Nam.
Nội dung sách chép đủ 4 mục: Quốc sử, Liệt truyện, Địa chí, Văn tuyển. Phần Quốc sử được coi là phần chính, các phần còn lại (liệt truyện, địa chí, văn tuyển) chỉ là phụ thêm vào.
  Giá trị cơ bản của Minh Đô sử :
  1- Liên hệ đối chiếu lịch sử Việt Nam với lịch sử Đông Tây trong tiểu mục Trung Tây liệt sử. Điều này góp phần làm rõ bối cảnh lịch sử Việt Nam trong lịch sử thế giới nói chung, giúp bạn đọc sáng tỏ thêm các vấn đề lịch sử nêu trong sách.
2- Nhiều tài liệu được rút ra trong dã sử, gia phả, thi văn tập, truyền thuyết, văn Nôm về nhiều môn loại... không có trong chính sử và ít người còn nhớ, làm cho tư liệu phong phú và minh hoạ cho lịch sử sáng tỏ hơn.
3- Lịch sử Tây Sơn được chép thành một kỷ riêng gọi là Tây Sơn kỷ (Quyển 46 - 47, Sách 21 - 27), chứng tỏ tác giả đã nhận thức đúng và coi trọng vai trò của Tây Sơn trong lịch sử Việt Nam.
Các tác giả Minh đô sử đã biến tính chất sử sách của mình thành một bộ bách khoa không đầy đủ, lưu tàng được nhiều tài liệu văn sử quý báu, góp phần gìn giữ cho đời sau các giá trị văn hoá của dân tộc.
Đặc biệt, trong Minh Đô sử có hai bản thư mục của Lê Trọng Hàm rất có giá trị trong bối cảnh lịch sử thư mục học Việt Nam đương thời phát triển khá chậm so với thế giới và chịu ảnh hưởng sâu sắc kiểu phân loại “Tứ bộ” (Kinh - Sử - Tử - Tập ) của Trung Quốc. Mãi đến thế kỷ 18, Việt Nam mới xuất hiện công trình thư mục Nghệ văn chí của Lê Quý Đôn và Văn tịch chí của Phan Huy Chú. Hai công trình thư mục tiêu biểu của nước ta thời kỳ đầu hình thành và phát triển thư mục học Việt Nam có hình thức theo kiểu Tứ bộ của Trung Quốc, nhưng đã thể hiện được ý thức bảo tồn di sản văn hoá và tinh thần tự hào dân tộc; Nội dung và phương pháp phân loại sách, miêu tả các yếu tố thư mục hoàn toàn khác với Tứ bộ của Trung Quốc. Lê Trọng Hàm đã tiếp thu được tinh hoa của hai bản thư mục này, phát triển theo quan điểm riêng qua việc biên soạn hai bản thư mục Hoàng Lê tứ khố thư mục và Hoàng Nguyễn tứ khố thư mục.
Hoàng Lê tứ khố thư mục là bản danh mục các sách Việt Nam có từ trước thời Nguyễn, thu thập được 84 bộ sách, chia ra :
1- Hiến chương loại (8 bộ)
2- Kinh sử loại (13 bộ)
3- Thi văn loại (29 bộ)
4- Truyện ký loại (28 bộ)
5- Tạp loại (6 bộ)
Cách phân chia như trên cơ bản như cách chia trong Văn tịch chí của Phan Huy Chú, lấy căn cứ chủ yếu là nội dung sách, nhưng đưa Tạp loại thành một đề mục chính thức. Trong Văn tịch chí, mục Tạp loại (toán, đạo Phật, địa lý...) chỉ là môn loại phụ, gọi là Phương kỹ loại. Đến Hoàng Lê thứ khố thư mục, nhóm tác giả Lê Trọng Hàm đã nhận thức rõ giá trị trong đời sống xã hội của các loại sách trong Tạp loại, đưa Tạp loại thành môn loại chính thức ngang với các môn loại khác. Đó là một nét mới, tiến bộ trong nhận thức của các nhà thư mục học Việt Nam, góp phần đưa công tác thư mục nước ta phát triển thêm một bước.
Hoàng Nguyễn tứ khố thư mục thu thập các sách từ đầu triều Nguyễn đến đầu thế kỷ 20. Bản thư mục chia làm 5 đề mục:
1- Thần kinh (Huế ) 20 bộ
2- Bắc kỳ 70 bộ
3- Trung kỳ 42 bộ
4- Nam kỳ 21 bộ
5- Các nữ sĩ 6 bộ
Cách chia như trên thiếu thống nhất, trong khi lấy cơ sở chủ yếu là yếu tố địa lý lại có mục chia theo giới tính. Theo cách chia này, nội dung sách không được tính đến. Tuy vậy, bản thư mục cũng có những giá trị nhất định:
- Góp phần lưu giữ tài liệu, ấn phẩm Việt Nam lâu dài.
- Thể hiện sự phát triển văn hoá, khoa học, nghệ thuật và tình hình các tác giả của từng vùng địa lý riêng.
- Việc đưa các tác giả nữ thành đề mục riêng thể hiện sự coi trọng vai trò của phụ nữ, là đòn đánh vào tư tưởng phong kiến trọng nam khinh nữ tồn tại từ lâu trong xã hội phong kiến Việt Nam.
Trên phương diện thư mục học, Hoàng Lê tứ khố thư mục và Hoàng Nguyễn tứ khố thư mục đã thể hiện được các yếu tố thư mục rất cơ bản như tên tác giả, tên sách, các chi tiết bổ sung cho tên sách, thời gian xuất bản, tình trạng sách còn hay mất, hình thức in ấn hay chép tay, tóm tắt nội dung, bình luận về sách... Hai bản thư mục của Lê Trọng Hàm đã kế thừa tinh hoa từ các công trình thư mục của Lê Quý Đôn và Phan Huy Chú, đồng thời có chỉnh lý, phát triển, sáng tạo, mang sắc thái riêng, góp phần làm phong phú và là cơ sở cho công tác lý luận phân loại sách và thư mục học Việt Nam sau này.





NHỚ KỲ NHÂN LÊ XUÂN QUANG

  Một số bài viết trên báo và tạp chí của tác giả Lê Xuân Quang để lại cho tôi ấn tượng sâu sắc. Tôi hình dung tác giả là một người đạo mạo, kiểu như một giáo sư tiến sĩ với kính trắng trên mắt, ca-táp da trong tay, giày “I lích” dưới chân và đóng bộ “com-lê ca-ra-vát”... Nhưng khi được gặp tác giả trong một lần đi công tác ở xã Khánh Phú (Tam Điệp - Ninh Bình) hồi năm 1984, tôi ngẩn ra vì Lê Xuân Quang không hề giống với những gì tôi vẫn mường tượng về ông. Trước mặt tôi là ông già sáu chục tuổi, thân thể gầy gò trong bộ đồ xuềnh xoàng, cưỡi trên cái xe đạp cà tàng, trông như một lão nông nghèo khó. Tôi băn khoăn tự hỏi: “Tác giả của Bảy làng Cà, ba làng Hóp Làng rèn Vân Chàng trên ba miền đất nước là lão nông này ư?” Duy có đôi mắt của ông cứ sáng lạ làm tôi phải chú ý. Sau mấy buổi cùng ở nhà khách xã và trò chuyện với ông, tôi bị ông cuốn hút vào thế giới lịch sử, văn hoá dân gian Việt Nam bằng vốn hiểu biết Hán - Nôm và niềm say mê nghiên cứu của ông. Từ ngày ấy, tôi trở thành người bạn nhỏ của ông. Quan hệ của ông với tôi càng gắn bó hơn từ khi tôi được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Nam Định, cùng Bộ môn Nghiên cứu – Phê bình với ông.
  Kể từ ngày tôi gặp ông lần đầu, tháng một hai lần, ông đến Thư viện tỉnh Nam Định, nơi tôi công tác, khi thì trao đổi về một vấn đề mới phát hiện, khi tra cứu tài liệu, khi nộp cho Thư viện công trình nghiên cứu mà ông vừa hoàn thành hoặc tặng sách vừa được xuất bản. Lần nào đến thư viện, ông cũng đề nghị tôi đóng cho ông cái dấu cơ quan vào cuốn sổ nhật trình công tác của mình, chỉ để ghi lại những nơi ông đã đến như là một thú chơi, chứ chẳng có ai trả công tác phí cho ông.
  Quen biết ông đã hai mươi năm, nhưng mãi năm 2004 tôi mới có dịp về thăm ông tại nhà ở làng Đồng Côi, xã Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Nơi ông ở là cái gác xép 5 mét vuông, chật như nêm bởi sách báo, tài liệu, bản thảo, trên tường la liệt những giấy chứng nhận giải thưởng và giấy khen. Một lần nữa tôi lại băn khoăn tự hỏi: “Những công trình nghiên cứu có giá trị của nhà nghiên cứu mà tôi ngưỡng mộ được ra đời tại cái nơi ở khốn khổ thế này ư?”
Có một vị tiến sĩ khi nói về Lê Xuân Quang đã khinh thường: “Chuông khánh còn chả ăn ai, nữa là mảnh chĩnh vứt ngoài bờ ao”. Thế nhưng cái “mảnh chĩnh” ấy đã được nhận cả chục giải thưởng của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam và nhiều giải thưởng của một số hội, tổ chức xã hội khác.
Lê Xuân Quang sinh năm 1924 trong một gia đình có truyền thống Nho học. Cụ thân sinh là thày đồ làng, cụ tổ bốn đời là Cử nhân Tri phủ Lê Xuân Thành, một trong “Nam Chân tứ hổ” nổi tiếng hay chữ ở huyện Nam Chân. Mồ côi cha mẹ từ nhỏ, Lê Xuân Quang chỉ được học chữ Hán hết Luận ngữ, chữ quốc ngữ tới sơ học, rồi phải vào đời mưu sinh. Để kiếm sống, ông làm mọi việc, từ làm giáo viên bổ túc văn hoá, làm ruộng, đến bán lẻ sản phẩm cơ khí. Năm 1947, ông tản cư vào Kim Sơn (Ninh Bình), tham gia Công đoàn rèn, sản xuất vũ khí cho bộ đội và du kích địa phương. Nhưng ông say mê nhất “nghề” sưu tầm, nghiên cứu lịch sử - văn hoá dân gian, cái nghề không đủ sống, càng không thể làm giàu. Ông cần mẫn lặn lội khắp nơi, lúc đầu ở trong huyện, trong tỉnh, sau đi các tỉnh bạn trên toàn quốc để tìm... hồn dân tộc. Không được học trong nhà trường đến nơi đến chốn như nhiều người khác, ông học trong trường đời. Dần dà, hiểu biết của ông cứ nhiều thêm theo năm tháng. Thời gian chuyển cư vào Hà Trung (Thanh Hoá) ông hoàn thành công trình “Từ căn cứ Nham Tràng đến chiến khu Ba Đình lịch sử”. Nhờ công việc giao dịch, mua bán ông đã đặt chân đến nhiều địa phương và miền biên giới phía Tây. Khi qua Lào ông không bỏ lỡ việc khảo sát di tích Cánh đồng chum. Năm 1954 ông hồi cư, tham gia cộng tác viên Ty Văn hoá Nam Định rồi Sở Văn hoá Hà Nam Ninh, Nam Hà, được điều động tổng kiểm kê văn hoá nhiều huyện. Ông là cộng tác viên của Viện Khảo cổ, Trung tâm hoạt động Văn hoá Khoa học Văn Miếu Quốc Tử Giám, Trung tâm UNIMA Việt Nam, Trung tâm UNESCO Thông tin Tư liệu Lịch sử Văn hoá Việt Nam, Viện Nghiên cứu Hán Nôm Việt Nam.
Năm 1966, Lê Xuân Quang được kết nạp vào Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, rồi hội viên các hội: Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh (nay là Nam Định). Bằng con mắt tinh đời, sớm nhận ra năng lực và lòng nhiệt tình của Lê Xuân Quang, năm 1981 quyền Chủ tịch Ban chấp hành Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam - Giáo sư Phạm Huy Thông đã cấp giấy giới thiệu cho ông hoạt động nghiên cứu lịch sử trong cả nước, như là một phái viên đặc biệt của hội. Từ đó, Lê Xuân Quang như được tiếp thêm sức mạnh để đi điền dã nghiên cứu và cống hiến cho đời nhiều công trình có giá trị, với bút danh Sơn Hà Khách, Bá Ngọc, Hà Tuyết, Minh Chính... Một số công trình của ông đã xuất bản, được nhận giải thưởng như: Thần tích Việt Nam đoạt Giải C Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1996, Giải C giải thưởng Nguyễn Khuyến của Hội Văn học Nghệ thuật Nam Hà lần thứ 3 (1991 - 1995), Vũ Thư văn hoá và sự tích đoạt Giải C Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 2001, Truyện đức Dương Không Lộ - Minh Không đoạt Giải C Giải thưởng VHNT Lương Thế Vinh của UBND tỉnh Nam Định (1996 - 2000), Tuyển câu đối thờ Nam Định (đồng tác giả với Dương Văn Vượng) đoạt Giải C Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998...
Ngoài các công trình đã được xuất bản, nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang còn hàng chục tác phẩm với gần 4.000 trang chưa xuất bản nhưng đã được nhận giải khuyến khích hoặc khen thưởng của Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam và một số tổ chức xã hội khác như: Làng nghề truyền thống Nam Hà (1994), Sao sáng trời Nam (1995), Truyện cổ Nam Hà (1996), Hội làng và tục cổ Nam Định (1997), Văn hoá hai bên sông Đào (1998), Trò ổi Lỗi (1999), Ninh Bình văn hoá và sự tích (1999), Hương ước Nam Định (2000), Ca khúc - Trù văn và Mục lục trong hội làng Việt Nam (2001), Tướng lĩnh và di văn, di vật đời Tây Sơn trên đất Nam Chân xưa, Danh nhân họ Vũ ở Nam Định (tập 1), Câu đối thờ Việt Nam, Phát hiện nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử qua gia phả, Dọn vườn văn sử địa
Từ năm 1992 đến 2005, năm nào ông Lê Xuân Quang cũng có công trình nghiên cứu công bố rộng rãi hoặc nộp cho các cơ quan Hội Văn nghệ Dân gian Việt Nam, Hội Sử học Việt Nam, Thư viện và Bảo tàng tỉnh Nam Định. Báo Nam Hà số ra ngày 19 tháng 6 năm 1992 thống kê trong 6 tháng đầu năm 1992 ông Lê Xuân Quang đã nộp cho Hội Sử học 20 tài liệu (154 trang), Hội Văn nghệ Dân gian 60 tài liệu (364 trang), Viện Sử học 36 tài liệu (191 trang), Viện nghiên cứu Hán - Nôm 8 tài liệu (50 trang), Trung tâm nghiên cứu lịch sử 23 tài liệu (169 trang).
Theo số liệu chưa đầy đủ mà Thư viện tỉnh Nam Định sưu tầm được, tác giả Lê Xuân Quang có trên 200 bài nghiên cứu được đăng trong các báo và tạp chí trung ương và địa phương.
Một số bài viết của ông mà có người gọi là “những quả bom Lê Xuân Quang” đã gây được ấn tượng mạnh trong bạn đọc. Chính ông đã phát hiện, làm sáng tỏ nửa cuối cuộc đời Trạng nguyên Trần Văn Bảo mà lâu nay lịch sử còn bỏ trống. Ông đưa ra quan điểm mới lạ trong nhận thức về “Tứ bất tử” một cách rất thuyết phục, làm chao đảo nhận thức từ trước tới nay của nhiều người về vấn đề này. Theo ông, tứ bất tử là bốn loại người: Thần, Tiên, Phật, Thánh chứ không phải là bốn người cụ thể. Ông kịch liệt phê phán một số sách viết về Bà chúa Kho trái với lịch sử của những người viết vì mục đích kinh tế. Khi tranh luận với một vị giáo sư tiến sĩ xung quanh vụ án Lệ Chi Viên, ông dùng lý luận kết hợp với thực tế lịch sử để bẻ gẫy quan điểm của đối phương. Ông lấy chân lý làm mục đích trong tranh luận, không nể nang ai. Có lúc quá lời, ông gọi người này là kẻ phá hoại, người kia là tên xuyên tạc lịch sử. Cái tính thẳng thắn, lòng say mê nghiên cứu và vốn kiến thức của ông được nhiều người yêu quý và cảm phục. Ông được lãnh đạo nhiều cơ quan, địa phương nhiệt tình đón tiếp. Chủ tịch huyện Vũ Thư (Thái Bình) Đinh Văn Thứ có lần chỉ thị cho bộ phận hành chính của Uỷ ban nhân dân huyện: “Đối với bác Lê Xuân Quang, bất kỳ bác đến lúc nào cũng phải đón tiếp như thượng khách”.
Nhưng một số người có bài viết bị ông phản bác lại không ưa ông. Ông là cộng tác viên tích cực của một tạp chí ngành, nhưng mấy năm liền không thấy bài viết nào của ông trên tạp chí đó. Tôi hỏi thì ông bảo ông vẫn gửi bài nhưng không biết vì lí do gì mà tạp chí không đăng. Tình cờ, trong bữa liên hoan ở cơ sở, khi đã ngà ngà hơi men, tôi hỏi vị biên tập viên của tạp chí nọ thì anh này thật thà trả lời: “Bài của Lê Xuân Quang thường dính đến chữ Hán, em không biết chữ Hán nên không thẩm định được, tốt nhất là không đăng. Với lại Tổng biên tập của em không mặn mà với bác Quang...”! Tôi biết rõ ông Tổng biên tập này có một số bài viết bị Lê Xuân Quang phản biện gay gắt mà không “cãi” lại được. Thật may là những bài của Lê Xuân Quang bị loại bỏ ở tạp chí nọ lại được đăng báo và tạp chí trung ương.
Cách đây 5 năm, chúng tôi có đắp đôi câu đối chữ Hán ở hai cột cổng cơ quan:
Sơn Nam địa thiên niên văn hiến
Thư viện tự vạn đại lưu truyền.
Tôi khoe với ông Lê Xuân Quang. Xem câu đối xong, ông liền “dội” cho tôi “một gáo nước lạnh”:
- Hỏng! Hỏng! Đục đi ngay, không thì xấu hổ quá!
Tôi cụt hứng, hỏi vì sao thì ông giảng giải say sưa về những yêu cầu của câu đối và chỉ ra những cái dở trong câu đối của chúng tôi:
- Không thể chấp nhận việc đối chữ không chỉnh và hình thức viết câu đối ngược thế này. Phải viết vế đầu bên phải thì các ông lại viết ở bên trái. Phải viết chữ “hiến” bằng chữ nguyên thể với ý nghĩa dâng đồ cúng, nghĩa rộng là cống hiến, chứ không nên dùng chữ “hiến” giản thể là chữ ghép chữ “nam” với chữ “cẩu” do phong kiến Trung Quốc dùng miệt thị dân phương Nam ta. Chữ “lưu” với ý nghĩa kiến thức, sách vở còn lại mãi lâu đời như trong chữ “lưu tồn” hay “truyền lưu”, các ông lại dùng chữ “lưu” trong “lưu thuỷ” thì kiến thức nó chảy đi mất hết cả còn lưu được đâu. Lại còn chữ “đại” là không chuẩn, nên dùng chữ “thế ” (30 năm một thế, hoặc đời cha sang đời con là một thế) để làm rõ sự truyền lưu sách vở từ đời này qua đời khác.
Nghe ông phê phán như thế, tôi nóng cả mặt. Sau bình tĩnh lại, tra cứu từ điển Hán - Việt và tham khảo một số sách tiếng Hán thì thấy phần nhiều ông “nói có sách” cả. Tôi vốn rất ham học nên không những không giận, mà còn yêu quý ông hơn. Không chỉ tôi yêu quý ông, mà đông đảo bạn đọc và đồng nghiệp cũng yêu quý và cảm phục ông, bằng chứng là có khá nhiều bài ca ngợi ông trên báo và tạp chí như: Xưa và Nay số 12 - 1995, Đại đoàn kết 13 - 3 – 1999, Lao động số 28 – 2005, An ninh thế giới, ngày 4 – 5 – 2005, Hà Nam số Xuân 2005, Bưu điện Việt Nam số 12 – 2005, Khoa học và đời sống số 14 – 2006, Nông nghiệp Việt Nam số 20 – 2005, Lao động xã hội số 45 - 2005, Công an nhân dân số 201 – 2005, Nông thôn ngày nay 2005, Bảo hiểm xã hội số 37 – 2005 ... Năm 1999, Đài VTV3 Truyền hình Việt Nam dành cả một chương trình “Cây cao bóng cả” nói về ông với tiêu đề “Người khơi nguồn văn học dân gian”.
Khi ngoài 80 tuổi, sức khoẻ giảm sút, nhưng ông vẫn không thể bỏ thói quen đạp xe đi sưu tầm nghiên cứu. Bình quân 4 năm (2001 – 2004), mỗi ngày ông đi tới 30 km. Báo Nhân dân số ra ngày 1 – 10 - 1960 có in bài thơ của Bác Hồ (ký tên là T.L.):
Càng già, càng dẻo lại càng dai
Tinh thần gương mẫu chẳng nhường ai
Đôn đốc con em làm nhiệm vụ
Vuốt râu mừng xã hội tương lai.
Ông Lê Xuân Quang có bài hoạ được đăng trong Tạp chí Đông Nam Á, Văn hoá Hà Nam, Khoa học Công nghệ và Môi trường Nam Định như sau:
Càng già gân sức lại càng dai
Xông xáo việc đời có kém ai
Ra sức phát huy tuỳ nghiệp vụ
Góp phần xây xã hội tương lai.
Thường người ta về già thì “Lão giả an chi” (Người già nhàn hạ nghỉ ngơi), nhưng nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang đúng là “Lão đương ích tráng” (Càng già càng dẻo càng dai).
Thầm trong lòng, tôi cầu nguyện cho ông sống trăm tuổi, để ông cống hiến nhiều hơn cho xã hội, để ông cùng cái xe đạp tàng tiếp tục cuộc hành trình đi và viết, để ông ghi tiếp vào nhật trình công tác của mình những kilômét mới mà hiện tổng cộng số kilômet ông đi đã bằng quãng đường hai vòng trái đất...

Đầu thu 2006 đang khi tôi đi công tác dài ngày, bốn năm lần ông thuê xe ôm lên tìm tôi. Hẳn ông có chuyện quan trọng đây. Nghĩ thế, tôi vội xuống thăm ông, nhưng ông lại vừa được nhà thơ Phạm Trọng Thanh đưa ra Nam Định cắt thuốc nam chữa bệnh. Hôm sau ông lại thuê xe ôm ra Nam Định, đề nghị tôi thu xếp cho ông được giao toàn bộ bản thảo các tác phẩm của ông cho Thư viện tỉnh lưu giữ.
Khi ông bệnh trọng, tôi vào thăm. Ông chỉ còn da bọc xương, cổ chân phù lớn, mắt vàng như nghệ, nói không rõ tiếng. Con dâu ông chỉ vào tôi hỏi ông: “Ông có biết ai đây không?” Ông gật gật đầu, phát âm phều phào: “Gi…ống, Gi…ống” (Giống, Giống). Ông chỉ lên giá sách nói đi nói lại điều gì đó mà tôi không sao hiểu được. Cô con dâu “phiên dịch”: “Ông cháu bảo ông Giống lấy hết sách vở đi, hoặc thiếu cái gì, cần cái gì thì lấy đi”. Tôi không nhắc gì đến việc ông muốn giao toàn bộ bản thảo và tác phẩm của mình cho thư viện lưu giữ, vì được biết anh con cả của ông có nguyện vọng gìn giữ tài sản của cha.
Nhờ con dâu đỡ dậy, ông gắng sức kí vào cuốn Thần tích Việt Nam tập 3 vừa in xong để tặng tôi. Tôi giơ hai tay trân trọng đỡ cuốn sách có chữ kí kỉ niệm cuối cùng của ông. Hai tuần sau, ngày 23 – 11 – 2006, ông qua đời trong niềm tiếc thương sâu sắc của nhiều đồng nghiệp và bạn đọc. Tôi hụt hẫng vì mất một người bạn lớn, một đồng nghiệp yêu kính.

Mới đấy mà đã 5 năm nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang về cõi vĩnh hằng. Đọc lại các tác phẩm của ông, tôi bồi hồi thương nhớ người bạn văn có cốt cách tùng bách mà nhiều nhà báo gọi là “Vị giáo sư nông dân”, “Người kỳ lạ”. Sau khi ông qua đời hơn một năm mà tờ Kinh tế & đô thị số ra ngày 21 tháng 12 năm 2007 vẫn còn đăng bài “Trò chuyện với đại giáo sư Lê Xuân Quang” dạng phỏng vấn. Thế mới biết cốt cách của ông có ảnh hưởng đến bạn viết sâu sắc biết nhường nào. Lại nhớ lần tôi có bài thơ in trên tạp chí viết về ông có câu “Đi vạn dặm, viết nghìn trang”, ông “phê bình” tôi là viết chưa chính xác, ông đã viết trên một vạn trang chứ không phải chỉ nghìn trang và đề nghị tôi sửa lại. Tôi nghĩ là ông tư duy khoa học, còn đây là... thơ nên lần khân không chỉnh sửa. Khi ông quy tiên rồi, tôi cứ tự trách mình cố chấp. Giá như tôi sửa ngay câu thơ để ông vui. Nhưng đã lỡ rồi. Tôi thầm gọi: Bác Quang ơi, bây giờ em sửa lại câu thơ ấy đây, coi như đó là một nén tâm nhang thành kính tưởng nhớ bác:
Đất trời linh khí giao hoà
Trăm năm sinh một ông là kỳ nhân
Đi muôn dặm, viết vạn trang
Một đời gạn đục khơi trong cho đời.

  Thành Nam, 11 - 2011 





NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA VUA TRẦN DỤ TÔNG TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA NGHỆ THUẬT *

  Trong 175 năm tồn tại (1225 - 1400), nhà Trần đã để lại một di sản to lớn, độc đáo trên các mặt quân sự, kinh tế, chính trị xã hội, văn hoá giáo dục... đưa nước Đại Việt lên một tầm cao mới. Gần 7 thế kỷ đã trôi qua, hào quang của vương triều Trần vẫn toả sáng lịch sử Việt Nam. Trong việc đưa đất nước đến thịnh trị, các vua Trần có vai trò đặc biệt quan trọng. Trần Dụ Tông là một trong số 14 vị hoàng đế nhà Trần đã có công đóng góp đáng kể vào văn hóa Trần.

  1 - VÀI NÉT TIỂU SỬ VÀ HÀNH TRẠNG TRẦN DỤ TÔNG:

  Trần Dụ Tông tên thật là Trần Hạo, sinh ngày 19 tháng 10 năm Bính Tý 1336, mất ngày 25 tháng 5 năm Kỷ Dậu 1369, thọ 34 tuổi, làm vua 28 năm (1341 - 1369), lấy niên hiệu là Thiệu Phong (1341 - 1357) và Đại Trị (1358 - 1369) (1).
Trần Dụ Tông là con thứ 10 của vua Trần Minh Tông, do Hiến Từ hoàng hậu sinh ra. Năm Tân Tị 1341 vua Trần Hiến Tông mất khi mới 23 tuổi. Do Hiến Tông không có con nên Thượng hoàng Trần Minh Tông lập Hoàng tử Hạo lên làm vua.
Ngày 21 tháng 8 năm Tân Tị 1341, Trần Hạo lên ngôi Hoàng đế, tự xưng là Dụ Hoàng, đổi niên hiệu là Thiệu Phong năm thứ nhất. Các quan trong triều đình dâng tôn hiệu là Thống Thiên Thế Đạo Nhân Minh Quang Hiếu Hoàng Đế. Lúc này Trần Dụ Tông mới lên 6 tuổi.
Là một Hoàng tử, Trần Dụ Tông được nuôi dạy chu đáo, có điều kiện phát triển trí tuệ. Từ nhỏ ông đã có tư chất thông minh hơn người, lớn lên càng thông tuệ, học vấn cao minh, giỏi cả văn và võ.
Năm 13 tuổi Trần Dụ Tông lấy công chúa Ý Từ là con gái thứ tư của Bình Chương Huệ Túc vương sách phong làm Nghi Thánh Hoàng hậu.
Những năm đầu làm vua, có Thượng hoàng Trần Minh Tông và các đại thần giúp đỡ nên dù đất nước gặp nhiều khó khăn, mất mùa đói kém, Trần Dụ Tông vẫn duy trì được việc chính trị có nề nếp. Bản thân Trần Dụ Tông có nhiều đóng góp vào công cuộc bảo vệ, xây dựng và phát triển quốc gia.
Về việc võ, Trần Dụ Tông ý thức thường xuyên cảnh giác kẻ thù xảo quyệt và tàn bạo phương Bắc, chăm lo việc phòng thủ biên giới Tây Nam, tăng cường củng cố quốc phòng như tổ chức đóng chiến thuyền, chế tạo vũ khí, luyện tập binh sĩ, bố trí các quan có năng lực đảm đương nhiệm vụ ở những nơi xung yếu, cử binh chinh phạt Chiêm Thành...
Về ngoại giao, Trần Dụ Tông duy trì mối quan hệ tốt đẹp với các nước láng giềng, vì mục đích hoà bình cho đất nước. Tháng 8 năm Ất Dậu 1345, nhà Nguyên sai Vương Sĩ Hành sang hỏi về việc cột đồng. Mặc dù lúc này chính sự nhà Nguyên đã suy đồi, Trần Dụ Tông vẫn dùng chính sách ngoại giao mềm dẻo, sai Phạm Sư Mạnh đi biện bạch nhằm gìn giữ hoà bình. Năm Mậu Thân 1368, Minh Thái Tổ lên ngôi ở Kim Lăng, sai Dịch Tế Dân sang thăm ta. Trần Dụ Tông sai Lễ bộ thị lang Đào Văn Đích sang nhà Minh đáp lễ, thiết lập mối quan hệ bang giao giữa hai nước.
Về đối nội, Trần Dụ Tông quan tâm cải tổ chính quyền, quân đội, chăm lo đời sống nhân dân, giữ gìn an ninh trật tự xã hội.
Theo quy chế cũ, cấm quân thuộc về Thượng thư sảnh. Đến năm Nhâm Ngọ 1342, Trần Dụ Tông đặt Khu mật viện để quản lãnh cấm quân. Năm Giáp Thân 1344, Trần Dụ Tông tiến hành một loạt đổi mới nhằm tăng cường quyền lực của nhà nước (Đổi Hành khiển ty ở cung Thánh Từ làm Thượng thư sảnh; Đặt đại sứ và phó sứ của viện Tuyên Huy; Đổi Kiểm pháp quan của viện Đăng Văn thành Đình uý, Tự khanh và Thiếu khanh; Đặt Đồn điền sứ và phó sứ ở Ty khuyến nông; Lộ lớn thì đặt An phủ sứ và phó sứ, thuộc châu thì đặt Thông phán...). Các biện pháp cải cách trên đây của Trần Dụ Tông đã có tác dụng tăng cường sức mạnh quốc phòng và bộ máy quản lý nhà nước, giữ gìn an ninh trật tự xã hội, mở mang kinh tế nông nghiệp...
Trong việc giữ gìn an ninh chính trị, ổn định trật tự xã hội, vấn đề kỷ cương luật pháp có vị trí hết sức quan trọng. Năm Tân Tỵ 1341, khi vừa mới lên ngôi, mặc dù mới lên sáu tuổi, nhưng có các đại thần học rộng tài cao tham mưu cho, Trần Dụ Tông đã bắt tay ngay vào việc chấn chỉnh kỷ cương. Ông trực tiếp chủ trì và sai Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn biên soạn bộ Hoàng triều đại điển (Thể lệ lớn của triều Trần) gồm 10 tập và khảo soạn cuốn Hình thư gồm 1 quyển. Bộ Hoàng triều đại điển (có sách chép là Trần triều đại điển) là một bộ luật lớn thời Trần Dụ Tông. Cuốn Hình thư (có sách chép là Hình luật thư) có lẽ đã được biên soạn từ các đời trước nhưng chưa có điều kiện khắc in. Đến nay Trần Dụ Tông cho khảo soạn lại, khắc in và phát hành rộng rãi để thực thi. Cả hai bộ sách này ngày nay đều đã thất lạc chưa tìm thấy.
Không chỉ quan tâm tới việc hoàn chỉnh luật pháp để điều chỉnh xã hội, Trần Dụ Tông còn quan tâm tới đời sống dân nghèo. Mỗi khi đất nước gặp thiên tai, mất mùa, đói kém... vua đều có những chính sách kịp thời cứu trợ nhân dân như giảm tô thuế các năm: 1343, 1354, 1362... Tháng 4 năm Đinh Dậu 1357, xuống chiếu cho các lộ Thanh Hoá, Nghệ An khơi các kênh ngòi cũ. Năm Mậu Tuất 1358, hạn hán, sâu cắn lúa, cá chết nhiều. Tháng 8 năm đó xuống chiếu khuyến khích các nhà giàu bỏ thóc ra chẩn cấp dân nghèo, các quan địa phương tính giá trị ra tiền để hoàn trả lại. Tháng 9 năm 1362 vua về Thiên Trường, ban thuốc công và tiền gạo cho người đau ốm. Dân nghèo ai đến cũng đều được ban cho 2 tiền, 2 thăng gạo và 2 viên thuốc Hồng Ngọc Sương chữa bách bệnh.
Dưới thời Trần Dụ Tông, nhiều nhân tài đã được trọng dụng như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Phạm Sư Mạnh, Lê Quát... Trong thời kỳ đầu làm vua, Trần Dụ Tông do đã biết trọng dụng nhân tài nên mặc dù đất nước gặp rất nhiều khó khăn vẫn duy trì được nề nếp chính sự.
Để nâng cao năng lực quản lý của bộ máy nhà nước, Trần Dụ Tông quan tâm đến việc tuyển chọn, bồi dưỡng nhân tài, tuyển quan lại qua thi cử đã giúp cho triều đình chọn được người có thực tài để giao cho họ những chức vụ quan trọng, hạn chế tình trạng người không có tài đức lọt vào cơ quan nhà nước. Dùng thi cử để tuyển chọn quan lại là biện pháp tích cực được Trần Dụ Tông quan tâm, đã góp phần làm tăng cường năng lực quản lý của bộ máy nhà nước.
Từ năm Đại Trị 1358 về sau, Trần Dụ Tông sa vào con đường ham chơi bời, cờ bạc, bỏ bê chính sự, dẫn đến sự kiện Dương Nhật Lễ lên ngôi gây ra rối ren sóng gió cho đất nước. Thời gian này Thượng hoàng Trần Minh Tông và các cựu thần như Trương Hán Siêu là trụ cột của triều đình đều đã qua đời. Ngoài thì mất mùa đói kém, giặc giã nổi lên như ong, làm cho dân tình vô cùng khổ sở. Trong thì bọn gian thần kéo bè kết cánh lũng đoạn triều đình. Năm Nhâm Dần 1362 Chu Văn An dâng sớ xin chém đầu 7 tên gian thần để ổn định chính sự, gọi là Thất trảm sớ, nhưng Trần Dụ Tông không nghe. Đã thế Trần Dụ Tông lại ham chơi bời, xây cung điện để đánh bạc, mở tiệc bắt các quan thi uống rượu, ai uống được 100 thăng thì thưởng cho hai trật... Năm Quý Mão 1363 Trần Dụ Tông cho dựng điện Song Quế, xếp đá làm núi, đào hồ Lạc Thanh trong vườn ngự uyển ở hậu cung, sai người chở nước mặn đổ vào hồ, nuôi cá sấu... để làm nơi chơi bời hưởng lạc. Năm Bính Ngọ 1366 vua đi chơi nhà Trần Ngô Lang về khuya bị cướp cả ấn báu và gươm báu.
Trong cuộc đời Trần Dụ Tông có một sự kiện ảnh hưởng đến tâm lý của vua sau này. Năm vua 3 tuổi đi chơi Hồ Tây bị chết đuối, được Trâu Canh châm cứu sống lại nhưng lại bị bệnh liệt dương. Năm Tân Mão 1351 Trâu Canh lại chữa cho vua khỏi bệnh. Sự ức chế sinh lý kéo dài, khi được đột ngột giải toả ít nhiều cũng ảnh hưởng đến tâm lý và tác động vào sự sa đoạ của Trần Dụ Tông sau này.
Ngày 25 tháng 5 năm Kỷ Dậu 1369 Trần Dụ Tông băng ở chính tẩm trong tâm trạng u uất không có con nối dõi tông đường, thọ 34 tuổi. Trần Dụ Tông được táng ở Dụ Lăng (nay thuộc xã Yên Sinh, huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh).
Các sử gia đã đánh giá Trần Dụ Tông trong Đại Việt sử ký toàn thư là :
- "Vua tính rất thông tuệ, học vấn cao minh, chăm lo việc võ, sửa sang việc văn, các di đều thần phục. Đời Thiệu Phong chính sự tốt đẹp; Từ năm Đại Trị về sau, chơi bời quá độ, cơ nghiệp nhà Trần suy yếu từ đó."(2) 

2 – NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA TRẦN DỤ TÔNG TRONG LĨNH VỰC VĂN HÓA NGHỆ THUẬT

  Về văn hoá, Trần Dụ Tông được coi là người đặt nền móng cho một số môn nghệ thuật dân tộc như tuồng cổ, một số trò chơi dân gian như leo dây, múa rối...
  Trước đây, khi đánh Toa Đô, bắt được người phường hát là Lý Nguyên Cát rất giỏi hát, những con ở trẻ của các nhà thế gia theo y tập hát điệu phương Bắc. Nguyên Cát sáng tác các vở tuồng truyện cổ, có các tích như Tây Vương Mẫu hiến bàn đào. Trong tuồng có các vai qyan nhân, chu tử, đán nương, câu nô gồm 12 người, mặc áo gấm, áo thêu, đánh trống, thổi sáo, gảy đàn, vỗ tay, gõ ồn phím đàn (Chú: Chu Hởu chết, Hởu Chú ghi vào mặt sau đàn tỳ bà: Hương trời còn đuôi phượng, hơi ấm tỏa phím đàn), thay đổi nhau ra vào làm trò, khiến người xem xúc động, muốn cho buồn được buồn, muốn cho vui được vui. Nước ta có tuồng truyện bắt đầu từ đấy”.(3)
Dần dần những hoạt động biểu diễn tuồng cổ như vở Tây Vương Mẫu hiến bàn đào, hát các điệu hát Phương Bắc trở thành phong trào văn nghệ quần chúng rộng rãi. Dấu ấn ca nhạc thời Trần hiện còn đến nay như điệu Sa Mạc do Lý Nguyên Cát sáng tác rất giống với nhạc phương Bắc thể hiện nỗi nhớ quê hương nơi sa mạc xa xăm.
Năm 1310 vua Trần Nhân Tông băng, dân chúng thương mến bậc minh quân đã đánh tan giặc Nguyên nên đi đưa tang rất đông, đến nỗi không thể đưa quan tài ra khỏi thành Thăng Long. Theo lệnh vua Trần Anh Tông, Trịnh Trọng Tử bèn đặt ra bài ca Long Ngâm, dạy cho quân lính hát ở sân Thiên Trì. Dân chúng đua nhau đến nghe hát, lúc đó mới có thể đưa được quan tài vua cha ra khỏi thành và đem về mai táng ở Long Hưng (thuộc Nam Định hiện nay). Bản nhạc Long Ngâm cũng được dùng để nhịp đường đi nước bước của những người lính khiêng quan tài vua Trần Nhân Tông từ Thăng Long tới Long Hưng.
Đời Trần Dụ Tông, năm thứ 10 (1350) có người Nguyên tên là Đinh Bàng Đức, nhân nước loạn, đưa vợ con xuống thuyền vượt biển sang nước ta. Bàng Đức cầm gậy hát những lời rất khéo, người nước ta đua nhau theo học.
Nhâm Dần, [Đại Trị] năm thứ 5(1362) (Nguyên Chí Chính năm thứ 22): Mùa xuân, tháng giêng, lệnh cho các nhà vương hầu, công chúa dâng các trò tạp hý vua xét duyệt trò nào hay thì thưởng cho”.(4) 
Như vậy, Trần Dụ Tông đã cho phép và khuyến khích các vương hầu diễn các vở hát, chính vua duyệt lại, người nào hát hay, pha trò khéo đều được hậu thưởng. Các hoạt động này coi như hội diễn tổng kết phong trào văn nghệ do vương triều đứng ra tổ chức để phát triển văn hoá. Đây cũng là lần đầu tiên có tổ chức hội diễn văn nghệ cung đình quy mô toàn quốc.
Trần Dụ Tông là một tác gia văn học thời Trần. Hiện nay các tác phẩm của Trần Dụ Tông như Hoàng triều đại điển, Hình thư và các sáng tác văn thơ khác của ông đều đã thất lạc. Trong Toàn Việt thi lục chỉ còn ghi được một bài thơ của Trần Dụ Tông là bài Đường Thái Tông dữ bản triều Thái Tông (có sách chép là Thư hoài): 
Đường, Việt khai cơ lưỡng Thái Tông
Bỉ xưng Trinh Quán, ngã: Nguyên Phong
Kiến Thành tru tử, An Sinh tại
Miếu hiệu tuy đồng, đức bất đồng.
Dịch thơ:
Đường, Việt hai vua hiệu Thái Tông
Đường xưng Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong
Kiến Thành bị giết, An Sinh sống
Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng.
(Đào Phương Bình dịch).
Bài thơ tỏ rõ chí khí, lòng kiêu hãnh tự hào của Trần Dụ Tông về các vương triều của nhà Trần. Tác giả so sánh nhà Trần với nhà Đường bên Trung Quốc, vua mở nghiệp nhà Trần và vua mở nghiệp nhà Đường đều có thuỵ là Thái Tông nhưng đức độ hai vua lại không giống nhau, vua Thái Tông nhà Trần đức độ hơn hẳn Thái Tông nhà Đường.
Hiện nay, việc đánh giá Trần Dụ Tông chưa đồng thuận, thậm chí trái ngược nhau. Có người tôn vinh ông vào hàng danh nhân. Chính quyền tỉnh Nam Định còn đúc tượng thờ ông tại Đền Trần, tuyên truyền rộng rãi trên báo chí để nhân dân tri ân ông. Một số người khác lại phủ định ông, coi ông là vị vua tha hóa, có tội trong việc đẩy nhanh nhà Trần đến diệt vong. Năm 2000, tôi có viết bài về Trần Dụ Tông theo yêu cầu của thạc sĩ Hoàng Dương Chương, khi ấy là thủ trưởng cơ quan tôi và là thư ký đề tài khoa học cấp tỉnh “Danh nhân văn hóa Nam Định” do Sở Văn hóa Thông tin Nam Định thực hiện. Sau đó Hội đồng nghiệm thu đề tài gồm toàn là các giáo sư tiến sĩ đã loại bỏ bài viết của tôi với lý do “Trần Dụ Tông không thể là danh nhân”. Sở dĩ có hai quan điểm trái ngược nhau đó là do mỗi người căn cứ vào một tiêu chí danh nhân riêng không giống nhau. Dù vậy, hẳn ai cũng phải thừa nhận Trần Dụ Tông là một nhân vật lịch sử lớn của nước ta. Nhứng đóng góp của ông trong lĩnh vực văn hóa, văn học nghệ thuật thời Trần như chúng tôi đã trình bày ở trên là không thể phủ nhận.
….….

  * Bài phát biểu trong Hội thảo “Dấu ấn văn hóa Trần với cộng đồng dân cư Nam Định”, chuyền đề “Thiên Trường – Nam Định mảnh đất đậm đà dấu ấn văn hóa Trần” ngày 6 – 12 – 2011 do Hội VHNT Nam Định và Sở Khoa học Công nghệ Nam Định tổ chức tại thành phố Nam Định.
  Chú thích :
  (1) - Theo Đại Việt sử lược (Nguyễn Gia Tường dịch. - Tp. Hồ Chí Minh : Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1993. - Tr. 301) thì đời Trần Dụ Tông có 3 lần đổi niên hiệu là Thiệu Hưng (1341 - 1357), Đại Trị (1358 - 1368), Thiên Định (1369). Ở đây chúng tôi theo Đại Việt sử ký toàn thư.
  (2) - Đại Việt sử ký toàn thư. – H.: Khoa học xã hội, 1998. - T.2. – Tr. 127.

  (3), (4) - Đại Việt sử ký toàn thư. – H.: Khoa học xã hội, 1998. - T.2. – Tr. 141.

  Tài Liệu Tham Khảo 

- Bibliogaphie Annamite / E. Gaspardone. - BEFEO,T.7.
- Các triều đại Việt Nam / Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng. - H.: Thanh niên, 1999.
- Khâm định Việt sử thông giám cương mục/ Quốc sử quán triều Nguyễn.- Q.13, tờ 4.
- Đại Việt sử ký tiền biên / Lê Văn Bảy... dịch. - H.: Khoa học xã hội, 1997.
- Đại Việt sử ký toàn thư / Hoàng Văn Lâu dịch. - H.: Khoa học xã hội, 1998. - T.2.
- Lịch triều hiến chương loại chí / Phan Huy Chú. - H.: Khoa học xã hội, 1960. - T.1.
- Lược khảo tác gia văn học Nam Định / Hoàng Dương Chương, Trần Mỹ Giống, Phương Thuỷ, Trần Bá Giao. - H.: Văn học, 1997.
- Lược truyện các tác gia Việt Nam / Trần Văn Giáp chủ biên. - In lần thứ 2 có sửa chữa, bổ sung. - H.: Khoa học xã hội, 1971. - T.1.
- Mười bốn vị Hoàng đế thời Trần. - Nam Định : Sở Văn hoá thông tin Nam Hà, 1995.
- Tác giả Hán Nôm Nam Định / Trần Mỹ Giống. – Nam Định : Hội VHNT, 2008.
- Thơ văn Lý Trần. - H.: Khoa học xã hội, 1978. - T.3.
- Tìm hiểu kho sách Hán Nôm / Trần Văn Giáp. - H.: Thư viện Quốc gia Việt Nam, 1970. - T.1.
- Toàn Việt thi lục (Chữ Hán).

(Còn tiếp)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét