- Sinh ngày 15 - 1 - 1950
- Tại Xuân Trung, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định.
- Hiện cư trú tại đường Trường Chinh, phường Vị
Xuyên, thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định.
- Cử nhân văn hóa.
- Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Nam Định.
- Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam.
- Từ 1971 đến 1980 đi nghĩa vụ quân sự rồi
chuyển ngành về Thư viện tỉnh Hà Nam Ninh (nay là Nam Định), làm Trưởng phòng
Địa chí Thư mục. Hiện đã nghỉ hưu.
TÁC PHẨM ĐÃ
XUẤT BẢN:
- Tác giả Hán - Nôm Nam Định (2008)
- Các nhà khoa bảng Nam Định (2009)
- Các nhà khoa bảng Nam Định (Nxb. Quân đội nhân dân,
2017)
- Thư mục nhân vật Nam Định (2010)
Đồng tác giả và có bài in trong các sách:
- Anh hùng dân tộc, thiên tài quân sự Trần Quốc
Tuấn và quê hương Nam
Định (2000)
- Danh nhân văn hóa Nam Định (2000)
- Danh nhân Nam Định thế kỷ XX được tặng Giải
thưởng Hồ Chí Minh (2001).
- Dấu ấn thời gian (2007)
- Lược khảo tác gia văn học Nam Định (1997)
- Những người giữ lửa tình yêu với sách: Ký
(Tập 1 và tập 2 năm 2004 - 2005)
- Thi sĩ Nguyễn Bính hồn thơ Việt (2008)
- Thơ Nam Định 5 năm đầu thế kỷ: 2001 -
2005 (2006)
- Tiến sĩ Vũ Huy Trác (2008)
- Trạng nguyên Đào Sư Tích đời và thơ văn
(2010)
- Trạng nguyên đất học Nam Trực (2009)
- Tuyển tập văn học nghệ thuật Nam Định thế kỷ
XX (2005)
- Văn hóa Nam Trực cội nguồn và di sản (2000)
- ....
TÁC PHẨM ĐÃ
ĐĂNG TẢI TRÊN NEWVIETART - VIỆT VĂN MỚI
- VỠ TRẬN
Đêm Yên Dũng
Trên trời cao
Một giọt sao
Nhấp nháy
Như ánh mắt
Người yêu ta
Thuở ấy
Hẹn chờ nhau
Xao xuyến
Buổi ban đầu.
Đồi bạch đàn gió lao xao trong lá
ái êm niềm tâm sự ngàn xưa.
Đất cựa mình bồi hồi nhịp thở
ấm hơi người luống bắp, bãi dưa.
Gió tạm biệt đồi cây
Lá theo ngừng tâm sự
Đất say nồng giấc ngủ từ lâu.
Trên trời cao
Giọt sao
Không ngủ
Vẫn nhấp nháy
Nhìn
Vẫn đợi chờ
Chung thủy.
Một giọt sao
Nhấp nháy
Như ánh mắt
Người yêu ta
Thuở ấy
Hẹn chờ nhau
Xao xuyến
Buổi ban đầu.
Đồi bạch đàn gió lao xao trong lá
ái êm niềm tâm sự ngàn xưa.
Đất cựa mình bồi hồi nhịp thở
ấm hơi người luống bắp, bãi dưa.
Gió tạm biệt đồi cây
Lá theo ngừng tâm sự
Đất say nồng giấc ngủ từ lâu.
Trên trời cao
Giọt sao
Không ngủ
Vẫn nhấp nháy
Nhìn
Vẫn đợi chờ
Chung thủy.
.............
Yên Dũng là một huyện của tỉnh Bắc Giang.
Yên Dũng là một huyện của tỉnh Bắc Giang.
Hoan Hô Quy Hoạch... Treo
“Xóm văn hoá” là một xóm nghèo. Gọi là xóm
văn hoá nghèo vì hầu hết các hộ dân ở đây là cán bộ ngành văn hoá đương chức
hoặc đã nghỉ hưu. Mà lương cán bộ ngành văn hoá làm sao không nghèo được. Năm
1987 ngành văn hoá được tỉnh quan tâm cấp cho khu đầm lầy làm nhà tập thể cho
cán bộ, công nhân viên trong ngành để không còn cảnh cán bộ ăn nghỉ tại phòng
làm việc của cơ quan. Chủ trương của tỉnh làm nức lòng cán bộ ngành văn hoá.
Nhưng cơ quan không có kinh phí xây dựng, thay vì phải làm nhà tập thể, đành
chia đất cho từng hộ gia đình tự vượt lập và xây dựng. Khốn nỗi hộ nào cũng
nghèo (Có nghèo mới phải bám lấy nhà làm việc mà tá túc chứ), thành ra hẹo hẵng
mãi đến ba bốn năm sau mới hình thành xóm nhà cấp bốn.
An
cư chưa được bao lâu, năm 1996 nhà nước lại quy hoạch đô thị, hầu hết xóm văn
hoá nằm trong diện đất quy hoạch. Cán bộ phòng nhà đất đo đạc, lập biên bản
hiện trạng từng hộ để làm cơ sở đền bù khi thành phố thu hồi đất. Cán bộ phường
thông báo cho các hộ thuộc diện quy hoạch không được cơi nới, xây dựng thêm để
tránh phức tạp cho việc đền bù. Người xóm văn hoá lại háo hức chờ đón ngày thực
hiện quy hoạch. Nhà nào cũng gương mẫu chấp hành quy định, không xây dựng gì
thêm.
Thế
là ai nấy cố chịu đựng cái cảnh trời mưa thì ngập lụt, nhà dột nát, phân rác
trôi vào tận phòng ở, trời nắng thì nóng bức, chật chội. Chất lượng sống của
dân xóm văn hoá thật ... chẳng văn hoá chút nào.
Nhưng
chờ đến mỏi mắt mà không thấy chính quyền thực hiện quy hoạch. Gần mười sáu năm
sống cảnh chờ đợi nhà nước thực hiện quy hoạch đã quá sức chịu đựng, các hộ
buộc phải làm đơn kiến nghị gửi Hội đồng nhân dân và Đoàn đại biểu quốc hội
tỉnh, song chẳng có hồi âm. Chính quyền địa phương cũng không biết bao giờ trên
mới thực hiện quy hoạch.
Bán
nhà không được, cải tạo cũng không được, người xóm văn hoá thật bức bối. Chú
Lương là thủ trưởng một đơn vị quân đội, được đơn vị và đồng đội ủng hộ vật tư,
kinh phí bèn mua đất đô thị mới, xây luôn nhà ba tầng. Hôm ăn mừng nhà mới, chú
oang oang tâm sự:
-
Bà con hẳn còn nhớ gia đình em ở xóm văn hoá khốn khổ như thế nào. Nhờ cái quy
hoạch treo, vợ chồng em mới được đơn vị, bạn bè giúp đỡ mà làm được ngôi nhà cao
tầng, tiện nghi đầy đủ. Thật là sung sướng. Em phải hoan hô cái quy hoạch treo!
Nếu
được như nhà chú Lương thì tôi cũng phải hoan hô cái quy hoạch... treo. Nhưng
còn bao nhiêu gia đình vẫn phải chịu đựng cái khổ do quy hoạch treo gây ra?
Nghe nói nhà nước có quy định quy hoạch nào sau ba năm không thực hiện thì phải
bỏ. Nhưng ai công bố xoá bỏ cái quy hoạch treo? Dân xóm văn hoá còn phải chịu
đựng đến bao giờ tình trạng này?
Phải Lòng... Bài Thơ “Phải Lòng”
Nguyễn
Thị Kim Ngân- cô giáo dạy toán Trường THCS Phùng Chí Kiên (Tp. Nam
Định) là tác giả có thơ được in trong một số tuyển thơ. Tập Bến đợi của cô do
Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành cuối năm 2005 được bạn đọc quan tâm tìm đọc.
Ông
TM là một bạn đọc lâu năm của thư viện tỉnh Nam Định, năm nay đã ngoài 60 tuổi.
Ông rất thích bài thơ Phải lòng của Nguyễn Thị Kim Ngân. Nguyên văn bài thơ như
sau:
Sớm
nào thả bước trên đê
Bên anh bỗng thấy say mê tình đời
Dưới sông thuyền cứ êm trôi
Trên bờ hai đứa - hai người lang thang
Cánh cò chấp chới bay ngang
Mặt trời nghiêng nắng nhuộm vàng mặt sông.
Cớ sao sông cứ lượn vòng?
Để con đê - Kẻ phải lòng... lượn theo?
Bên anh bỗng thấy say mê tình đời
Dưới sông thuyền cứ êm trôi
Trên bờ hai đứa - hai người lang thang
Cánh cò chấp chới bay ngang
Mặt trời nghiêng nắng nhuộm vàng mặt sông.
Cớ sao sông cứ lượn vòng?
Để con đê - Kẻ phải lòng... lượn theo?
Ông
TM cứ đọc đi đọc lại hai câu kết của bài thơ “Cớ sao sông cứ lượn vòng, Để con
đê - Kẻ phải lòng... lượn theo?” Rồi ông ngắm kỹ bức hình tác giả - một cô gái
xinh như mộng in ở đầu bài thơ, càng ngắm càng mê mẩn. Ông liều gọi điện thoại
xin được làm quen với Nguyễn Thị Kim Ngân. Ông như mở cờ trong bụng khi Nguyễn
Thị Kim Ngân nhận lời tới thăm và tặng thơ cho ông. Thế rồi chờ mãi không thấy
Nguyễn Thị Kim Ngân đến, ông bức bối trút sự oán trách trong lòng bằng bài lục
bát có tên là Nỡ nào như sau:
Thơ
em thương đến là thương
Yêu thơ nên phải đánh đường tìm... em.
Nỡ nào em hẹn rồi quên
Mặc ai đứng lửa ngồi than... Nỡ nào?
Tình thơ thánh thiện thanh cao
Phải chi ong bướm tầm phào mà e?
Hay là chưa tỉnh cơn mê
Lượn theo dòng chảy, đê về nơi đâu?
Một mai sông tới biển sâu
Còn riêng đê với khối sầu... giống ai.
Yêu thơ nên phải đánh đường tìm... em.
Nỡ nào em hẹn rồi quên
Mặc ai đứng lửa ngồi than... Nỡ nào?
Tình thơ thánh thiện thanh cao
Phải chi ong bướm tầm phào mà e?
Hay là chưa tỉnh cơn mê
Lượn theo dòng chảy, đê về nơi đâu?
Một mai sông tới biển sâu
Còn riêng đê với khối sầu... giống ai.
Ông
chưa kịp gửi thơ đi thì Nguyễn Thị Kim Ngân bất ngờ xuất hiện và tặng ông tập
thơ vừa xuất bản. Thế là mọi bức bối trong lòng ông tan biến đi.
Tôi trêu ông:
Tôi trêu ông:
-
Hay là ông phải lòng tác giả bài thơ Phải lòng rồi?
Ông
cười thật hiền :
-
Đâu có! Mình phải lòng bài thơ Phải lòng đấy chứ!
Một
bài thơ nhỏ mà làm xao động tâm hồn ông già ngoài 60 tuổi. Sức truyền cảm của
văn học thật mạnh mẽ.
Văn Hoá Trong Cái Bắt Tay
Không
rõ cái bắt tay ra đời ở đâu, có từ bao giờ và xuất hiện ở Việt Nam khi nào, chỉ
biết ngày nay nó được dùng rộng rãi trong giao tiếp. ở bất kỳ đâu, trong hoàn
cảnh nào: trong các hội nghị hay họp cơ quan, ở trong nhà hay ngoài phố, bạn bè
gặp nhau, khi liên hệ công tác, lúc tiếp khách, thủ trưởng đơn vị thăm cơ sở,
trong nhân dân hay trong quân đội... ta cũng có thể bắt gặp cái bắt tay.
Có
người nói: cái bắt tay ra đời từ những người đi săn trong rừng, khi gặp người
lạ, họ xoè tay không cầm vũ khí ra để tỏ rõ thiện chí của mình. Về sau người ta
nắm lấy tay nhau... Dần dần cái bắt tay được sử dụng phổ biến trong xã hội.
Bắt
tay là để tỏ tình thân thiện. Bắt tay thường đi kèm câu chào hỏi. Cùng với sự
phát triển văn hoá, cái bắt tay cũng ngày càng được dùng thường xuyên, phong
phú về cách thức và ý nghĩa văn hoá. Cấp độ, sắc thái văn hoá của mỗi người có
thể biết được qua cách họ bắt tay như thế nào. Vậy, bắt tay cũng phải sao cho
có văn hoá. Nếu bạn không biết cách bắt tay, nhiều khi bắt tay lại gây ra điều
tai hại ngoài ý muốn.
Có
người khi bắt tay cứ để nguyên bao tay. Bắt tay như thế làm mất lòng tin của
người được bắt tay. Tại sao phải tháo bao tay trước khi bắt tay? Chuyện kể
rằng: Có người dùng bao tay tẩm độc bắt tay để ám hại người khác. Để đề phòng
những chuyện như thế nên khi bắt tay phải tháo bao tay. Hơn nữa, bắt tay là để
tỏ tình cảm với nhau thì phải tháo bao tay để biểu lộ và cảm nhận được đầy đủ
những cảm xúc và tình cảm của nhau qua da tay, lực tay, nhiệt độ tay...
Có
người khi bắt tay người này, lại ngoảnh mặt chào người khác. Bắt tay như thế
làm cho người được bắt tay phật lòng vì thấy rõ sự thờ ơ của bạn.
Khi
gặp cấp trên hoặc người cao tuổi, cấp dưới hoặc người ít tuổi lại chủ động lăng
xăng chìa tay ra bắt tay làm cho người bị bắt tay phải miễn cưỡng bắt tay. Bắt
tay như vậy làm cho người ta nghĩ là bạn xược.
Một
anh bạn giữ chức vụ cỡ Cục, Sở phàn nàn với tôi:
- “Cậu
A là nhân viên thuộc quyền, trước đây cùng cảnh “cơ hàn”, từ ngày mình làm lãnh
đạo thì không bao giờ A chịu bắt tay mình trước, thế là mình chẳng thèm bắt tay
A nữa”!
Tôi
thưa rằng:
- “Nếu
ông đến thăm A với tư cách thủ trưởng, cấp trên thì ông phải chủ động bắt tay A
để tỏ ra quan tâm đến cấp dưới mới phải. Đằng này ông lại “không thèm” bắt tay
nữa thì ông chẳng những không “tâm lý” mà còn tỏ ra nghèo ... văn hoá hơn là
bạn ông vậy”.
Bạn
là thủ trưởng đến thăm cơ sở, bắt tay lãnh đạo cơ sở trước rồi đến nhân viên là
lẽ thường. Nhưng khi gặp tình huống cán bộ nhân viên cơ sở xếp hàng chào bạn,
bạn lại đi qua những nhân viên gần nhất để bắt tay cán bộ lãnh đạo ở xa rồi mới
quay lại bắt tay nhân viên thì bạn đã vừa vất đi lòng yêu kính của cán bộ dưới
quyền. Bắt tay như thế làm cho người được bắt tay tủi thân vì thấy rõ sự phân
biệt lãnh đạo với nhân viên, còn đâu cái ý nghĩa thân tình của bắt tay!
Có
vị thủ trưởng xuống đơn vị chỉ bắt tay lãnh đạo và người “cùng cánh” với mình
mà không bắt tay nhân viên khác dù nhân viên đó đứng gần mình nhất. Điều này
thể hiện rõ sự không thiện chí của thủ trưởng và tạo ra ác cảm của nhân viên.
Có
hai anh em gặp nhau trong ngày giỗ cha mẹ liền bắt tay nhau rất xã giao. Bắt
tay trong hoàn cảnh ấy chẳng những không tỏ được tình ruột thịt mà còn thêm xa
lạ nhau ra. Người chứng kiến thấy nó xa lạ với phong tục tập quán người Việt Nam, nó “lai
căng”, “học đòi” thế nào ấy.
Có
người bắt tay cứ bóp mạnh làm người được bắt tay phải nhăn mặt hoặc bắt tay bạn
gái cứ nắm mãi không rời làm bạn gái khó xử. Bắt tay như thế có phần kém...
lịch sự.
Lại có người, phần nhiều là
các vị có chức có quyền, khi bắt tay cấp dưới lại giơ bàn tay “vô hồn” ra cho
cấp dưới nắm lấy. Bắt tay như thế thật thiếu nhiệt tình, làm cho người được bắt
tay cảm thấy “lạnh lẽo” và nhạt nhẽo.
Bác
ngoại tôi - cụ Lê Loan (anh trai cụ Lê Lễ – nguyên Phó ty văn hoá Nam Hà) kể:
“Ngày còn trẻ, tôi đi giúp việc cho một vị chức sắc. Một bận có vị khách đến
hỏi thăm chủ nhà, mà chủ nhà lại đi vắng. Tôi phải tiếp vị khách ấy. Khi khách
bắt tay, tôi khéo léo xoay tay khách lên trên tay mình để ngầm báo cho vị khách
biết tôi chỉ là cấp dưới của chủ nhà. Bắt tay cũng tinh tế lắm chứ ”.
Trong
quân đội, người lính khi gặp nhau, cấp dưới phải chào cấp trên nhưng phải chờ cấp
trên bắt tay mới được bắt tay; Nếu ngang cấp thì ai thấy trước chào và bắt tay
trước...
Ngoài
đời, không có quy định cho cái bắt tay, nhưng nhiều người thừa nhận “luật bất
thành văn” là: Khi gặp nhau cấp trên, thủ trưởng hoặc người cao tuổi nên chủ
động bắt tay cấp dưới hoặc người ít tuổi để tỏ sự quan tâm, gần gũi của mình
với quần chúng. Cấp dưới hoặc người ít tuổi không được giơ tay ra trước để bắt
tay cấp trên hoặc người cao tuổi. Khách đến nhà, chủ nhà chủ động giơ tay bắt
tay khách để tỏ rõ sự hiếu khách của mình. Bạn bè gặp nhau, cùng giơ tay bắt
tay nhau...
Khi
bắt tay, mắt nhìn thẳng vào mặt nhau, ánh mắt, nét mặt biểu lộ tình cảm chân
thật, quan tâm đến nhau. Không bắt tay quá lâu, cũng không bắt tay lấy lệ. Lực
bắt tay vừa phải, nếu cần biểu lộ tình cảm đặc biệt thì có thể tăng lực đột
xuất trong vài giây. Không bóp tay quá mạnh nhưng không được thiếu lực. Nếu bắt
tay mà hờ hững thiếu sức sống thì còn đâu nhiệt tình, thân thiện nữa.
Những
người lính thường kể cho nhau nghe một truyện cười liên quan đến cái bắt tay
như sau:
Có
vị đại tá trẻ rất lấy làm tự hào vì được nhiều người tấm tắc khen:
-
“Trẻ thế mà đã là đại tá cơ đấy!”
Mỗi
lần đi dạo phố, vị đại tá thường dương dương tự đắc ưỡn ngực, ngẩng cao đầu.
Một bận đang dạo phố, vị đại tá gặp cậu bé chừng 5 tuổi khoanh tay, cúi đầu
kính cẩn:
-
“Cháu chào chú đại tá ạ!”
Vị
đại tá hạ cố nhìn cậu bé :
-
“Chào cháu! Cháu ngoan lắm!” và ông tiếp tục dạo gót. Đi được vài bước, chợt
ông quay lại, dường như muốn tỏ ra quan tâm đến trẻ em:
-
“Hãy về nói với bố cháu rằng: vì cháu là một cậu bé ngoan nên chú đại tá thưởng
cho bố cháu một cái bắt tay nhé!”
Cậu
bé lại khoanh tay, cúi đầu:
-
“Vâng ạ, cám ơn chú, thưa chú đại tá”.
Vị
đại tá lại hỏi:
-
“Này cháu, thế bố cháu làm gì nhỉ?”
Cậu
bé lễ phép:
-
“Dạ thưa chú đại tá, bố cháu làm... đại tướng ạ!”
-
!!!
Thế
đấy! Cái bắt tay tưởng dễ mà chẳng đơn giản chút nào. Sử dụng cái bắt tay bừa
bãi, không đúng chỗ, không đúng lúc, không biết cách thức bắt tay, và nhất là
thiếu cái tâm thiện chí... nhiều khi biến mình thành kẻ ít... văn hoá, có khi
thành trò cười cho thiên hạ. Bắt tay sao cho tinh tế, tỏ ra mình là người có
nhân cách tốt đẹp, có thiện chí, có văn hoá, văn minh cũng cần phải học lắm
vậy.
Chỉ Có Một Cái Chưa Biết
Ông
HV là một tác giả "tầm tầm" cỡ địa phương có tính rất thích khoe sự
hiểu biết của mình. Một lần đi cơ sở, ông ta thao thao bất tuyệt hết chuyện
trên trời đến chuyện dưới biển, không còn để cho ai nói chen vào được. Quan
khách nói đến lĩnh vực nào ông cũng tham gia bàn luận say sưa, tỏ ra hiểu biết
hơn người.
Trong
số những người phải ngồi "chịu trận" trước ông HV có nhà nghiên cứu -
phê bình văn học Thạc sĩ Hoàng Dương Chương tình cờ cũng đi điền dã ở cơ sở đó.
Hoàng Dương Chương là nguyên mẫu của một số ký sự và truyện "Dũng sĩ diệt
cá sấu" mà một thời được bạn đọc nhỏ tuổi say mê. Hiện ở bảo tàng đặc công
rừng Sác có bức tượng dũng sĩ diệt cá sấu đề rõ tên tuổi anh. Anh còn là tác
giả hàng trăm bài nghiên cứu đăng báo chí, đồng tác giả trên chục công trình
nghiên cứu và sách đã xuất bản, là Uỷ viên Ban chấp hành, Trưởng ban thanh tra
Hội Văn học Nghệ thuật Nam Định.
Chờ
cho ông HV nói chán chê rồi, Hoàng Dương Chương mới nhận xét:
-
Thưa ông, quả là cái gì ông cũng biết, nhưng có một cái hẳn ông chưa biết.
Ông
HV ngạc nhiên:
-
Cái mà tôi chưa biết là cái gì?
Hoàng
Dương Chương thẽ thọt:
-
Thưa, cái mà ông chưa biết chính là cái ông không biết mình chưa biết cái
gì.
-
!!!
Không Chấp
Hoàng
Dương Chương thường được mời vào Ban giám khảo các cuộc thi về nhiều lĩnh vực ở
địa phương. Một lần, Hội đồng nghệ thuật tỉnh N. gặp khó khăn trong việc xét
giải thưởng thường kỳ cho một tác phẩm hiện có nhiều ý kiến đánh giá trái ngược
nhau, bèn mời anh thẩm định giúp để tham khảo. Bản thẩm định của anh đã có tác
động mạnh tới các thành viên Hội đồng nghệ thuật. Kết quả là tác phẩm đó (được
Hội đồng nghệ thuật cơ sở đề xuất loại A) đã bị hạ xuống loại C. Trong khi dư
luận bạn đọc đồng tình với nội dung bản thẩm định của anh thì tác giả của tác
phẩm bị hạ loại lại phản đối quyết liệt bằng đơn thư kiến nghị gửi các cơ quan
chức năng và thơ văn nặc danh với lời lẽ rất thiếu văn hoá bôi nhọ anh. Thấy
anh cứ bình thản, không có phản ứng gì trước việc người ta bôi nhọ mình, tôi
hỏi:
-
Là nhà nghiên cứu - phê bình văn học có uy tín của Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh
mà anh lại để yên cho cái tay học vấn chưa qua phổ thông nó điên cuồng bôi nhọ
mình là làm sao?
Anh
điềm tĩnh trả lời tôi bằng một câu hỏi làm tôi "ớ" người ra:
-
Thế ông bảo tôi có nên chấp với một kẻ điên khùng không?
-
!!!
VỠ TRẬN
N ăm 1996, chính quyền cắm mốc quy hoạch làm đường qua xóm văn hóa, cấm tiệt việc cơi nới, xây dựng mới. Các công dân gương mẫu xóm văn hóa kiên nhẫn chịu đựng cảnh mưa ngập cứt trôi vào nhà, hè nóng như lò nung hành hạ... quyết không xây dựng mới, không sửa chữa nâng cấp nhà ở, chấp hành nghiêm lệnh của chính quyền.
Đầu năm 2015, chính quyền mời bà con ra
phường, báo cáo dự án của thành phố, hứa đền bù công trình trên đất theo giá
thị trường, bằng giá xây dựng mới, đất cũng được tính theo giá thị trường thời
điểm đền bù. Bà con hoan hỉ, ai nấy háo hức mong mỏi dự án nhanh chóng được
thực thi để đổi đời. Gặp ai cũng nghe câu cửa miệng cảm ơn..., cảm ơn...
Ban dự án cùng đại diện các hộ bị thu hồi
đất chia nhau đến từng nhà kiểm đếm thật chi tiết, từ cái cây cau tí tẹo đến
cái giếng đã bị lấp bỏ cũng được kiểm đếm, không bỏ sót cái gì. Không cần đọc
kỹ biên bản kiểm đếm, các chủ hộ ký cái rụp, tin tưởng vào tương lai tươi
sáng...
Nhưng tâm trạng phấn khởi mong mỏi đã
nhanh chóng chuyển sang ngơ ngác, bất bình, thất vọng khi nhận được bản dự toán
tiền đền bù. Hóa ra cái giá thị trường mà ban dự án nói chỉ bằng nửa giá thực
tế. Chẳng hạn, nhà mái bằng một tầng được chi trả 2,5 triệu đồng một mét vuông,
bằng một nửa giá xây dựng hiện tại. Mỗi mét vuông đất bị thu hồi được đền bù
gần 6 triệu đồng, trong khi đó giá thị trường 10 đến 12 triệu đồng mét vuông...
Toàn bộ số tiền được đền bù đất và công trình nhà ở trên đất không đủ mua một
suất đất tái định cư tương đương với diện tích đất bị thu hồi mà ban dự án bán
cho theo giá thị trường. Vậy là cơ nghiệp cả đời tích cóp của hai vợ chồng chủ
hộ bỗng nhiên mất trắng. Ông bạn đồng hương nguyên là chiến sĩ đơn vị anh hùng,
xuất ngũ làm nghề bán bánh mì dạo, ở nhà tập thể trước năm 1980, không có tiền
chạy sổ đỏ, giờ chỉ được đền bù một nửa.
Bà con bị thu hồi đất đồng lòng làm
đơn kiến nghị lên UBND thành phố, không chấp nhận giá đền bù quá thấp, giá đất
bán cho dân lại cao... Ban dự án lại tổ chức họp và hứa chuyển ý kiến bà con
lên trên xem xét. Bà con lấy lại hy vọng, nôn nóng chờ phản hồi của chính
quyền... Nhưng chưa có hồi âm, đã thấy quyết định đền bù đóng dấu UBND thành
phố đỏ chót gửi xuống từng hộ gia đình bị thu hồi đất. Ban dự án mời đại diện
từng hộ gia đình lên ký biên bản đền bù theo từng thời điểm khác nhau. Bà con
xóm văn hóa lại tổ chức họp khẩn cấp, thề quyết không ký. Ông Lê Đạo Đức hùng hổ tuyên bố:
- Tôi quyết không chấp nhận giá đền bù
vô lý này. Cùng lắm, tôi làm Đoàn Văn Vươn thứ hai...
Trưa hôm sau, tôi về xóm với tinh thần
nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của hội nghị xóm, không chấp nhận đền bù của
ban dự án, thì thấy xóm nháo nhác như ong vỡ tổ. Ông bạn hưu trí cùng ngành văn
hóa nói trong nước mắt:
- Vỡ trận rồi bác ơi!
- Sự thể ra sao?
- Nó tung cò đất đến từng nhà, gạ trả
tiền tươi chênh lệch từ 100 triệu đến 130 triệu một suất đất dự án bán cho hộ
dân. Ai ký đồng ý chấp nhận giá đền bù của Ban dự án sẽ được chọn mua lô đất
đẹp để trao tay giấy tờ cho cò đất, nhận ngay tiền chênh lệch. Ai ký muộn sẽ
chỉ còn đất xấu, cò không mua. Bà con bảo nhận tiền tươi chênh lệch bán đất
được cả trăm triệu đồng, chả hơn là đấu tranh biết có kết quả không... Vậy là
tranh nhau ký...
- Ông Lê Đạo Đức thế nào?
- Ông Đức nhận tiền tươi cò đất trao tay,
ký nhận đền bù của Ban dự án rồi...
Các
hộ dân bị thu hồi đất lúc này vẫn nói câu cửa miệng: Cảm ơn... nhưng không phải
là cảm ơn... cảm ơn... như mấy hôm trước, mà là cảm ơn cò đất.
Đúng
là cái khó bó cái khôn. Ban dự án kinh nghiệm đầy mình, cò đất lại cáo già,
cánh dân nghèo thật như đếm không vỡ trận, thua đau mới là lạ!
Một
tháng sau, xóm văn hóa tan hoang những ngôi nhà bị phá dỡ. Gặp mấy bà hôm trước
còn luôn mồm cảm ơn cảm huệ cũng đang ngơ ngẩn nhìn nơi ở cũ, tôi hỏi:
-
Sao bây giờ không thấy các bà cảm ơn cảm huệ vậy? - Ôi dào... Bây giờ chúng em chẳng cảm ơn cảm
huệ thằng nào con nào sất
cả!
Đọc tản văn “Ngang qua cuộc chơi” của Trần
Huy Thuận
Trong
lịch sử văn học Việt Nam
hiếm có tác giả thành danh bằng thể loại tản văn, nên khi mượn được cuốn tản
văn Ngang qua cuộc chơi của Trần Huy Thuận, tôi tò mò muốn đọc ngay.
Sách dày 312 trang, khổ 21 cm, bìa màu xanh trang nhã, trình bày bắt mắt, do
nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2009. Sách gồm trên năm chục bài viết trong
nhiều năm, nội dung đề cập phần lớn là những chuyện đời thường, nhiều khi ta
cho là nhỏ nhặt như chuyện sinh hoạt của cá nhân (ăn mặc, tắm gội, đi đứng,
nói, nghe, làm…), chuyện xã hội (bầu bán, quan chức, giáo dục, văn hoá…), mới
lướt qua thì thấy chả có gì mới mẻ, toàn là chuyện “biết rồi, khổ lắm, nói
mãi”, nhưng nhẩn nha đọc kỹ lại “giật mình” vì sức lôi cuốn của tác phẩm.
Trần
Huy Thuận nguyên là hội viên, Trưởng Ban Kiểm tra Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam
Ninh. Ông đã đoạt hai giải nhất về văn xuôi và thơ cuộc thi thơ văn trào phúng
tỉnh Hà Nam Ninh năm 1984, giải khuyến kích cuộc thi về kỷ niệm sâu sắc hoạt
động khoa học kỹ thuật của tạp chí Khoa học và đời sống năm 1994. Trần Huy
Thuận mê viết văn từ nhỏ. Ông đã có nhiều bài in trên báo Nhân dân, Lao động,
Nông nghiệp Việt Nam,
Tuổi trẻ cười… Nhưng ông không có ý định làm một nhà văn. Ông chỉ viết khi có
hứng, hoặc trăn trở về một điều gì đó, viết như rút ra từ gan ruột của mình.
Những
bài viết của ông dưới thể loại tạp văn đề cập đến một số vấn đề văn hoá, xã
hội, chính trị nóng hổi, bức xúc thường ngắn gọn, linh hoạt, đa dạng, nhanh
nhạy, lý lẽ sắc sảo, giọng văn hóm hỉnh đầy tính suy tưởng, có tính phê phán
mạnh mẽ các thói xấu, vạch rõ khuyết điểm, chính kiến rõ ràng và có tính giáo
dục cao. Bàn về hiện tượng một số cán bộ có chức có quyền ngày nay nhũng nhiễu
dân (Cán bộ thời nay: Đầy tớ dân hay cha mẹ dân?) tác giả phân tích
nguyên nhân một cách sâu sắc và nêu yêu cầu về cán bộ thời nay: “Không cần
làm đầy tớ, chỉ cần làm tròn lương tâm, trách nhiệm và đúng pháp luật. Đừng cho
mình là tầng lớp cao hơn dân, hoặc nhầm tưởng mình giống như vua quan phong
kiến, lúc nào cũng chỉ muốn làm cha, làm mẹ dân” . Quả thật, cán bộ chỉ
cần làm được thế cũng tốt cho dân lắm lắm. Bài Lương, thưởng - Đôi điều
muốn nói lại chỉ ra một cách thuyết phục về sự bất hợp lý giữa lương và
thưởng, giữa lương và lương hưu, giữa lương và kết quả công việc. Việc xây dựng
và thực hiện chế độ lương chưa đúng với quan điểm của Đảng (con người là vốn
quý nhất cần phải ưu tiên đầu tư) nên còn nhiều bất hợp lý, làm nảy sinh nhiều
tiêu cực trong xã hội. Bài Giáo dục và tự giáo dục làm hiển hiện trước
mắt bạn đọc hai sự thật trái ngược: Ngày giáp Tết quan chức, cán bộ (nhiều
người từng đứng trên bục giảng, hoặc thường xuyên rao giảng đạo đức cho nhân
viên) lũ lượt xe pháo đi tham quan, lễ hội, biếu xén cấp trên, phè phỡn mỗi
suất ăn hàng mấy trăm nghìn đồng, có VIP lại còn đánh bạc một đêm thua mấy chục
nghìn USD vẫn thản nhiên bay đi Thái Lan chơi gái “giải đen” bằng tiền công
quỹ, trong khi đó biết bao em bé không được cắp sách đến trường, hoặc phải bán
lì xì mua… tết như “Nguyễn Văn Cư 12 tuổi đang học lớp 4 Trường tiểu học Mỹ
Kim, cũng như anh em U, Nhàn, Cư phải len lỏi trong chợ suốt ngày dể bán bao lì
xì mua… Tết”. Câu hỏi của tác giả “Biết thậm chí còn giỏi giáo dục
quần chúng, sao không biết tự giáo dục chính bản thân mình, gia đình mình?” nghe
nhẹ nhàng mà nghiêm khắc, mà đau. Phản ánh hiện tượng thầy thuốc, thầy giáo vì
tiền mà quên đạo làm thày, đánh mất lương tâm, tác giả khẳng định: “Trong
hoàn cảnh nào cũng cần chăm lo gìn giữ bằng được “Đạo làm thầy”! Điều này đương
nhiên không chỉ phụ thuộc vào người thầy, mà còn là trách nhiệm của xã hội,
trong đó có phần cơ chế, chính sách”. Những vấn đề Ngang qua cuộc chơi
phản ánh thật phong phú: Chuyện cán bộ chỉ biết hành dân, bòn rút của dân (Vài
suy nghĩ về tham nhũng và chống tham nhũng) , sự xuống cấp của một số trí
thức hiện nay (Bằng cấp chưa hoàn toàn tạo nên trí thức), chuyện một số người
chạy chức, giữ chức bằng mọi giá (Chiếc ghế và văn hoá ngồi) , chuyện
dân chủ giả vờ trong Bầu bán , chuyện có quan chức lợi dụng quy hoạch
chiếm đất của dân bằng nhiều thủ đoạn tinh vi (Chợ Bút Điền: Dân thành Nam
mình tốt thật) , chuyện các hủ tục ăn uống lãng phí trong ma chay cưới
xin, chuyện về gia đình và văn hoá gia đình, chuyện làng xóm, chuyện đồng môn,
bạn bè, chuyện giáo dục trong nhà trường, chuyện ứng xử nơi công cộng…
Đọc
Chuyện văn chuyện đời, tôi cứ bị ám ảnh mãi về những điều tác giả viết.
Nhà văn quá cố nổi tiếng CV nguyên là Trưởng ty Văn hoá kiêm Chủ tịch hội Văn
học Nghệ thuật tỉnh từng là nạn nhân của mưu đồ lật đổ tranh giành quyền lực.
Mỉa mai thay, ngay sau lễ “Chào mừng Đại hội thành công tốt đẹp”, đại hội mà CV
bị bôi nhọ, người ta tiến hành lễ trao tặng Huân chương Lao động cho CV. Sau
khi nhà văn CV qua đời, một đường phố ở chính thành phố nơi ông bị hạ nhục được
mang tên ông. Tuy có chậm, nhưng ông đã được lịch sử nhìn nhận đúng với công
lao của mình. Sau “Đại hội hạ bệ” CV, những người “chiến thắng” ngày ấy lại trở
thành nạn nhân của những mưu đồ xấu xa mới. Triết lý nhân quả trong văn Trần
Huy Thuận là tiếng chuông cảnh tỉnh cho những kẻ mang tâm địa xấu xa.
Ngang qua cuộc chơi có nhiều chuyện ca ngợi gương người tốt, việc tốt,
nhưng có lẽ sở trường của Trần Huy Thuận là phát hiện, phanh phui, phê phán
những hiện tượng tiêu cực trong xã hội. Người biết ghét và giám phê phán cái
xấu, cái tiêu cực thì mới biết yêu tha thiết và bảo vệ cái đẹp, cái tốt. Trần
Huy Thuận phê phán tiêu cực cũng chính là làm theo lời Bác Hồ dạy (Người cán bộ
cách mạng phải là công bộc của dân, phải cần kiệm liêm chính, chí công vô tư)
và nghị quyết của Đảng về chống tham nhũng, chống tiêu cực.
Những
vấn đề viết trong sách toàn là những sự việc tác giả mắt thấy tai nghe, những
số phận con người có quan hệ trực tiếp với tác giả. Từ những sự việc có thật
tác giả khái quát về một vấn đề, thể hiện thái độ và lý tưởng thẩm mỹ của mình.
Những trang viết về đồng môn của ông thật xúc động, thao thiết. Một “thằng
Thuỷ” đã là đạo diễn điện ảnh nổi tiếng, một nghệ sĩ nhân dân vẫn không quên
bạn cũ từ thời để chỏm. Một “thằng Mốc làm quan” hãnh tiến chỉ vì một bài báo
đụng chạm đến mình mà ra tay cho bạn nếm đòn quyền lực. Một người nhân hậu mà
chuân chiên như nhà văn Phương Thuỷ… Nếu ở các bài phiếm luận về các hiện tượng
tiêu cực trong xã hội, giọng văn của ông khúc triết mà giàu chất thơ, nhẹ nhàng
mà không khoan nhượng, thì khi viết về con người, ông như trút vào trang văn
tình cảm nhân hậu, đề cao giá trị đạo đức Việt Nam, bằng tâm hồn đa cảm dạt dào
cảm xúc, đồng cảm và sẻ chia với số phận con người. Viếng một đồng môn là “kẻ
hát rong” bị người đời coi thường nhưng đầy tự trọng, ông khấn thầm những lời
thống thiết, chân thành: “ánh ơi! Đây hoàn toàn là những đồng tiền sạch.
Chú của cháu, bạn đồng môn của ánh chưa bao giờ biết cầm một đồng tiền bẩn. ánh
hãy yên tâm mà nhận cho lòng tôi được an ủi”.
Những
bài phiếm luận, nhàn đàm, tạp văn nghị luận của Trần Huy Thuận sử dụng nhiều
ngạn ngữ, tục ngữ, ca dao khái quát vấn đề một cách khéo léo và chính xác, giàu
chất văn. Chẳng hạn, bàn về chuyện cái tai như “Trung ngôn nghịch nhĩ”, “đàn
gảy tai trâu”, “Nghe hơi nồi chõ”, “như vịt nghe sấm”… Hoặc về cái sự ăn: “ăn
trên ngồi trốc”, “Miệng ăn núi nở”, “ăn xổi ở thì”, “Tay làm hàm nhai, tay quai
miệng trễ”, “ăn trông nồi, ngồi trông hướng”, “ăn thủng nồi trôi rế”, “ăn to
nói lớn”, “ăn cháo đá bát”, “ăn không nói có”, “ăn cơm mắm cáy thì ngáy o o, ăn
cơm thịt bò thì lo ngay ngáy”…
Một
số bài viết dưới dạng hồi ký, truyện ngắn thường kết cấu đơn tuyến, sự kiện
diễn biến chặt chẽ xoay quanh nhân vật nên đọc dễ nhớ. Chuyện thằng đổ vỏ kể
về một đứa con phải lấy cô gái đã mang thai mà cha hắn dùng làm vật hy sinh
“tế” thủ trưởng, làm cho hắn quyết chí phấn đấu làm “sếp” của tất cả các “sếp”
của cha hắn, đọc mà buồn, mà xót, mà đau. Người có hàm răng chuột là
một trong số truyện ngắn trào phúng, có ý nghĩa sâu xa và hay. Chuyện kể rằng
có một bệnh nhân, từ ngày lên “sếp” thì hàm răng mòn đi rất nhanh, phải đến
bệnh viện thay hàm răng mới. Nhưng răng mới lại mòn nhanh hơn cả răng cũ nên
các nhà khoa học đã phải thay cho ông ta hàm răng… chuột. Quả nhiên, bệnh nhân
không quay lại bệnh viện nữa. Người ta đã nghĩ phải cấp huân chương cho tác giả
hàm răng chuột. Bất ngờ bệnh viện lại phải tiếp nhận một bệnh nhân bị bệnh suốt
ngày gậm nhấm bất cứ thứ gì ông ta thấy vì răng cứ mọc dài ra rất nhanh. Thì ra
ông ta chính là bệnh nhân trước đây được thay hàm răng chuột, từ ngày về hưu
bỗng trở bệnh lạ này…
Dù
là tạp văn, phiếm luận, hồi ký hay truyện ngắn, Ngang qua cuộc chơi vẫn
mang yếu tố tự truyện cao. Đằng sau những hình tượng văn học và ngôn từ giản
dị, nhẹ nhàng là một thái độ đúng đắn rõ ràng, là tấm lòng nhân hậu, đồng cảm,
sẻ chia với con người, thiết tha với cuộc sống của tác giả. Có người bảo, cái
tên sách Ngang qua cuộc chơi là mượn từ câu nói của nhà viết kịch Tào Mạt:
“Cuộc đời này chẳng qua cũng chỉ là một cuộc chơi” . Trần Huy Thuận có thời gian sinh hoạt trong Hội
Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh. Vậy việc viết văn, và cả hội văn cũng chỉ là
một cuộc chơi mà ông từng tạt ngang qua. Có thể là ông khiêm tốn mà nói thế.
Tên sách cũng dễ làm ta hiểu lầm rằng chỉ là sách viết cho vui. Nhưng từng dòng
từng trang văn của ông cứ cuốn hút, cứ ám ảnh bạn đọc, buộc bạn đọc phải suy
nghĩ trăn trở về nhân tình thế thái, về lẽ sống ở đời. Cái làm nên điều đó phải
chăng ngoài nội dung ngồn ngộn chất liệu cuộc sống còn là cách viết rất riêng
của Trần Huy Thuận.
TÁC GIẢ “DÒNG XOÁY” TRONG MẮT MỘT ĐỒNG
NGHIỆP
Có
lẽ bởi có nhiều điểm giống với nhà văn Trần Thị Nhật Tân nên tôi yêu quý chị
hơn chăng. Tôi và chị cùng tuổi kỷ sửu, cùng có thời gian là bộ đội chống Mỹ
(chị là lính thông tin chiến đấu bảo vệ cầu Hàm Rồng Thanh Hoá, tôi là lính bộ
binh chiến đấu ở Quảng Trị), cùng sinh hoạt trong Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh
Nam Định (chị ở tổ văn, rồi vì tự thấy không thể ở tổ văn được nên chị đã xin
sang tổ thơ. Còn tôi ở tổ nghiên cứu phê bình), cùng được “đúc” từ một “lò” đào
tạo là Trường Đại học Văn hoá Hà Nội, cùng sống trong một thành phố (nhà chị
cách nhà tôi chưa đầy cấy số), cùng có nhiều trắc trở trong đời thường (nhưng
những trắc trở của chị vượt xa những trắc trở của tôi), cùng có nhiều suy nghĩ
trùng hợp về công việc viết văn và về quan hệ ứng xử trong cuộc sống...
Tôi
quen biết Trần Thị Nhật Tân từ hơn hai chục năm trước. Hồi ấy, chị đang viết
tiểu thuyết Dòng xoáy. Hàng ngày chị đến Thư viện tỉnh Hà Nam Ninh
(nay là Nam
Định, nơi tôi công tác), ngồi ở một góc khuất trong phòng đọc để viết sách. Tối
đến, chị đi làm thuê làm mướn kiếm sống. Đêm đêm, chị ngủ nhờ khi ở chợ Rồng,
lúc ở vỉa hè nhà hát 3 – 2... Còn gia đình tôi có 5 người, sống trong một nửa
gian nhà tập thể chừng 8 mét vuông. Sau giờ làm việc ở cơ quan, tôi tranh thủ
lao động kiếm thêm mớ rau, bát gạo. Đêm về tôi ngủ nhờ trên bàn làm việc. Tôi
thường than vãn sao đời mình khổ thế. Tuy khổ vậy, tôi vẫn còn có một gia đình
và một túp lều che mưa nắng, chứ Nhật Tân thì không. May thay, đời vẫn còn nhiều
người tốt. Ông Phan Điền nguyên Bí thư tỉnh uỷ Nam Hà, khi biết hoàn cảnh khốn
khó của Nhật Tân, ông đã mời chị về nghỉ tại nhà.
Tôi
còn nhớ, lần đầu làm quen chị, tôi hỏi: “Chị công tác ở đâu?”. Chị cười mà
trông như mếu: “Tôi là giáo viên, nhưng hiện đã “mất dạy” rồi chú ạ!” Chị là
giáo viên dạy văn giỏi, nhưng dòng xoáy cuộc đời đã “hất văng” chị ra khỏi
ngành giáo dục.
Dần
dần, chị trở thành người thân của gia đình tôi và nhiều gia đình khác trong khu
tập thể Thư viện tỉnh. Hai con tôi, đứa lớp ba, đứa lớp bảy, là những bạn đọc
đầu tiên được bác Nhật Tân cho đọc bản thảo Dòng xoáy. Cứ ngơi ra là
các con tôi lại quẩn quanh bên bác Nhật Tân chờ để được đọc bản thảo tiểu
thuyết của bác. Chúng đọc háo hức, khi thì khóc, khi thì cười tuỳ theo bước
thăng trầm của nhân vật Lý. Khi con lớn tôi bảo: “Bố ơi! Tiểu thuyết của bác
Nhật Tân hay lắm bố ạ. Bác Tân bảo, bao giờ in thành sách, bác ấy tặng nhà ta.
Nhưng mà bác ấy nghèo lắm, bố cho tiền chúng con mua sách của bác ấy bố nhé!”
Tò mò, tôi cũng xin chị cho đọc thử. Càng đọc, tôi càng bị cuốn hút vào nội
dung tác phẩm. Quả thật, lắm lúc tôi cũng không cầm lòng được trước cảnh éo le
của nhân vật Lý, nước mắt cứ tràn mi vì thương nhân vật Lý, thương Nhật Tân.
Khi tôi đọc xong bản thảo, Nhật Tân hỏi: “Chú thấy chị viết được không? In được
không?” Vốn tính thẳng thắn, tôi bảo: “Nói thật, chị đừng giận, về nghệ thuật
thì tiểu thuyết của chị không có gì “ghê gớm” cả, cũng chỉ là tả thực, giọng kể
hấp dẫn thôi. Nhưng về nội dung, tính thời sự thì quả tiểu thuyết của chị thật
là “ghê gớm”. Chị xoáy vào những tiêu cực trong ngành giáo dục như vậy thì thật
dũng cảm. Thời điểm hiện nay khó có nhà xuất bản nào giám in Dòng xoáy.
In ra, có khi tác giả phải đi tù chưa biết chừng”. Chị trầm ngâm: “Chị biết.
Đấu tranh chống tiêu cực sẽ không tránh khỏi hy sinh mất mát, nhất là những
người đi đầu. Nhưng không ai giám đi đầu chịu hy sinh thì để tiêu cực nó làm
loạn à?”
Thế
rôi, thời cơ để in Dòng xoáy cũng tới. Năm 1989, Dòng xoáy
tập 1 được Nhà xuất bản Thanh niên ấn hành đã tạo ra một cơn “địa chấn” trong
dư luận bạn đọc Nam Định. Dòng xoáy tập 2 cũng được Nhà xuất bản Thanh
niên cho ra đời năm 1991. Từ khi Dòng xoáy được xuất bản, Trần Thị
Nhật Tân phải hứng chịu biết bao khốn khổ cả về việc mưu sinh, cả về mặt tinh
thần do những hành động “phản đòn” của nhiều nguyên mẫu ở địa phương gây ra.
Nhiều lần chị bị kẻ xấu dùng tiền mua chuộc để thôi không đấu tranh chống tiêu
cực, nhưng chị quyết không thoả hiệp. Mua chuộc không được, họ quay ra thoá mạ,
đe doạ chị bằng thư nặc danh. Có kẻ còn trực tiếp doạ giết chị. Nhiều năm chị
sống căng thẳng vì phải lo đối phó với bọn người xấu, căng thẳng đến ốm mòn.
Vậy mà chị vẫn hiên ngang đối đầu với tiêu cực. Có lần nản thay cho chị, tôi
bảo: “Hay là chị tập trung vào viết tiểu thuyết, đừng mất thời gian vào việc
chống tiêu cực đời thường nữa, nhất là đừng dây vào bọn quan chức thoái hoá”.
Chị bảo: “Nếu thế thì chị đâu còn là chị nữa. Không đấu tranh trong thực tế thì
chị viết làm sao được.”
Những
cố gắng của chị đã không uổng. Dòng xoáy được nhiều bạn đọc quan tâm tìm đọc.
Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh không chỉ viết thư tay gửi chị mà còn hai lần mời
chị lên gặp để nghe chị nói về những việc cần làm ngay ở địa phương. Chị còn
được Đại tướng Võ Nguyên Giáp tiếp và động viên, khen ngợi về những hành động
dũng cảm chống tiêu cực, góp phần làm xã hội tốt đẹp.
Trần
Thị Nhật Tân không chỉ viết tiểu thuyết, mà chị còn viết thơ. Thơ chị khá hay,
nhất là thơ cho thiếu nhi. Mơ chín (Nhà xuất bản Thanh niên, 1995), Quả
trăng (Nhà xuất bản Văn hoá Thông tin, 1996), Cuội thế kỷ 20 (Nhà
xuất bản Thanh Hoá, 1998) là ba tập thơ của chị với bút danh Tú Út. Đọc thơ Tú
Út, tôi nhận ra rất rõ “chất Nhật Tân” ở chất trữ tình pha màu sắc dân gian,
làm cho tiếng cười trong thơ chị tăng tác dụng làm lành mạnh các quan hệ xã
hội. Có thể coi bài Thân tằm của Nhật Tân đăng trên Lucbat. com là
ngôn chí của chị. Những suy nghĩ và hành động của chị đã luôn hướng vào thực
hiện tinh thần “ngôn chí” đó:
Tằm
tôi ăn lá dâu xanh
Âm thầm rút ruột kéo thành sợi tơ
Nhảy vào nước lửa khói mờ
Tằm xin được chết dâng tơ cho đời.
Âm thầm rút ruột kéo thành sợi tơ
Nhảy vào nước lửa khói mờ
Tằm xin được chết dâng tơ cho đời.
Mỗi
lần có sách được in, Nhật Tân lại tặng vợ chồng tôi. Năm 2005, chị được Nhà
xuất bản Quân đội in tiểu tuyết Chân trời. Vừa nhận được sách là chị
đem tặng tôi, kèm theo một lẵng những rau, bí, khế, ổi... do chính tay chị
trồng. Chị bảo rau của chị là rau sạch. Viết văn cũng phải viết sạch. Trong khi
chị hăng hái nói về chủ đề rau sạch, tôi mở lướt Chân trời, ngạc nhiên
vì bản thảo của chị hai phần (kháng chiến và cải cách ruộng đất ở Nam
Định) cả ngàn trang, mà sách lại chỉ in phần một. Hoá ra nhà xuất bản in bao
cấp toàn bộ cho tác giả, kinh phí chỉ đủ khả năng in một phần. Thấy tôi tỏ ý
tiếc rẻ vì phần hai không được in, chị bảo: “Được thế cũng là mừng lắm rồi chú
ạ.”
Năm
2009 nhà xuất bản Thanh niên bao cấp tái bản Dòng xoáy Sự kiện này lại
tạo ra một cơn “địa chấn” mới trong dư luận bạn đọc. Trên báo Thanh niên, báo
Người cao tuổi xuất hiện hàng chục bài viết về giá trị và tính thời sự của cuốn
sách, về cuộc đời “ba chìm bảy nổi” của tác giả. Hàng ngày chị nhận được hàng
chục cú điện thoại, tin nhắn, thư từ của bạn đọc động viên khen ngợi. Nhiều bạn
đọc coi chị là tấm gương sáng về tinh thần kiên cường dũng cảm đấu tranh vì
quyền con người, vì một xã hội trong sạch, tốt đẹp.
Tôi
cứ ước có một nhà xuất bản nào đó bỏ tiền ra in cho chị bản thảo tiểu thuyết
Tuổi thơ tôi mà chị đã hoàn thành từ lâu, thì không chỉ chị mà cả bạn đọc
cũng cảm ơn lắm. Điều ước của tôi thật là nhỏ bé, vậy mà với Nhật Tân thì khó
mà thực hiện, chị chẳng biết lấy đâu ra mấy chục triệu để in sách. Nhìn người
đàn bà khắc khổ già trước tuổi cứ ngày ngày âm thầm đi thực tế rồi viết, lại đi
thực tế rồi viết, viết như vắt kiệt chất xám và sức lực của mình mà lòng tôi
trào dâng niềm cảm phục. Quả thật thiểu thuyết của Nhật Tân ngồn ngộn chất liệu
cuộc sống, chân thực đến độ nhiều bạn đọc cứ quả quyết rằng tiểu thuyết của chị
viết về ông X, bà N. ở địa phương mình, ở trường học của mình... Chị lấy chất
liệu có thực trong đời sống, từ chính những trải nghiệm trong đời chị, từ tài
liệu trong các cơ quan lưu trữ của nhà nước, quân đội, công an làm chất liệu
cho tiểu thuyết của mình. Những sự việc có thật trong đời sống nhiều khi tự nó
đã hấp dẫn, chị chỉ cần sáng tạo chút ít là thành tác phẩm. Điều đó tăng tính
hấp dẫn người đọc, nhưng nếu tác giả non tay nghề là có thể biến tiểu thuyết
của mình thành tác phẩm ám chỉ. Thật may là chị được trang bị kiến thức từ
Trường Viết văn Nguyễn Du, tay nghề khá nên điều đó đã không xảy ra với tiểu
thuyết của chị.
Nhiều lần tôi xin ý kiến chị
để viết về chị, nhưng chị cứ lần khân “để chị xem đã”. Tôi biết chị không muốn
tôi phải hứng chịu những hệ luỵ không hay vì chị. Có lần chị bảo: “Chú là cây
bút nghiên cứu phê bình “trẻ” (chả là tôi mới vào Hội Văn học Nghệ thuật Nam
Định từ năm 2000) cần phải được yên thân mà viết. Chú không nên vì chị mà rầy
rà với bọn tiêu cực. Chú “bênh” chị, bọn nó không để cho yên đâu”. Khi đọc bài
“Nhà nghiên cứu lịch sử - văn hoá dân gian Lê Xuân Quang” của tôi trên báo Văn
nghệ trẻ số 35+36 năm 2005, chị động viên: “Chú viết rất có hồn, có tình. Cố
lên”. Ngày giỗ đầu bác Lê Xuân Quang, chị ốm lử khử mà vẫn đòi tôi lai về quê
thắp hương cho bác. Bữa ấy, chị kể mãi về những kỷ niệm với nhà nghiên cứu Lê
Xuân Quang – người bạn vong niên chí cốt của chị em tôi.
Dư
luận bạn đọc cả nước xôn xao về Dòng xoáy và về tác giả Nhật Tân.
Nhưng giới văn học nghệ thuật lại không thấy “động tĩnh” gì. Dù chị chưa phải
là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam,
tôi vẫn coi chị là nhà văn chân chính. Còn nhớ khi Dòng xoáy ra đời, có người
chụp cho chị là “bới lông tìm vết, vạch áo cho người xem lưng, bôi xấu bộ mặt
tỉnh văn hiến”. Tôi lại nghĩ, trái lại, bằng tính chiến đấu và tính chân thật
cao của Dòng xoáy, Trần Thị Nhật Tân góp phần làm cho địa phương ngày
một tốt đẹp hơn, hoặc chí ít cũng là mong muốn của chị.
Thành Nam, ngày
Đông chí năm 2009
CÁC NHÀ KHOA BẢNG NAM ĐỊNH (Kỳ thứ 1)
Lời nói đầu
Những người được chọn giới thiệu này là những người quê ở Nam Định, hoặc quê nơi khác nhưng định cư ở Nam Định, đỗ trong các khoa thi cấp quốc gia thời phong kiến ở nước ta (thi Hội, thi Đình) từ Phó bảng đến Trạng nguyên.
Người đỗ Phó bảng gọi là nhà khoa bảng, người đỗ từ đồng Tiến sĩ đến Trạng nguyên gọi là nhà khoa giáp, nhưng để cho tiện, xin gọi chung những người đỗ đại khoa là nhà khoa bảng.
Các tài liệu tham khảo chính là sách lịch sử, đăng khoa lục, gia phả, sách địa chí, văn bia... Nếu có sự không thống nhất giữa các tài liệu tham khảo thì lấy chính sử làm căn cứ chủ yếu, có nói rõ sự sai khác đó. Một số chi tiết không thống nhất giữa chính sử với gia phả thì tuỳ từng trường hợp mà xem xét quyết định lựa chọn tư liệu sao cho hợp lý.
Tổng số nhà khoa bảng Nam Định được giới thiệu là 121 vị, trong đó 88 vị có cứ liệu đáng tin cậy, 33 vị chưa đủ cứ liệu chính xác nêu ra chỉ có tính chất tham khảo. Tuy nhiên, trong số 88 vị “có cứ liệu đáng tin cậy” vẫn có hai vị cần xem xét kỹ hơn. Đó là:
- Vương Văn Hiệu chưa rõ thời gian đỗ như đã trình bày trong chính văn.
- Vũ Đình Dung: Theo Từ điển nhân vật lịch sử của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế (Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1993) thì Vũ Đình Dung, lãnh tụ khởi nghĩa Ngân Già có đỗ Tiến sĩ. Nhưng gia phả họ Vũ ở Ngân Già lại không thấy nói ông đỗ Tiến sĩ.
Chúng tôi vẫn xếp hai nhân vật này ở phần chính vì căn cứ vào cứ liệu là các sách đăng khoa lục và tài liệu lịch sử có thống kê hai nhân vật này dù còn chưa thống nhất.
Danh sách các nhà khoa bảng được xếp theo thứ tự vần chữ cái họ tên để bạn đọc tiện tra cứu. Năm sinh và năm mất được ghi ngay sau tiêu đề nhân vật trong hai ngoặc đơn. Nếu chưa rõ thì đánh dấu “hỏi” ( ? ). Nếu xác định được thời gian sống của nhân vật một cách tương đối thì ghi theo thế kỷ.
Do khả năng có hạn, tài liệu tham khảo không nhiều nên không tránh khỏi thiếu sót như bỏ sót nhân vật, chuyển đổi địa danh cũ ra địa danh hiện nay chưa chính xác... Mong được bạn đọc lượng thứ và cho ý kiến để chỉnh lý.
Những người được chọn giới thiệu này là những người quê ở Nam Định, hoặc quê nơi khác nhưng định cư ở Nam Định, đỗ trong các khoa thi cấp quốc gia thời phong kiến ở nước ta (thi Hội, thi Đình) từ Phó bảng đến Trạng nguyên.
Người đỗ Phó bảng gọi là nhà khoa bảng, người đỗ từ đồng Tiến sĩ đến Trạng nguyên gọi là nhà khoa giáp, nhưng để cho tiện, xin gọi chung những người đỗ đại khoa là nhà khoa bảng.
Các tài liệu tham khảo chính là sách lịch sử, đăng khoa lục, gia phả, sách địa chí, văn bia... Nếu có sự không thống nhất giữa các tài liệu tham khảo thì lấy chính sử làm căn cứ chủ yếu, có nói rõ sự sai khác đó. Một số chi tiết không thống nhất giữa chính sử với gia phả thì tuỳ từng trường hợp mà xem xét quyết định lựa chọn tư liệu sao cho hợp lý.
Tổng số nhà khoa bảng Nam Định được giới thiệu là 121 vị, trong đó 88 vị có cứ liệu đáng tin cậy, 33 vị chưa đủ cứ liệu chính xác nêu ra chỉ có tính chất tham khảo. Tuy nhiên, trong số 88 vị “có cứ liệu đáng tin cậy” vẫn có hai vị cần xem xét kỹ hơn. Đó là:
- Vương Văn Hiệu chưa rõ thời gian đỗ như đã trình bày trong chính văn.
- Vũ Đình Dung: Theo Từ điển nhân vật lịch sử của Nguyễn Q. Thắng và Nguyễn Bá Thế (Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, 1993) thì Vũ Đình Dung, lãnh tụ khởi nghĩa Ngân Già có đỗ Tiến sĩ. Nhưng gia phả họ Vũ ở Ngân Già lại không thấy nói ông đỗ Tiến sĩ.
Chúng tôi vẫn xếp hai nhân vật này ở phần chính vì căn cứ vào cứ liệu là các sách đăng khoa lục và tài liệu lịch sử có thống kê hai nhân vật này dù còn chưa thống nhất.
Danh sách các nhà khoa bảng được xếp theo thứ tự vần chữ cái họ tên để bạn đọc tiện tra cứu. Năm sinh và năm mất được ghi ngay sau tiêu đề nhân vật trong hai ngoặc đơn. Nếu chưa rõ thì đánh dấu “hỏi” ( ? ). Nếu xác định được thời gian sống của nhân vật một cách tương đối thì ghi theo thế kỷ.
Do khả năng có hạn, tài liệu tham khảo không nhiều nên không tránh khỏi thiếu sót như bỏ sót nhân vật, chuyển đổi địa danh cũ ra địa danh hiện nay chưa chính xác... Mong được bạn đọc lượng thứ và cho ý kiến để chỉnh lý.
Vài Nét Về Các Nhà Khoa Bảng Nam Định
1 - Các
sách đăng khoa lục và lịch sử còn ghi chép được, ở nước ta, từ 1075 đến 1919 tổ
chức được 183 khoa thi cấp quốc gia (Đại tỷ, Đại tỷ thủ sĩ, Thái học sinh mà ta
quen gọi là Đại khoa, tức thi Hội và thi Đình), lấy đỗ 3415 người (hiện chỉ còn
danh sách 2898 người). Những người đỗ Đại khoa thường phải trải qua ba khoa thi
(Hương, Hội, Đình) và đều được nhận một học vị nhất định tuỳ theo từng giai
đoạn lịch sử cụ thể.
Việc phân cấp người đỗ đại khoa thời Lý chưa rõ ràng, chỉ thấy khoa 1196 có học vị Xuất thân. Từ năm 1232 thời Trần bắt đầu chia người đỗ đại khoa làm ba giáp là Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp và Đệ tam giáp. Cách chia này được dùng tới triều Nguyễn. Khoa 1239 lại chia người đỗ làm hai loại là Giáp khoa và ất khoa. Từ năm 1246 xuất hiện Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa lang gọi tắt là Thám hoa). Khoa 1256 và 1266 lấy hai Trạng nguyên (Kinh Trạng nguyên cho vùng đồng bằng Bắc bộ, Trại Trạng nguyên cho vùng Thanh Hoá...). Hai khoa 1304 và 1374 người đỗ Đệ nhị giáp được ban danh hiệu Hoàng giáp. Khoa 1426 chia người đỗ thành Giáp đẳng và ất đẳng. Khoa 1442 xếp Đệ nhất giáp và Đệ nhị giáp vào Chính bảng, Đệ tam giáp vào Phụ bảng. Năm 1462 Lê Thánh Tông ban thêm học vị Cập đệ và Xuất thân, năm 1472 định tư cách và phân loại Tiến sĩ. Từ đây danh hiệu chính thức của người đỗ đại khoa là :
Việc phân cấp người đỗ đại khoa thời Lý chưa rõ ràng, chỉ thấy khoa 1196 có học vị Xuất thân. Từ năm 1232 thời Trần bắt đầu chia người đỗ đại khoa làm ba giáp là Đệ nhất giáp, Đệ nhị giáp và Đệ tam giáp. Cách chia này được dùng tới triều Nguyễn. Khoa 1239 lại chia người đỗ làm hai loại là Giáp khoa và ất khoa. Từ năm 1246 xuất hiện Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa lang gọi tắt là Thám hoa). Khoa 1256 và 1266 lấy hai Trạng nguyên (Kinh Trạng nguyên cho vùng đồng bằng Bắc bộ, Trại Trạng nguyên cho vùng Thanh Hoá...). Hai khoa 1304 và 1374 người đỗ Đệ nhị giáp được ban danh hiệu Hoàng giáp. Khoa 1426 chia người đỗ thành Giáp đẳng và ất đẳng. Khoa 1442 xếp Đệ nhất giáp và Đệ nhị giáp vào Chính bảng, Đệ tam giáp vào Phụ bảng. Năm 1462 Lê Thánh Tông ban thêm học vị Cập đệ và Xuất thân, năm 1472 định tư cách và phân loại Tiến sĩ. Từ đây danh hiệu chính thức của người đỗ đại khoa là :
-
Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ: Đệ nhất danh (Trạng nguyên), Đệ nhị danh (Bảng
nhãn), Đệ tam danh (Thám hoa).
- Đệ
nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp).
- Đệ
tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân.
Năm
1829 nhà Nguyễn đặt thêm học vị Phó bảng, lấy người đỗ trong các kỳ thi đại
khoa kém điểm người đỗ Đệ tam giáp, xếp riêng thành một bảng và chưa được coi
là Tiến sĩ.
Người đỗ đại khoa thời Trần gọi là Thái học sinh (có từ năm 1232 đến năm 1400), từ năm 1442 gọi là Tiến sĩ. Tiến sĩ dùng chỉ những người đỗ từ Đệ Tam giáp trở lên, đồng thời cũng là tên thông tục chỉ người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa dùng gọi những người đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (Đệ nhất danh, Đệ nhị danh, Đệ tam danh), Hoàng giáp dùng gọi những người đỗ Đệ nhị giáp.
Người đỗ đại khoa thời Trần gọi là Thái học sinh (có từ năm 1232 đến năm 1400), từ năm 1442 gọi là Tiến sĩ. Tiến sĩ dùng chỉ những người đỗ từ Đệ Tam giáp trở lên, đồng thời cũng là tên thông tục chỉ người đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa dùng gọi những người đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (Đệ nhất danh, Đệ nhị danh, Đệ tam danh), Hoàng giáp dùng gọi những người đỗ Đệ nhị giáp.
Những
người đỗ từ Tiến sĩ đến Trạng nguyên gọi là nhà khoa giáp, người đỗ Phó bảng
gọi là nhà khoa bảng, người đỗ Cử nhân ở các khoa thi cấp địa phương gọi là nhà
khoa mục. Người ta thường gọi chung những người đỗ đại khoa là nhà khoa bảng
cho tiện.
Người
đỗ đầu cả ba khoa thi (Hương, Hội, Đình) gọi là Tam nguyên, đỗ đầu ba khoa thi
liên tục gọi là Tam nguyên liên trúng.
Người
đỗ đầu khoa thi Hội gọi là Hội nguyên.
Người đỗ đầu khoa thi Đình gọi là Đình nguyên. Trạng nguyên là học vị cao nhất nên tất nhiên là Đình nguyên. Đình nguyên có thể là Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp hoặc Tiến sĩ, nhưng không bao giờ là Phó bảng vì Phó bảng chưa phải là Tiến sĩ.
Người đỗ đầu khoa thi Đình gọi là Đình nguyên. Trạng nguyên là học vị cao nhất nên tất nhiên là Đình nguyên. Đình nguyên có thể là Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp hoặc Tiến sĩ, nhưng không bao giờ là Phó bảng vì Phó bảng chưa phải là Tiến sĩ.
Người
đỗ đầu hai khoa thi Hội và thi Đình gọi là Song nguyên.
Người
đỗ đầu khoa thi Hương gọi là Giải nguyên (còn gọi là Tỉnh nguyên, Hương
nguyên).
Năm
1442 chính thức phân cấp thành ba khoa thi Hương, Hội, Đình nên từ đây mới có
Tam nguyên và Song nguyên. Một số khoa chỉ có thi Hội mà không thi Đình cũng
không thể có Tam nguyên và Song nguyên như các khoa 1453, 1458 và các khoa từ
1554 đến 1592.
2 - Tỉnh
Nam Định (theo giới hạn địa danh hành chính hiện nay) có 88 nhà khoa bảng có cứ
liệu đáng tin cậy. Trong đó có 5 Trạng nguyên, 1 Đệ nhất giáp chưa rõ đệ danh,
1 đỗ thứ ba Đệ nhất giáp, 2 Thám hoa, 2 Bảng nhãn, 15 Hoàng giáp, 46 Tiến sĩ,
16 Phó bảng.
Đạt
danh hiệu Tam nguyên liên trúng có Hoàng giáp Trần Bích San. Trần Bích San
(1838 - 1878) tự Vọng Nghi, hiệu Mai Nham, quê làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc (nay
thuộc tp. Nam Định) đỗ Giải nguyên khoa Giáp Tý 1864, đỗ Hội nguyên và Đình
nguyên Hoàng giáp khoa ất Sửu 1865, được vua tặng cờ “Tam nguyên liên trúng” và
cho đổi tên là Trần Hy Tăng (tỏ ý trông đợi hy vọng nhiều ở Trần Bích San). Ông
làm quan tới Lễ bộ Tả tham tri, có nhiều công lao đối với nước, để lại một số
tác phẩm như Mai Nham thi thảo, Nhân sự kim giám, Gia huấn ca...
Trạng nguyên Đào Sư Tích đỗ đầu cả ba kỳ thi năm 1374 đời Trần Duệ Tông (thời đó chưa phân chia rạch ròi các khoa thi nên chưa có danh hiệu Tam nguyên), làm quan đến Nhập nội Hành khiển.
Trạng nguyên Đào Sư Tích đỗ đầu cả ba kỳ thi năm 1374 đời Trần Duệ Tông (thời đó chưa phân chia rạch ròi các khoa thi nên chưa có danh hiệu Tam nguyên), làm quan đến Nhập nội Hành khiển.
Đạt
hai danh hiệu Giải nguyên và Đình nguyên có Hoàng giáp Đỗ Huy Liêu, Tiến sĩ Ngô
Trần Thực. Đỗ Huy Liêu (1844 - 1891) quê làng La Ngạn nay thuộc xã Yên Đồng,
huyện ý Yên, tỉnh Nam Định. Ông đỗ Giải nguyên khoa 1867, đỗ Đình nguyên Hoàng
giáp khoa 1879. Bài Đối sách thi Đình của ông mạch lạc, được châu phê: “Quả có
thực học, những kẻ dẫm theo vết mòn không thể làm được”... Tiến sĩ Ngô Trần
Thực, quê gốc Bắc Ninh, người Bách Tính, Nam Trực (Nam Định) đỗ khoa 1760 đời
Lê Hiến Tông, làm quan đến Đông các Đại học sĩ.
Đạt
danh hiệu Hội nguyên có Tiến sĩ Ngô Bật Lượng.
Đạt danh hiệu Giải nguyên có
Phó bảng Nguyễn Âu Chuyên, Tiến sĩ Đỗ Phát, Tiến sĩ Đồng Công Viện.
Nam Định có nhiều người trẻ tuổi đỗ cao, thể hiện đặc điểm thông minh ham học của người Nam Định. Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên năm 1247 khi mới 13 tuổi là vị Trạng nguyên trẻ nhất nước. Tiến sĩ Phạm Duy Chất đỗ khoa Đông Các (trên Tiến sĩ). Bảng nhãn Trần Đạo Tái đỗ năm 14 tuổi. Trạng nguyên Lương Thế Vinh đỗ khoa 1463 khi mới 23 tuổi. Trần Văn Bảo đỗ Trạng nguyên năm 1550 ở tuổi 27. Trạng nguyên Đào Sư Tích đỗ năm 1374 lúc 24 tuổi...
Không chỉ có người trẻ tuổi đỗ cao, mà những người cao tuổi cũng rất ham học, đỗ cao thể hiện sự kiên trì phấn đấu như Trạng nguyên Vũ Tuấn Chiêu đỗ năm 50 tuổi (có sách chép ông đỗ năm 55 tuổi). Tương truyền Vũ Tuấn Chiêu học kém, phải theo học cùng bọn trẻ con hết lớp này đến lớp khác. Thày dạy Vũ Tuấn Chiêu đã nản lòng, khuyên ông về nhà đi cày, thôi không học nữa. Trên đường về nhà, Vũ Tuấn Chiêu nhìn thấy chân cầu đá mòn vẹt, chợt hiểu ra chân lý “nước chảy đá mòn”, bèn quay lại trường quyết chí học tập, rồi đỗ Trạng nguyên khoa ất Mùi 1475 đời Lê Thánh Tông, làm quan đến Lại bộ Tả thị lang.
Nam Định có nhiều người trẻ tuổi đỗ cao, thể hiện đặc điểm thông minh ham học của người Nam Định. Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên năm 1247 khi mới 13 tuổi là vị Trạng nguyên trẻ nhất nước. Tiến sĩ Phạm Duy Chất đỗ khoa Đông Các (trên Tiến sĩ). Bảng nhãn Trần Đạo Tái đỗ năm 14 tuổi. Trạng nguyên Lương Thế Vinh đỗ khoa 1463 khi mới 23 tuổi. Trần Văn Bảo đỗ Trạng nguyên năm 1550 ở tuổi 27. Trạng nguyên Đào Sư Tích đỗ năm 1374 lúc 24 tuổi...
Không chỉ có người trẻ tuổi đỗ cao, mà những người cao tuổi cũng rất ham học, đỗ cao thể hiện sự kiên trì phấn đấu như Trạng nguyên Vũ Tuấn Chiêu đỗ năm 50 tuổi (có sách chép ông đỗ năm 55 tuổi). Tương truyền Vũ Tuấn Chiêu học kém, phải theo học cùng bọn trẻ con hết lớp này đến lớp khác. Thày dạy Vũ Tuấn Chiêu đã nản lòng, khuyên ông về nhà đi cày, thôi không học nữa. Trên đường về nhà, Vũ Tuấn Chiêu nhìn thấy chân cầu đá mòn vẹt, chợt hiểu ra chân lý “nước chảy đá mòn”, bèn quay lại trường quyết chí học tập, rồi đỗ Trạng nguyên khoa ất Mùi 1475 đời Lê Thánh Tông, làm quan đến Lại bộ Tả thị lang.
Truyền thống hiếu học ở Nam Định thể
hiện rõ trong từng gia đình, dòng họ. Hoàng giáp Phạm Văn Nghị có một con đỗ
Phó bảng và 3 con đỗ Cử nhân. Họ Đào ở Cổ Lễ (Trực Ninh) có Đào Toàn Bân đỗ
Hoàng giáp. Con Đào Toàn Bân là Đào Sư Tích đỗ Trạng nguyên, hậu duệ của ông có
Tiến Sĩ Dương Bật Trạc (nguyên họ Đào đổi ra họ Dương). Nhiều gia đình cha con cùng đỗ như Phó bảng
Trần Doãn Đạt có con là Trần Bích San đỗ Hoàng giáp, Phó bảng Đỗ Huy Uyển có
con là Đỗ Huy Liêu đỗ Hoàng giáp... Anh em sinh đôi cùng đỗ một khoa là Lê Hiến
Giản đỗ Bảng nhãn, Lê Hiến Tứ đỗ Tiến sĩ. Tiến sĩ Phạm Đạo Phú và Hoàng giáp Phạm
Bảo là hai anh em...
Phần
lớn những nhà khoa bảng Nam Định từng giữ các chức vụ cao trong triều đình ở
các thời đại: 1 Nhập nội Hành khiển, 6 Đại học sĩ, 9 Thượng thư, 3 Tham tri, 2
Tế tửu và Tư nghiệp Quốc Tử Giám, 5 Tuần phủ, 1 Đại tướng đổng quân...
Các nhà khoa bảng là những người có nhiều công lao trong xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá và giáo dục. Họ là những nhà văn, nhà giáo, nhà quân sự, nhà khoa học, nhà sử học, nhà địa chí học, nhà chính trị... để lại cho đời nhiều trước tác giá trị, họ thực sự có công lớn góp phần tạo nên giá trị của nền văn hiến nước ta. Nhà khoa học Trạng nguyên Lương Thế Vinh với Đại thành toán pháp, nhà sử học Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng với Việt sử cương mục tiết yếu, lãnh tụ yêu nước chống Pháp - nhà giáo Hoàng giáp Phạm Văn Nghị với ngôi trường đặc biệt trong lịch sử - trường Tam Đăng dạy cả văn và võ, Phó bảng Lã Xuân Oai hy sinh trong nhà tù Côn Đảo, Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi trước khi bị giặc Pháp xử tử vẫn hiên ngang đọc thơ tuyệt mệnh, nhà giáo Tiến sĩ Ngô Thế Vinh với 72 bộ sách giáo khoa của ông, nhà giáo Hoàng giáp Đào Toàn Bân từng được nhà giáo Chu Văn An tôn là “đại sư vô nhị”, Quốc Tử Giám tế tửu Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh với Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Liên với hành động “bất bái Toàn quyền” thể hiện khí phách của sĩ phu yêu nước Việt Nam, Tiến sĩ Vũ Huy Trác với tài làm phú được dân gian tôn là “Thần phú”, Trạng nguyên Nguyễn Hiền làm vẻ vang đất nước bằng trí thông minh trước sứ giả Trung Quốc, Trạng nguyên Đào Sư Tích với bài Cảnh tinh phú được người đời sau coi là “người khơi nguồn thể phú thời Trần”, Tiến sĩ Phạm Đạo Phú là một trong hai tám ngôi sao của Hội Tao Đàn do Lê Thánh Tông thành lập... là những tên tuổi lớn được ghi danh trong sử sách, là niềm tự hào của nhân dân cả nước nói chung và Nam Định nói riêng.
Các nhà khoa bảng là những người có nhiều công lao trong xây dựng và bảo vệ đất nước, đặc biệt trong lĩnh vực văn hoá và giáo dục. Họ là những nhà văn, nhà giáo, nhà quân sự, nhà khoa học, nhà sử học, nhà địa chí học, nhà chính trị... để lại cho đời nhiều trước tác giá trị, họ thực sự có công lớn góp phần tạo nên giá trị của nền văn hiến nước ta. Nhà khoa học Trạng nguyên Lương Thế Vinh với Đại thành toán pháp, nhà sử học Tiến sĩ Đặng Xuân Bảng với Việt sử cương mục tiết yếu, lãnh tụ yêu nước chống Pháp - nhà giáo Hoàng giáp Phạm Văn Nghị với ngôi trường đặc biệt trong lịch sử - trường Tam Đăng dạy cả văn và võ, Phó bảng Lã Xuân Oai hy sinh trong nhà tù Côn Đảo, Tiến sĩ Vũ Hữu Lợi trước khi bị giặc Pháp xử tử vẫn hiên ngang đọc thơ tuyệt mệnh, nhà giáo Tiến sĩ Ngô Thế Vinh với 72 bộ sách giáo khoa của ông, nhà giáo Hoàng giáp Đào Toàn Bân từng được nhà giáo Chu Văn An tôn là “đại sư vô nhị”, Quốc Tử Giám tế tửu Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh với Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Liên với hành động “bất bái Toàn quyền” thể hiện khí phách của sĩ phu yêu nước Việt Nam, Tiến sĩ Vũ Huy Trác với tài làm phú được dân gian tôn là “Thần phú”, Trạng nguyên Nguyễn Hiền làm vẻ vang đất nước bằng trí thông minh trước sứ giả Trung Quốc, Trạng nguyên Đào Sư Tích với bài Cảnh tinh phú được người đời sau coi là “người khơi nguồn thể phú thời Trần”, Tiến sĩ Phạm Đạo Phú là một trong hai tám ngôi sao của Hội Tao Đàn do Lê Thánh Tông thành lập... là những tên tuổi lớn được ghi danh trong sử sách, là niềm tự hào của nhân dân cả nước nói chung và Nam Định nói riêng.
Thống Kê các Nhà Khoa Bảng Nam
Định theo khoa thi
(88 người có cứ liệu đáng tin cậy)
Triều
Lý :
(1
Đệ nhất giáp Đệ tam danh).
Mậu
Thìn - Trình Khánh 3:
Đệ
nhất giáp Đệ tam danh Vương Văn Hiệu.
Triều Trần:
(2 Trạng nguyên, 2 Bảng nhãn,
1 Hoàng giáp, 1 Tiến sĩ).
2-
Triều Trần Thánh Tông:
Bảng
nhãn Trần Đạo Tái
3-
Đinh Mùi -Thiên ứng Chính Bình 16 (1247):
Trạng
nguyên Nguyễn Hiền
4-
Nhâm Dần (1362) đời Trần Dụ Tông:
Hoàng
giáp Đào Toàn Bân
5-
Giáp Dần - Long Khánh 2 (1374):
Trạng
nguyên Đào Sư Tích
Bảng
nhã Lê Hiến Giản
Tiến
sĩ Lê Hiến Tứ
Triều
Lê :
(2 Trạng nguyên, 1 Thám hoa,
1 Đệ nhất giáp chưa rõ đệ danh, 9 Hoàng giáp, 10 Tiến sĩ).
6-
Kỷ Dậu - Thuận Thiên 2 (1429) :
Đệ
nhất giáp Vũ Vĩnh Trinh
7-
Nhâm Tuất - Đại Bảo 3 (1442) :
Tiến
sĩ Nguyễn Địch
8-
Quý Mùi - Quang Thuận 4 (1463) :
Trạng
nguyên Lương Thế Vinh
9-
ất Mùi - Hồng Đức 6 (1475) :
Trạng
nguyên Vũ Tuấn Chiêu
Tiến
sĩ Nguyễn Sùng Nghê
10-
Mậu Tuất - Hồng Đức 9 (1478) :
Thám
hoa Trần Bích Hoành
Hoàng
giáp Vũ Duy Thiện
Tiến
sĩ Vũ Kiệt
Tiến
sĩ Đỗ Hựu
11-
Tân Sửu - Hồng Đức 12 (1481) :
Hoàng
giáp Phạm Hùng
12-
Đinh Mùi - Hồng Đức 18 (1487) :
Hoàng
giáp Đinh Trung Thuần
Hoàng
giáp Phạm Bảo
Hoàng
giáp Trần Kỳ
Hoàng
giáp Vũ Triệt Võ
13-
Canh Tuất - Hồng Đức 21 (1490) :
Tiến
sĩ Phạm Đạo Phú
14-
Quý Sửu - Hồng Đức 24 (1493) :
Hoàng
giáp Phạm Khắc Thận
15-
Kỷ Mùi - Cảnh Thống 2 (1499) :
Hoàng
giáp Nguyễn Tử Đô
Hoàng
giáp Trần Xuân Vinh
16-
Nhâm Tuất - Cảnh Thống 5 (1502):
Tiến
sĩ Bùi Tân
Tiến
sĩ Phạm Tráng
17-
Mậu Thìn - Đoan Khánh 4 (1508) :
Tiến
sĩ Đinh Thao Ngọc
18-
Tân Mùi - Hồng Thuận 3 (1511) :
Tiến
sĩ Nguyễn Ý
19-
Quý Mùi - Thống Nguyên 2(1523):
Tiến
sĩ Vũ Đoan
Triều
Mạc:
(1 Trạng nguyên, 1 Thám hoa,
2 Hoàng giáp, 5 Tiến sĩ)
20-
Kỷ Sửu - Minh Đức 3 (1529) :
Hoàng
giáp Trần Thuỵ
21-
Ất Mùi - Đại Chính 6 (1535) :
Tiến
sĩ Dương Xân
22-
Canh Tuất - Cảnh Lịch 3 (1550) :
Trạng
nguyên Trần Văn Bảo
Tiến
sĩ Đào Minh Dương
Tiến
sĩ Ngô Bật Lượng
23-
Bính Thìn - Quang Bảo 2 (1556):
Tiến
sĩ Tống Hân
24-
Đinh Sửu - Sùng Khang 10 (1577) :
Thám
hoa Phạm Gia Môn
25-
Bính Tuất - Đoan Thái 2 (1586) :
Hoàng
giáp Trần Hữu Thành
Tiến
sĩ Trần Đình Huyên
Triều
Lê Trung Hưng :
(18 Tiến sĩ)
26-
Mậu Thìn - Vĩnh Tộ 10 (1628) :
Tiến
sĩ Đặng Phi Hiển
Tiến
sĩ Nguyễn Thế Trân
27-
Nhâm Thìn - Khánh Đức 4(1652):
Tiến
sĩ Nguyễn Công Bật
28-
Kỷ Hợi - Vĩnh Thọ 2 (1659) :
Tiến
sĩ Phạm Duy Chất
29-
Canh Tuất - Cảnh Trị 8 (1670):
Tiến
sĩ Nguyễn Danh Nho
30-
Canh Dần - Vĩnh Thịnh 6(1710):
Tiến
sĩ Phạm Duy Cơ
Tiến
sĩ Phạm Kim Kính
31-
Nhâm Thìn - Vĩnh Thịnh 8(1712):
Tiến
sĩ Đồng Công Viện
32-
ất Sửu - Vĩnh Thịnh 11 (1715) :
Tiến
sĩ Dương Bật Trạc
33-
Tân Sửu - Bảo Thái 2 (1721) :
Tiến
sĩ Trần Mại
34-
Giáp Thìn - Bảo Thái 5 (1724) :
Tiến
sĩ Phạm Hữu Du
35-
Quý Sửu - Long Đức 2 (1733) :
Tiến
sĩ Vũ Đình Dung
36-
Mậu Thìn - Cảnh Hưng 9 (1748) :
Tiến
sĩ Hoàng Phạm Dịch
37-
Canh Thìn - Cảnh Hưng 21 (1760) :
Tiến
sĩ Ngô Trần Thực
38-
Nhâm Thìn - Cảnh Hưng 33 (1772) :
Tiến
sĩ Vũ Huy Trác
39-
Mậu Tuất - Cảnh Hưng 39 (1778) :
Tiến
sĩ Phạm Trọng Huyến
40-
Kỷ Hợi - Cảnh Hưng 40 (1779) :
Tiến
sĩ Hoàng Quốc Trân
Tiến
sĩ Ngô Tiêm
Triều
Nguyễn :
(3 Hoàng giáp, 12 Tiến sĩ, 16
Phó bảng)
41-
Kỷ Sửu - Minh Mệnh 10 (1829) :
Tiến
sĩ Ngô Thế Vinh
Tiến
sĩ Phạm Thế Lịch
42-
Nhâm Thìn - Minh Mệnh 13 (1832) :
Tiến
sĩ Vũ Công Độ
43-
Mậu Tuất - Minh Mệnh 19 (1838) :
Hoàng
giáp Phạm Văn Nghị
44-
Tân Sửu - Thiệu Trị 1 (1841) :
Phó
bảng Đỗ Huy Uyển
45-
Quý Mão - Thiệu Trị 3 (1843) :
Tiến
sĩ Đỗ Phát
46-
Giáp Thìn - Thiệu Trị 4 (1844) :
Tiến
sĩ Bùi Văn Phan
Phó
bảng Vũ Diệm
47-
Mậu Thân - Tự Đức 1 (1848) :
Phó
bảng Đặng Kim Toán
Phó
bảng Đặng Ngọc Cầu
48-
Kỷ Dậu - Tự Đức 2 (1849) :
Phó
bảng Đặng Đức Địch
49-
Bính Thìn - Tự Đức 9 (1856) :
Tiến
sĩ đặng Xuân Bảng
50-
Nhâm Tuất - Tự Đức 15 (1862) :
Phó
bảng Trần Doãn Đạt
51-
ất Sửu - Tự Đức 18 (1865) :
Hoàng
giáp Trần Bích San
Phó
bảng Lã Xuân Oai
Phó
bảng Phạm Đăng Giảng
52-
ất Hợi - Tự Đức 28 (1875) :
Tiến
sĩ Vũ Hữu Lợi
53-
Kỷ Mão - Tự Đức 32 (1879) :
Hoàng
giáp Đỗ Huy Liêu
54-
Canh Thìn - Tự Đức 33 (1880) :
Tiến
sĩ Khiếu Năng Tĩnh
55-
Giáp Thân - Kiến Phúc 1 (1884):
Phó
bảng Nguyễn Âu Chuyên
56-
Kỷ Sửu - Thành Thái 1 (1889) :
Tiến
sĩ Đặng Hữu Dương
Tiến
sĩ Nguyễn Ngọc Liên
57-
Nhâm Thìn - Thành Thái 4 (1892) :
Phó
bảng Vũ Thiện Đễ
58-
Tân Sửu - Thành Thái 13 (1901) :
Tiến
sĩ Nguyễn Văn Tính
Phó
bảng Đỗ Dương Thanh
Phó
bảng Phạm Ngọc Thuỵ
59-
Đinh Mùi - Thành Thái 19 (1907) :
Phó
bảng Đỗ Văn Toại
Phó
bảng Nguyễn Văn Thành
Phó
bảng Phan Thiện Niệm
60-
Bính Thìn - Khải Định 1 (1916) :
Phó
bảng Lâm Hữu Lập
61-
Kỷ Mùi - Khải Định 4 (1919) :
Tiến
sĩ Trịnh Hữu Thăng
- Tổng số người đỗ chưa
xác định: 33
Trong đó:
-
Thám hoa : 5
-
Hoàng giáp : 4
-
Tiến sĩ : 24
Triều đại :
-
Trần : 1
-
Lê : 29
-
Mạc : 1
-
Chưa rõ : 2
Thống kê các
nhà khoa bảng nam định theo địa danh
88
người có cứ liệu chính xác:
Huyện
Nam Trực 28 vị (3 Trạng nguyên, 1 Bảng nhãn, 1 Hoàng giáp, 21 Tiến sĩ, 2 Phó
Bảng).
Huyện
ý Yên 18 vị (2 Thám hoa, 5 Hoàng giáp, 7 Tiến sĩ, 4 Phó bảng).
Huyện
Vụ Bản 15 vị (Trạng nguyên, 1 Thám hoa, 1 Đệ nhất giáp chưa rõ đệ danh, 3 Hoàng
giáp, 6 Tiến sĩ, 3 Phó bảng).
Huyện
Xuân Trường 8 vị (4 Tiến sĩ, 4 Phó bảng).
Thành
phố Nam
Định 7 vị (1 Bảng nhãn, 2 Hoàng giáp, 3 Tiến sĩ, 1 Phó bảng).
Huyện
Nghĩa Hưng 5 vị (2 Hoàng giáp, 2 Tiến sĩ, 1 Phó bảng).
Huyện
Trực Ninh 4 vị (1 Trạng nguyên, 1 Hoàng giáp, 2 Tiến sĩ).
Huyện
Mỹ Lộc 1 vị (1 Phó bảng).
Huyện
Hải Hậu 1 vị (1 Tiến sĩ).
Chưa
rõ địa danh huyện 1 vị (1 Đệ nhất giáp Đệ tam danh).
33
người để tham khảo :
Huyện
ý Yên 16 vị (2 Thám hoa, 4 Hoàng giáp , 10 Tiến sĩ).
Huyện
Nam Trực 6 vị (6 Tiến sĩ).
Huyện
Vụ Bản 5 vị (2 Thám hoa, 1 Hoàng giáp, 2 Tiến sĩ).
Huyện
Mỹ Lộc 2 vị (1 Thám hoa, 1 Tiến sĩ).
Huyện
Hải Hậu 1 vị (1 Tiến sĩ).
Huyện
Nghĩa Hưng 1 vị (1 Tiến sĩ).
Huyện
Trực Ninh 1 vị (1 Hoàng giáp).
Thành
phố Nam
Đinh 1 vị (1 Tiến sĩ).
... CÒN TIẾP ...
Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ Có Thực là
Bốn Cung của Nhà Trần?
DƯƠNG
VĂN VƯỢNG - TRẦN MỸ GIỐNG
Từ
mấy chục năm nay, theo ngành bảo tàng di tích Nam Định thì khu chùa Đệ Nhất, Đệ
Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ là bốn cung của nhà Trần nằm trong quần thể hành cung Tức
Mạc thuộc thành phố Nam Định, tỉnh Nam Định, được xây dựng vào giữa thế kỷ 13.
Trong
“Lý lịch di tích lịch sử – khảo cổ học chùa Đệ Tứ xã Lộc Hạ ngoại thành Nam
Định” của Sở Văn hoá và Thông tin Hà Nam Ninh do Hồ Đức Thọ lập, Phó Giám đốc
Sở Văn hoá Thông tin Hà Nam Ninh Đỗ Trọng Tân ký ngày 10 tháng 7 năm 1989 có
viết: “Sách Đại Nam nhất thống chí, phần nói về tỉnh Nam Định có ghi: “... Chùa
quán Đại thánh ở xã Đệ Tứ, huyện Mỹ Lộc, là hành cung thứ tư (Đệ tứ hành cung)
do nhà Trần xây dựng. Sau dân sở tại dùng chữ Đệ Tứ làm tên xã, lại dựng chùa ở
đây”.
Tác
giả Hồ Đức Thọ, người lập hồ sơ này còn suy đoán cho rằng chùa Đệ Tứ thờ thánh
Trần Nhật Duật.
Lâu
nay chúng tôi cứ băn khoăn rằng đã là hành cung thì phải còn phế tích. Vậy tại
sao hành cung Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam lại không tìm thấy phế tích. Riêng có Đệ
Tứ thì còn phế tích, nhưng liệu phế tích đó có thực là hành cung hay chỉ là nới
ở của một vị quan nào đó thời Trần?
Vừa qua, nhân tìm thấy và
dịch một số di cảo thơ của người xưa, trong đó có ba bài thơ có nội dung liên
quan đến Đệ Tứ, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Nhất buộc chúng tôi không thể không đặt ra
vấn đề xem lại có đúng đây là bốn cung của nhà Trần không? Chúng tôi không dám
có kết luận gì, mà chỉ nêu vấn đề mong được các nhà nghiên cứu quan tâm xem
xét.
Bài
thơ thứ nhất của Vũ Duy Thiện như sau:
到第四闍
相傳自古有軍營
天屬爲名半萬兵
四隊時常留不改
平分水陸幾畨靈
生防莫敢離屯住
死戰誰收置石銘
瓦礫人言陳代事
孤魂並立望無更
相傳自古有軍營
天屬爲名半萬兵
四隊時常留不改
平分水陸幾畨靈
生防莫敢離屯住
死戰誰收置石銘
瓦礫人言陳代事
孤魂並立望無更
Phiên âm:
Đáo Đệ Tứ đô (1)
Tương truyền tự cổ hữu quân doanh
Thiên Thuộc vi danh bán vạn binh (2)
Tứ đội thời thường lưu bất cải
Bình phân thuỷ lục kỷ phiên linh
Sinh phòng mạc cảm ly đồn trú
Tử chiến thuỳ thu trí thạch minh
Ngoã lịch nhân ngôn Trần đại sự
Cô hồn tịnh lập vọng vô canh.
Tương truyền tự cổ hữu quân doanh
Thiên Thuộc vi danh bán vạn binh (2)
Tứ đội thời thường lưu bất cải
Bình phân thuỷ lục kỷ phiên linh
Sinh phòng mạc cảm ly đồn trú
Tử chiến thuỳ thu trí thạch minh
Ngoã lịch nhân ngôn Trần đại sự
Cô hồn tịnh lập vọng vô canh.
Dịch nghĩa:
Đến Đệ Tứ Đô
Tương truyền nơi đây thuở trước có quân doanh, với tên Thiên Thuộc ước nửa vạn người.
Đội 4 thời thường trú ngụ không biến cải, chia làm thuỷ lục từng bao lần lập công hiển hách.
Khi sống dám nói rằng dời bỏ nơi đồn trú, qua cuộc chiến tranh chết đi ai vì thu nhặt xác tàn.
Phế tích gạch ngói đây phương dân nói là việc cũ thời Trần, các nơi đền miếu dựng thờ cô hồn mong rằng chớ hề thay đổi.
Tương truyền nơi đây thuở trước có quân doanh, với tên Thiên Thuộc ước nửa vạn người.
Đội 4 thời thường trú ngụ không biến cải, chia làm thuỷ lục từng bao lần lập công hiển hách.
Khi sống dám nói rằng dời bỏ nơi đồn trú, qua cuộc chiến tranh chết đi ai vì thu nhặt xác tàn.
Phế tích gạch ngói đây phương dân nói là việc cũ thời Trần, các nơi đền miếu dựng thờ cô hồn mong rằng chớ hề thay đổi.
Dịch thơ:
Tương truyền thuở trước có
quân doanh
Thiên Thuộc là tên nửa vạn binh
Đội bốn thời thường luôn trấn giữ
Chia đôi thuỷ lục cậy yên lành
Người còn nào dám quên phòng thủ
Xương vãi ai thu việc chiến tranh
Phế tích thời Trần dân vẫn nói
Cô hồn các miếu nhớ đinh ninh.
Thiên Thuộc là tên nửa vạn binh
Đội bốn thời thường luôn trấn giữ
Chia đôi thuỷ lục cậy yên lành
Người còn nào dám quên phòng thủ
Xương vãi ai thu việc chiến tranh
Phế tích thời Trần dân vẫn nói
Cô hồn các miếu nhớ đinh ninh.
Chú thích:
(1) Đệ Tứ đô: Cửa Đệ Tứ – tên cũ chùa Đệ Tứ hiện nay. Chữ “đô” còn nghĩa là cái lầu canh xây ở trên thành.
(2) Nguyên chú của tác giả (Vũ DuyThiện): “Bốn đạo quân Thiên Thuộc có ước 5.000, Đệ Tứ thường có 2.000 thì 1.000 là thuỷ chiến. Vào thời chống Nguyên, rồi đến chống Minh vẫn còn được biên chế đầy đủ, nhưng thường lúc đã tận diệt. Nay là bốn ngôi chùa ở Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ”.
(1) Đệ Tứ đô: Cửa Đệ Tứ – tên cũ chùa Đệ Tứ hiện nay. Chữ “đô” còn nghĩa là cái lầu canh xây ở trên thành.
(2) Nguyên chú của tác giả (Vũ DuyThiện): “Bốn đạo quân Thiên Thuộc có ước 5.000, Đệ Tứ thường có 2.000 thì 1.000 là thuỷ chiến. Vào thời chống Nguyên, rồi đến chống Minh vẫn còn được biên chế đầy đủ, nhưng thường lúc đã tận diệt. Nay là bốn ngôi chùa ở Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ”.
Bài thứ hai của Vũ Triệt Vũ:
過孤魂寺
萬里風塵不顧身
孤魂四邑感君恩
佋來未必真名字
付在方官歲两分
萬里風塵不顧身
孤魂四邑感君恩
佋來未必真名字
付在方官歲两分
Phiên âm:
Quá cô hồn tự
Vạn lý phong trần bất cố thân
Cô Hồn tứ ấp cảm quân ân
Chiêu lai vị tất chân danh tự
Phó tại phương quan tuế lưỡng phân.
Vạn lý phong trần bất cố thân
Cô Hồn tứ ấp cảm quân ân
Chiêu lai vị tất chân danh tự
Phó tại phương quan tuế lưỡng phân.
Dịch nghĩa:
Tới chùa cô hồn
Muôn dặm xông pha gió bụi, đâu dám coi mình là trọng.
Dựng bốn ngôi chùa ở bốn ấp đều gọi là Cô Hồn.
Thuở ấy chiêu về biết có đúng được họ tên,
Giao cho quan sở tại thường năm hai lần lễ bái vào tiết xuân phân, thu phân.
Muôn dặm xông pha gió bụi, đâu dám coi mình là trọng.
Dựng bốn ngôi chùa ở bốn ấp đều gọi là Cô Hồn.
Thuở ấy chiêu về biết có đúng được họ tên,
Giao cho quan sở tại thường năm hai lần lễ bái vào tiết xuân phân, thu phân.
Dịch thơ:
Liều mình muôn dặm phong trần
Ơn vua chùa cúng cô hồn tứ lân
Chiêu về có thực họ tên
Phó cho bản hạt nhị phân tế cầu.
Ơn vua chùa cúng cô hồn tứ lân
Chiêu về có thực họ tên
Phó cho bản hạt nhị phân tế cầu.
Bài thứ ba của Trần Kỳ như
sau:
大聖觀寺
譜存光啟祀三清
立觀閒時見有寕
天屬幾畨臨難死
地餘長壘聚民生
當間輝净來修處
又得棃公次室情
老少飽温傳故事
春秋思德拜遺形
譜存光啟祀三清
立觀閒時見有寕
天屬幾畨臨難死
地餘長壘聚民生
當間輝净來修處
又得棃公次室情
老少飽温傳故事
春秋思德拜遺形
Phiên âm:
Đại Thánh quán tự
Phả tồn Quang Khải tự Tam Thanh
Lập quán nhàn thời kiến hữu ninh
Thiên Thuộc kỷ phiên lâm nạn tử
Địa dư trường luỹ tụ dân sinh
Đương gian Huy Tịnh lai tu xứ
Hựu đắc Lê công thứ thất tình
Lão thiếu bão ôn truyền cố sự
Xuân thu tư đức bái di hình.
Phả tồn Quang Khải tự Tam Thanh
Lập quán nhàn thời kiến hữu ninh
Thiên Thuộc kỷ phiên lâm nạn tử
Địa dư trường luỹ tụ dân sinh
Đương gian Huy Tịnh lai tu xứ
Hựu đắc Lê công thứ thất tình
Lão thiếu bão ôn truyền cố sự
Xuân thu tư đức bái di hình.
Dịch nghĩa:
Chùa Đại Thánh quán(1)
Tự phả ghi rằng ông Quang Khải sùng thượng Tam thanh, nên dựng quán để khi nhàn cầu đảo thấy được sự yên lành.
Tại đây quân Thiên Thuộc từng nhiều phen tử nạn. Luỹ đất hằn lên kéo dài kia là chỗ nhà dân cư trú.
Thời ấy có cung phi Huy Tịnh tới tu tỉnh nghỉ ngơi. Rồi lại được Lê Tần vì tình của thứ thất mà góp công.
Già trẻ ngày nay đội ơn được sự ấm no, mỗi khi tới tiết xuân thu đều tụ lại lễ lạy tại trước tượng thờ.
Tự phả ghi rằng ông Quang Khải sùng thượng Tam thanh, nên dựng quán để khi nhàn cầu đảo thấy được sự yên lành.
Tại đây quân Thiên Thuộc từng nhiều phen tử nạn. Luỹ đất hằn lên kéo dài kia là chỗ nhà dân cư trú.
Thời ấy có cung phi Huy Tịnh tới tu tỉnh nghỉ ngơi. Rồi lại được Lê Tần vì tình của thứ thất mà góp công.
Già trẻ ngày nay đội ơn được sự ấm no, mỗi khi tới tiết xuân thu đều tụ lại lễ lạy tại trước tượng thờ.
Chú thích:
(1) Chùa thuộc thôn Đệ Tứ, phường Lộc Hạ, thành phố Nam Định hiện nay, thờ Trần Quang Khải và thờ Phật.
Nguyên chú của tác giả (Trần Kỳ): Ông Chiêu Minh Đại vương này rất thông về đạo thần tiên, con cháu ông kế chí có nhiều tác phẩm như: Bất tín vu thuyết, Nam nhân Nam thần, Cần công khổ học... Ban đầu ông Quang Khải ở đặt là Tĩnh Tâm quán, đời Lê đổi là Đại Thánh quán, sau Lê Trịnh mới thờ Phật mà thêm chữ tự (chùa) vào sau chữ quán.
(1) Chùa thuộc thôn Đệ Tứ, phường Lộc Hạ, thành phố Nam Định hiện nay, thờ Trần Quang Khải và thờ Phật.
Nguyên chú của tác giả (Trần Kỳ): Ông Chiêu Minh Đại vương này rất thông về đạo thần tiên, con cháu ông kế chí có nhiều tác phẩm như: Bất tín vu thuyết, Nam nhân Nam thần, Cần công khổ học... Ban đầu ông Quang Khải ở đặt là Tĩnh Tâm quán, đời Lê đổi là Đại Thánh quán, sau Lê Trịnh mới thờ Phật mà thêm chữ tự (chùa) vào sau chữ quán.
Dịch thơ:
Phả rằng Quang Khải phụng Tam
Thanh
Dựng quán khi nhàn tỏ tấm thành
Thiên Thuộc bao phen vì nước chết
Luỹ dài còn đó xóm dân sinh
Đương thời Huy Tịnh về tu tỉnh
Vợ thứ Lê công góp chút tình
Già trẻ ấm no ôn chuyện cũ
Xuân thu nhớ đức vọng thần linh.
Dựng quán khi nhàn tỏ tấm thành
Thiên Thuộc bao phen vì nước chết
Luỹ dài còn đó xóm dân sinh
Đương thời Huy Tịnh về tu tỉnh
Vợ thứ Lê công góp chút tình
Già trẻ ấm no ôn chuyện cũ
Xuân thu nhớ đức vọng thần linh.
Theo
như nội dung ba bài thơ trên thì Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ trước đây vốn
là nơi đóng quân của bốn đội trong đội quân của nhà nước có tên là Thiên Thuộc.
Đội quân này tồn tại từ thời Trần, lập công hiển hách trong chống Nguyên, qua
chống Minh. Về sau nhân dân lập miếu Cô Hồn thờ những cô hồn tử sĩ ở cả bốn ấp.
Hiện ở Đệ Tứ vẫn còn tấm bia nói về đội quân Thiên Thuộc được dựng từ thời Mạc.
“Lý lịch di tích lịch sử – khảo cổ học chùa Đệ Tứ xã Lộc Hạ ngoại thành Nam
Định” cũng nhắc đến một tấm bia nói về đội quân Thiên Thuộc, nhưng không cho
biết nội dung cụ thể tấm bia đó. Đặc biệt bài Đại Thánh quán tự của Trần Kỳ có
nguyên chú rất rõ ràng rằng chùa Đệ Tứ thờ Trần Quang Khải, chùa vốn do Trần
Quang Khải lập ra gọi là Tĩnh Tâm quán, đến thời Lê mới đổi là Đại Thánh quán,
thời sau Lê Trịnh mới thờ Phật nên thêm chữ tự sau chữ quán thành Đại Thánh
quán tự.
Căn
cứ xác định Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ là bốn cung của nhà Trần là Đại Nam
nhất thống chí, tác phẩm ra đời trong thời Nguyễn. Còn ba bài thơ trên ra đời
vào thời Lê:
-
Tác giả Vũ Duy Thiện là người xã An Cự, huyện Thiên Bản (nay thuộc xã Đại An,
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định), đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp)
khoa Mậu Tuất niên hiệu Hồng Đức 9(1478) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến Hiến
sát sứ, Nhập thị kinh diên. Ông có tác phẩm Cố kinh lược khảo và Hùng Vương ký
sự.
-
Tác giả Vũ Triệt Vũ (1460 - ?) quê xã Đào Lạng, huyện Đại An (nay thuộc xã
Nghĩa Thái, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định), đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân
(Hoàng giáp) khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18(1487) đời Lê Thánh Tông, làm
quan Hình bộ Tả thị lang.
-
Tác giả Trần Kỳ là người xã An Thái, huyện Thiên bản (nay thuộc xã Kim Thái,
huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định), đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp)
khoa Đinh Mùi niên hiệu Hồng Đức 18(1487) đời Lê Thánh Tông, làm quan đến Hàn
lâm viện, Đông Các hiệu thư. Ông có tác phẩm Từ hiếu gia thư. Bài Đại Thánh quán
tự của ông được lấy trong Quốc sử tất đọc.
Từ
ba bài thơ trên đặt ra một nghi vấn lịch sử là Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, Đệ Tứ
có đúng là bốn hành cung của nhà Trần không, hay chỉ là bốn đồn trú quân doanh
của đội quân Thiên Thuộc? Chúng tôi không có ý định viết bài này với tính chất
phản biện, mà chỉ đơn giản là mong được các nhà nghiên cứu cao minh quan tâm
tìm hiểu cho ý kiến để cùng nhìn nhận vấn đề một cách chân thực như nó vốn có.
(Còn tiếp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét