Thứ Hai, 27 tháng 8, 2018

TRANG ĐỒNG NGỌC HOA TRÊN VIỆT VĂN MỚI (Kỳ 3)






VÀI SỰ TÍCH XƯA

          Tích Cây Huyết Dụ

          Chuyện rằng,có một ông làm nghề hàng giát nhà ở ngay bên cạnh chùa. Sáng nào cũng vậy, khoảng đầu giờ Dần cứ thấy thầy chùa dậy gõ mõ tung kinh thì ông cũng dậy giết lợn là vừa. Tối hôm ấy,thầy chùa sang nhà ông hàng giát chơi uống nước, cái thứ chè móc câu làm thầy chùa mất ngủ. Vừa chợp mắt được một lúc thì thầy làm mộng thấy một phụ nữ cứ năn nỉ “ Thầy ơi Thầy cứu mẹ con con với”. Rồi thầy chùa cũng ngủ thiếp đi , lúc tỉnh dậy thi trời đã sáng rõ.

          Ông hàng giát nhà bên cạnh ngủ không nghe thấy tiếng chuông mõ của nhà chùa cũng ngủ luôn . Khi dậy vội vàng xuống chuồng lợn thì con lợn mới bắt về chiều qua để giết thì đã đẻ 5 con và vẫn còn đang tiếp tục đẻ. giá như Thầy chùa không có giấc mộng, không ngủ quên thì chắc chắn mẹ con nhà lợn đ• chết. Ngày hôm ấy ông hàng giát ra vào không yên , không hiểu ông suy nghĩ điều gì? Chiều hôm ấy ông cũng đi băts lợn như mọi ngày. Sáng hôm sau khi nghe thấy tiếng chuông , tiếng mõ ông cũng dậy giết lợn. Chọc tiết lợn xong, ông mang cả con dao và chậu tiết sang chùa đứng trước cửa Tam Bảo mà thề rằng:
          Từ nay ông bỏ nghề giết lợn, rồi ông mang chậu tiết đổ ra vườn chùa và cắm con dao xuống đó..Tại nơi mà ông hàng giát đổ chậu tiết cắm con dao mọc lên một cây có lá hình con dao màu đỏ tím như tiết lợn, người ta gọi là cây Huyết Dụ.

          Cây Đa và Cây Mít.
          Nay là tư mai đã là rằm
          Ai muốn ăn oản thì năng lên chùa.
          Ngày mồng một đầu tháng và ngày trăng tròn các cụ thường lên chùa lễ Phật (Đức Phật Thích ca sinh ra nhằm ngày trăng tròn) . Bà Đa và bà Mít ở gần nhà nhau, cú mỗi lần bà Đa lên chùa thì bà mít gửi tiên lễ Phật. Bà Đa không hiểu câu : “ Tiền mất Phật biết”nên bớt cả tiền của bà Mít để ghi vào chân mình cho nhiều hơn.
          Khi hai bà qua đời thì ở mộ của Bà Đa mọc lên một loại cây mà người ta gọi là cây Đa. Đây là một loại cây lá rụng quanh năm,nêú trồng chỉ cạnh chùa thôi thì v•i đ• phải quét la suốt ngày, cây to gỗ không sử dung được cho việc bền lâu, quả thì bé tí chưa chín kiến đ• đục khoét từ trong ruột đục ra . Còn ở mộ bà Mít thì mọc lên thứ cây mà người ta gọi là cây Mít. Thứ cây này có quả to, múi nhiều chín lại rất thơm ăn ngon ngọt và bổ. Cây mít được trồng ở trong chùa, quả chín dùng lễ Phật , Lá mít dùng để in oản, gỗ mít rất tôt không cong vênh mối mọt người ta dùng để tạc tượng Phật và đóng đồ thờ. không những cây mít được trồng ở vườn chùa mà nhà nhà đèu trồng mít. Nhà ngói cây mí xưa kia là câu nói chỉ giới phong lưu.

Cây Phướn Trong Chùa.

          Xưa có hai cụ bà đi quyên góp đân làng thập phương về để sửa chùa thờ Phật. Một hôm vào nhà bà cụ ở xóm xa mong được gia đình phát tâm công đực. bà cụ chủ nhà tiến cung xong khuyên hai bà đi nơi khác vì gia đình có đứa con trai bất trị hễ ai đến nhà không vừa ý là nó giết ngay. Mưa sâm tối trời hai bà cụ cứ nằng nặc xin ở lại, biết không sao đươc bà chủ dấu hai người vào trong buồng, Đêm về người con trai ngửi thẩy có hơi người lạ tra khảo mẹ, buộc hai bà cụ phải ra trình diện. Hai bà cụ kể sự tình công việc xin toàn dân tiến cúng sửa chùa ai có sao nên vậy, một đồng cũng quý, một nén cũng thơm, cốt là ở tấm lòng. Nghe câu cốt là ở tấm lòng, anh con trai lấy dao rạch ngay bụng mình lôi ra một thúng ruột để tiến cúng bắt hai bà đội về chùa.
          Hai bà đội thúng ruột đi đường đàn quạ đánh hơi danh nhau sà xuống công lên ngọn cây đa. ruột người tiến cúng vắt vẻo dài thườn thượt như cây phướn ở chùa mà người ta đ• cho làm để ghi nhớ tấm lòng của người cúng Phật.

          Nhà Chùa Không Được Giết Chó

          Hôm ấy Thầy chùa đi cúng cho dân ,ở nhà không may bị hỏa hoạn cháy chùa. Thầy chùa buồn lắm vì không những mất chùa mà còn cháy cả cuốn kinh mà thầy đ• dụng công chép tay từ nhiều năm nay, thầy chùa còn đang đứng nhìn đống tro nóng thì bỗng nhiên con chó chạy lại cắn vát áo chùng của thầy cứ thế lôi đi như muốn mách điều gì. Ra đên gốc cây Dâm Bụt thì con chó bới bới cho Thầy thấy quyển Kinh. Thì ra khi chùa cháy, sư đi vắng, con chó đ• chạy được quyển kinh dấu ra đấy.
Từ đó thầy chùa ra lệnh : Nhà chùa không được giết chó là vậy.




Người Đào Hầm Bí Mật

          Hồi mười chín hgai mươi tuổi ông Trần Lãm là một thanh niên cần cù, lanh lợi , kín đáo và chín chắn. Ông được người cậu là chính trị viên xã đội giao cho việc đào hầm bí mật. To bé mặc kệ, cứ đào trong một đêm là phải xong môt cái. Và ông đã đào xong được một loạt hầm ở dọc bờ sông, dưới chuồng lợn, cạnh bụi tre, gốc chuối, cả dưới bàn thờ…Nhưng rồi một người của ta không chịu nổi tra tấn của địch đã chỉ cái hầm chứa tài liệu cho địch. Thế là tài liệu, danh sách cán bộ rơi vào tay chúng. Người anh ruột của ông , nhà có chiếc hầm này bị địch bắt giam ở bốt Quỹ Trung . Tên phản bội dẫn giặc đi từng nhà để chỉ hầm. Cơ sở của ta ở Lạc Chính gần như tan vỡ hết. Đồng chí Uyển bị giặc tìm thấy ở hầm nhà ông Muỗm, anh đã cuốn cờ vào người vùng dậy nói : Việt minh đây. Chúng đã đánh anh chết đi sống lại, rồi vắt qua ngưỡng cửa, thân anh mềm nhũn như dưa. Đêm ấy người cậu ông là Hà Đình Diệm vừa ngồi ở hầm ở nhà cụ Thiểm, bị giặc xâm đi xâm lại, thằng chỉ điểm cứ luôn mồm:
          - Con cam đoan với các quan là nhà này có hầm. Vợ chồng cụ Thiểm bị tra khảo tàn nhẫn nhưng vẫn một mực nói: Không có! Giặc lật cả ván chuồng trâu lên xăm nhưng chúng cũng không phát hiện được hầm. Diêm thoát được trở về gọi ông đi. Hai cậu cháu đã lên cái rãnh giáp hậu cung và trung đường của chùa để nằm cho qua đêm nhưng thấy không ổn lại đi tiếp sang làng bên. Hai cậu cháu vào nhà chi Tuấn là người họ hàng có chồng đi bộ đội, yên trí ngủ luôn sau mấy đêm đaò hầm mệt mỏi.
          Khoảng ba giờ đêm, tiếng lùng sục, tiếng giầy đinh, tiếng hò hét, quát tháo, tiếng lên khóa lòng của kim khí va vào nhau đã làm ông thức dậy. Trong khi người chính trị viên xã đội vẫn chưa hề biết, ông đánh thức Diệm dậy, đôi mắt Diệm đỏ hoe không hiểu vì ngaí ngủ hay tức giận. Diệm đi đi lại lại nhìn chằm chằm vào đống tài liệu rồi hất hàm bảo ông: “Đốt”. Ông bật lửa đốt ngay gói tài liệu. Khói lửa bùng lên mù mịt làm cho địch cũng phải giãn vòng vây, hò hét tán loạn. Rồi Diệm và ông ôm nhau đứng giữa nhà, ông đã nhìn thấy cậu mình lấy răng cắn nắp rút chốt lựu đạn, ngọn lửa xanh lè phụt ra. Diêm đẩy ông ngã ngửa còn Diêm xoay người nằm úp lên quả lựu đạn trong tiếng nổ đinh tai. Khói lửa khét mù sặc sụa, tro than của tài liệu bay tứ tung. Ông không hiểu mình chết chưa mà vẫn ngồi đậy được. Ông không sợ gì cứ ngồi ôm xác người vừa là đồng chí, đồng đội vừa là họ hàng thân thích của mình đã anh dũng hy sinh, rồi mặc cho địch hò la ở ngoài, bắn xối xả vào trong, ông leo lên xà nhà, bẻ gẫy rui mè, vạch mái rạ chui đàu ra định nhảy xuống phía sau thì một tên địch kêu thất thanh:
          - Ơ Việt Minh, Việt Minh nó đang chui lên mái nhà!
          Ông tụt xuống, bọn địch phá cửa xông vào bắt ông. Hai ba thằng kéo xác Diệm ra đầu cầu tài khoái. Vài ba thằng trói dong ông ra, bắt ông ngồi ngay bên đầu Diệm. Thằng chỉ huy rút súng ngắn bắn một phát chính giữa mũi người đồng chí của ông đã hy sinh nằm đấy. Chúng giải ông tới nhà thờ Liễu Đề. Tại đây chúng thi nhau đấm đá, ông mềm nhũn như dưa, chẳng còn cảm giác gì đau đớn.
          Sáng hôm sau ông được giải lên phòng hỏi cung. Thằng đội to béo mắt xếch ngược, deo khẩu côn bát trễ xuống đùi kèm theo một dao găm, một thanh kiếm dài, đầu kiếm lủng lẳng quét lê gần gót giầy, khệnh khạng bước vào. Tên lính đi sau đưa vào một chiếc chậu để giữa bàn, tên đội hằm hằm rút dao găm phi đâm phập xuống bàn, con dao găm dụng đứng cán rung rung ra chừng dọa dẫm “ tao sẽ cắt tiết mày ra cái chậu này.” Hắn rút soạt thanh gươm sáng quắc để ngang qua miệng chậu. Có nhẽ nó làm thật- ông nghĩ- ai ngờ nó lại nhẹ nhàng bảo ông ngồi lên ghế, trong lúc ông đang ngồi dưới đất dựa lưng vào tường. Ông cố đẩy cái thân thể đã rã rời lển ghế và cuộc hỏi cung bắt đầu. Ông như ù tai đi, nghe cũng chẳng rõ và cũng chẳng nói gì. Còn nói gì nữa, Việt Minh chính cống đây, đốt tài liệu, biết không thoát khỏi tay giặc đã tự sát một, còn một ngồi đây. Không moi được tin tức gì ở người đào hầm, nó lại tống ông vào nhà giam, Cùm.
          Vào chín giờ tối hôm ấy, một thằng mở cửa vào đọc tên ông và tên một người nữa là Trinh bảo chuyển phòng giam. Năm sáu thằng nữa sấn vào trói ông và Trinh. Ông nghĩ khéo nó giải mình đi bắn. Tuy vậy ông vẫn bình tĩnh bảo thằng đeo súng lục:
          - Cho tôi xin điếu thuốc.
          Thằng khác bảo:
          - Sắp chết rồi còn thuốc với men.
          Thì ra suy nghĩ của ông là thật. Thằng chỉ huy rút thuốc ra nói : “ Cho nó một điếu.” Hai tay ông bị trói, khuỷu tay giặt về đằng sau, vừa đi vừa cố gắng lắm mới đưa được mẩu thuốc lên mồm.
          Trinh đi trước , Ông đi sau rồi đến năm sáu thằng lính súng ống đi theo nhằm thẳng cửa nhà thờ Liễu Đề ra bờ sông. Cứ một quãng Trinh lại lùi lại, hỏi han, lý sự với bọn chúng. Lúc đến gần lò vôi bờ sông, ông lộn lên đi đầu. May mà nó không trói hai người, lại với nhau. Đêm tối lờ mờ, ông đã nhìn thấy mặt nước của bờ sông bên kia. Ông vụt chạy được bốn năm bước dài thì bọn giặc hô: Đứng lại. Chúng chưa kịp nổ súng thì ông đã lao mình xuống dòng sông chảy xiết. Ông lặn một hơi dài xuống tận lòng sông rồi tuồn chéo sang bờ bên kia. Khi sờ được đám bèo bồng chui lên để thở thì ông thấy bờ bên kia súng vẫn còn nổ như vãi đạn xuống sông. Trinh chắc cũng không còn nữa. Cuộc xử tử vội vàng không một lời tuyên án. Men theo dòng nước chảy xuôi, chờ cho thật yên tĩnh, ông bò lên bờ dựa lưng vào thân đê thở lấy thở để rồi lấy hết sức cọ vào thân cây cho đứt dây thừng. Lúc này, đầu ông nóng bỏng những suy nghĩ: Nếu bây giờ chuồn thẳng sang vùng du kích thì an toàn nhưng còn 35 gánh tiền Cụ Hồ mà ông trực tiếp chôn cất thì sao đây? Ông không đành bỏ đi được. Ông tìm đường về với cơ sở của mình ở thôn Đông Hạ thì vào khoảng 3 giờ đêm. Thay quần áo xong, ông giả làm người vác cuốc đi lấy nước cho ruộng ải để tránh bọn lính dõng đi tuần. Vòng vèo đi qua mấy cánh đồng, ông về đến nhà vào lúc trời chưa sáng để kịp báo cho cán bộ của ta vị trí mà ông chôn 35 gánh tiền của chính phủ. Chưa kịp tháo lui thì bọn Baỏ Hoàng đã ập đến truy bắt. Ông chạy vào nhà ông Son. Với con mắt nghề nghiệp, nghề đào hầm bí mật, ông ghé tai bảo nhỏ hai vợ chồng chủ nhà, cả nhà tất bật lấy dụng cụ đánh phân ở chuồng lợn ra. Khi đống phân ở ngoài sân đã được chừng nửa khối thì tụi lính vào nhà. Chúng lùng xục trên nhà, dưới bếp, nhìn chuồng lợn ngổn ngang cào xọt, nó có biết đâu ông đang nằm im dưới nửa chuồng phân đang đánh dở chùm lên ở ngay phía cửa chuồng.
          Ông lại tiếp tục hoạt động cho cách mạng./.




Nước Cáy Quê Tôi

          Ông em tôi sống ở thành phố về quê lần nào về quê cũng xin mẹ vài chai nước cáy đi để ăn dần. Ông ấy nghiện nước cáy vì một nhẽ là nó ngon, không có những hóa chất độc hại như những loại nước mắm đã rộ lên một thời bị bài xích kể cả những loại được quảng cáo như Chin-su ngon tới giọt cuối cùng ông ấy cũng không màng.
          Tôi cũng đi nhiều nhưng chỉ có quê tôi là nhiều cáy. Ngày xưa chưa có công trình thủy nông đê cống ngăn nước tưới tiêu mặc lòng như bây giờ Thủy triều lên xuống theo con nước tự do, thuốc sâu, thuốc xia chưa có nên tôm lắm, cá nhiều, cáy cua cũng sẵn. Cũng thời ấy gặt lúa tháng mười xong, quê tôi góp mỗi người một cây tre và vài công lao động để đắp đập gạn nước làm ải. nhong rãnh được đào để tiêu nước trừ ruộng trũng ra sông. Nước chảy ào ào, chỉ cần chắn ngang một cái rổ một lúc là cáy vựa vào rổ, cứ thế ngồi lấy tay vốc từng vốc bỏ vào bồ. Nhà naò cũng làm như vâỵ, nhà nhà đi bắt cáy, bắt cua, nhất là thứ mầy mâỵ rang lên ăn ròn không khốc, bùi nghìn nghịt. Mầy mậy thì không làm được nước chấm vì nó nhiều trứng quá nước chóng đen. Còn cua người ta chỉ dùng nấu canh. Nếu có làm nước cua thì ướp con thường gọi là nước chấm xổi nghĩa là ăn ngay, vì nước cua để lâu cũng đen. Còn con cáy thì người ta làm nước chấm, càng để lâu càng ngon. Bắt được cáy về người ta ngâm cáy vào cái nải hoặc cái thgùng tùy theo số lượng rồi đổ nước, bỏ vào vài nắm muối. Cáy không chịu ngâm lâu được trong nước nhất lại là nước mặn cứ bò lên lại rơi xuống bò chồng cả lên nhau cựa quậy tự rửa sạch cho mình. Khi cáy đã nhược hoặc vừa chết thì đổ ra rổ thưa xóc đi xóc lại vào chậu nước cho sạch rồi cạy yếm bỏ mai. Vì yếm của nó có đường ruột ở giữa toàn đất, mai thì lắm gạch dã vào nước cáy sẽ mau đen. Người ta bỏ mình cáy vào cối đâm ( cối bằng đá) giã di giã lại cho nhuyễn Khi thịt cáy đã dẻo dính chặt vào chày, càng giã càng nặng tay thế là người ta đổ nước vào bóp cho kỹ trở thành thứ nước màu lâu sẫm rồi lọc đi lọc lại vài ba lần để bỏ bã lâý nước tinh. Đây là thứ nước do thịt cáy tạo thành. Cứ khoảng giỏ to cáy ( khoảng 3 kg) thì lọc lấy 10 bát nước. người ta lại cho vào đấy bát muối, bóp cho muối tan là đổ sang chum hoặc cong bịt kín phơi ngoài nắng khoảng dăm hôm sau mở nắp ra thấy nước cáy lên men phồng lên mặt hũ. Có nhà còn đổ vào bát cơm nóng hoặc lưng bát thính băng gạo rang gĩa nhỏ, có nhà bỏ vào đấy hẳn quả dứa thơm đã chín, có nhà còn bỏ vào hũ vài con cà cuống nướng. Thế là đậy nắp lại tiếp tục bỏ ngoài trời sáu tháng sau là ăn được. Có nhà còn để đến hàng năm mới mở nắp, nước cáy trong vắt, thơm phức nhúng đầu đũa vào nhỏ xuống mâm thì quyện, lại tròn xoe nếu không muốn nói đặc xoắn, nhấm nháp còn thấy mằn mặn ngòn ngọt, thơm thơm, tê tê mùi cà cuống.
          Cứ gần tết thường thì mẹ tôi bảo: “ Chịu khó mà làm, mà học, tết này mẹ thái cho mỗi đứa một đĩa lòng”. Gọi là đĩa lòng nhưng ngày xưa cứ xếp vào cái đĩa hoa muống may ra mỗi đĩa cũng được một lạng. Lòng sốt mà chấm thứ nước cáy trong thì ngon phải biết. Lúc chấm rau thì người ta thường quấy lên cho đục đều lúc này nước cáy có màu son thẫm. Dân gian có câu :
Rau muống nước rang,
Rau lang nước cáy.
Nước cáy múc ra lưng bát cho vừa chấm, đập dập củ tỏi đã bóc vỏ bỏ vào để chấm rau lang thì đúng là không có thứ nước chấm nào ngon hơn.
Còn một cách nữa, người ta làm nước cáy cả con. Nghĩa là con cáy cũng được xóc sạch, bỏ yếm, cũng khoảng ba cân cáy thì rắc vào bốn bát muối, cứ lượt cáy, lượt muổi rồi bịt kín chôn xuống đất có thể một vài năm mới lấy lên ăn. Nước cáy làm kiểu này trong vắt không có đục, ăn hết nước lấy bã nấu cám cho lợn, lợn thấy hơi cáy cũng ăn no béo tròn.
Bây giờ làm nước cáy người ta không giã bằng cối như ngaỳ xưa vì hầu như nhà nào cũng có cối xay sinh tố, người ta bỏ cáy vào cối xay nhanh và nhuyễn. Quy trình lọc cũng như kiểu gĩa cối đâm.
Cứ tháng ba ngày tám, lúc nông nhàn chị em phụ nữ quê tôi cả làng đi câu cáy, âu cũng là một nghề. Mỗi người hông đeo giỏ tay cầm cần dài khoảng hai ba mét buộc sợi chỉ vào đầu cần dài khoảng tám cm đến một mét đầu sợi chỉ buộc con sâu khoai đã ken ruột hoặc miếng thịt cóc hoặc thịt lợn, thế là có cần câu đi khắp bờ đê, bờ ruộng, bờ đường, chỗ nào cũng thấy chị em câu cáy. Mỗi ngày câu được vài giỏ, con buôn vào từng nhà cất cáy đưa đi khắp nơi bán. Người ta mua cáy không chỉ để làm nước cáy mà còn để nấu canh rau đay, mùng tơi, rau ngót rất ngon ngọt và mát. Vào mùa nước lớn, cáy vựa vào bờ đê, tối đến người ta còn dùng đén chiếu, đèn pin để soi bắt mỗi người cũng được hàng giỏ. Có nơi đâu nhiều cáy như quê tôi. Quanh năm lúc nào cũng bắt được cáy nên nước cáy quê tôi không thiếu. Đọc được bài naỳ bạn nào muốn ăn nước cáy xin mời về quê tôi Trực Ninh, Nam Định.




CHIẾU CÓI NGHĨA TRUNG

          Cả cuộc đời người, không ai là không nằm trên giường có trải chiếc chiếu cói. Đến khi về già, nằm trên giường bệnh cũng còn nhắc nhở con cháu mua cho đôi chiếu mới để chiếc trải, chiếc gối đầu lúc chết. Ở quê tôi lúc đô tùy vào phá quan khiêng người chết đi thì người con gái cả còn cầm chiếc chiếu cói của bố (hay mẹ nằm) đi theo để trải lên mộ khi còn vài lượt đất cuối cùng đắp mộ.
          Chiếc chiếu cói gắn bố cả cuộc đời người với hầu hết dân tộc Việt Nam ta. Nơi sản xuất ra chiếc chiếu cói trải giường cung cấp cho hàng triệu gia đình ở vùng này là làng dệt chiếu Liêu Hải xã Nghĩa Trung, Nghĩa Trung, Nam Định. Làm được một lá chiếu cũng phải trải qua bao gian nan vất vả. Trước hết người lao động cũng phải bán mặt cho đất, bán lương cho trời, lặn ngòi ngoi nước nơi bãi biển để trồng ra cây cói. Mà có được lá chiếu tốt phải là cói nước mặn. Trồng được cây cói nước mặn nghĩa là ruộng cói phải bên ngoài đê bao nước biển. Trong đê cũng trồng được cói nhưng là cói nước ngọt. Cói nước ngọt cũng cao, cũng tốt nhưng giòn làm chiếu dễ gẫy. Chiếu cói nước mặn có thể cuộn lại bé như ống luồng rồi gập đôi cột vào ba lô của những người lính mỗi khi hành quân mà không gẫy. Sáu tháng từ khi trồng là thu hoạch được, người thu hoạch cầm liềm chuyên dụng, đã xuống ruộng cói là cói ngập lút đầu chẳng ai trông thấy ai. Cắt đến đâu người ta buộc thành gù, được nhiều ít khi nước triều dâng lên khoảng đầu gối là phải nhanh chóng kéo cói về đê. Từng bè, từng bè cói được xếp lên đê để chờ đến công đoạn thứ hai là chẻ cói. Trước khi chẻ, người ta phải phân cói ra làm nhiều loại dài ngắn khác nhau từ 1,7 m đến 1,5 m một loại; 1,5m đến 1m một loại; dưới một mét lại một loại nữa. Chẻ cói bây giờ vẫn bằng thủ công, gọi là máy nhưng nó cũng đơn giản có hai quả lô đường kính khoảng 15 phân, quả trên, quả dưới có gá lắp con dao thật sắc. Người cầm nắm cói xòe gốc ra đâm thẳng vào khe giữa hai quả lô được lưỡi dao chẻ đôi ra, quả lô đẩy gốc cói sang bên kia, một người cầm gốc cói kéo thật mạnh, quả lô quay xòe xòe định hướng cho mỗi cây cói được chẻ đôi từ gốc đến ngọn đều đặn. Chẻ đến đâu phơi đến đấy, động tác phơi mới khéo làm sao. Nếu như ai lấy đến tham quan, bảo cho tôi phơi thử một tay thì không thể nào nổi. Nhưng dân làm cói thì ai cũng thạo. Người ta cầm lấy giữa nắm cói vừa chẻ to khoảng hai tay chít lấy nhau vung lên xòe một cái thế là lượm cói được trải đều gốc bằng thẳng với gốc ,ngọn bằng thẳng với ngọn ,các sợi đều song song với nhau.Người ta phơi khoảng bốn ,năm nắng như vậy mới đóng gù,mỗi gù cói nặng khoảng bốn ,năm mươi cân để chuyển về kho chờ bán cho người làm chiếu.Người làm chiếu còn phỉ có một nguyên liệu nữa đó là đay vê. Đây cũng là thứ vật liệu làm chiếu bền rẻ nhất. Thời kỳ Nhật đóng chiếm nước ta ở vùng này, chúng đã bắt dân phá lúa, trồng đay, góp phần gây ra nạn dói năm 1945 chết hàng 2 triệu người ở Nam Định, Thái Bình là vậy. Cây đay cũng gieo trồng khoảng 6 tháng mới thu hoạch. Người ta bóc đay, lấy vỏ cạo sạch, rồi đem phơi khô cho kỹ. Khô đến mấy vỏ đay cũng như cây cói nước mặn không dòn, không gãy. Cây đay cũng giải quyết công ăn, việc làm cho người dân lúc nhàn. Người ta mua vỏ đay về, vợ chồng, con cái, ông già, bà cả cũng ngồi chẻ được. Vừa chẻ, vừa xem ti vi cũng được, có khách đến chơi thấy chủ nhà đang chẻ đay cũng cầm một vỏ lên tay vừa chẻ, vừa chuyện trò vui vẻ. Người ta che nhỏ vừa bằng sợ cước câu cá, càng nhỏ và giữ sợ chẻ được càng dài thì đến khâu vê càng nhanh. Trước kia người ta vê đay bằng tay, kéo mắc sợ đã vê lên sàn nhà, kéo soàn soạt khoanh tròn xuống cái nải miệng tròn hình trụ, cứ đầy nải là được một cân. Người chăm chỉ ít đứng lên, ngồi xuống thì mỗi ngày vê được một cân, lãi được mươi ngàn đồng. Nhà vài ba người vê số tiền kiếm được cũng đã là xóa đói.Ngày nay gọi là cải tiến kỹ thuật, người ta đã đóng được máy xe đay tựa như máy quay tơ, tuy có nhanh nhưng cũng tùy tay vê, tay quay có kịp cho máy đánh săn hay không. Vậy người ta mới bảo con người là quyết định hết thảy trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa là vậy.
          Mua được cói chẻ, tay vê về, người làm chiếu lại phải chọn một lần nữa. Cói được phân loại kỹ hơn nào là 1,7m; 1,5m; 1,4m; 1,3m; 1,2m; 1,1m; chín; tám mươi phân để dệt các loại chiếu khác nhau theo chiều đà của cói. Thường thì người ta dệt nhiều cho 2 loại  1,5m và tám mươi phân cho giường đôi và giường cá nhân. Chiếu bán cho dân thành thị thì họ lại chuộng loại 1,3m để trải giường đôi. Ở phố người ta không đóng giường 1,5m vì kê chật nhà, chỉ 1,3m là chuộng, vì 2 vợ chồng nằm chiều ngang là vừa, có giận nhau quay vào, quay ra cũng chạm nhau, cũng phải làm lành với nhau vì chiếc chiếu cói 1,3m. Kích thước là vậy nhưng khi mắc sợi đay vê làm sợi đan lóng dọc cách nhau một phân trên dàn, sợ nào cũng được qua lỗ go ( sợi trên, sợi dưới) dài đến khi dệt được 2,3 lá liền tùy theo mặt bằng từng nhà một. Những sợ cói trắng và dài nhất được lựa để dệt chiếu đậu, chiếu đậu dầy hơn, đến đổ bát nước trên chiếu cũng không ngấm được xuống dưới là do tay go dập mạnh lúc dệt dồn cói cho đến thật xít nhau. Loại chiếu đậu thường không phải in hoa như các loại chiếu khác vì cói đã được chọn thật trắng và đều. Cũng có loại chiếu người ta nhuộm sợi cói theo đủ các màu xanh, đỏ, vàng từng đoạn để khi dệt vào từng ô vuông màu được cài xen kẽ với nhau trông rất đẹp, loại chiếu này cũng đắt ngang với chiếu đậu. Nhìn dàn chiếu đang dệt, người ruôn cói cuốn cuốn lao lao cần thoăn thoắt, người dệt dập go bành bạch, 2 tay thì cà ra để bắt mối 2 đầu. Ruôn nhanh, dập nhanh thì năng suất càng cao. Riêng cái go là tên mới ngày nay, còn ngày xưa ông Thành Hoàng nghề chiếu thường gọi nó là cái khổ, vì bị người ta thay nhau dập suốt ngày. Có lúc ông chồng đau lưng lẩn sang hàng xóm uống trà đã bị Bà vợ gọi to : Ông ơi! Về dập rỗi, buộc ông phải xin phép bạn để về dập cho bà. Tôi hỏi các chị làm thế nào ngày công được mấy lá. Mấy lá là thế nào bác, cơ chế mới làm nhiều ăn nhiều chúng cháu dệt mỗi ngày mấy đôi ấy chứ. Bây giờ cũng có nhà có máy dẹt chiếu mua từ Trung Quốc về như anh Đinh Văn Hiền. Chiếc máy đồ sộ, lắp đặt máy và dàn chỉ ni lông hết hàng gian nhà, mỗi giờ dệt được 3 lá chiếu, năng suất gấp 10 lần một công lao động.
          Trước đây thời bao cấp hợp tác xã quản lý về dệt chiếu, đưa vào ký kết hợp đồng mua bán với công ty nông sản huyện để hợp tác xã có tiền mặt trao đổi với cơ quan Nhà nước lấy vật tư, phân bón phục vụ, kiến thiết và sản xuất. Xã viên thì làm chiếu được ăn công điểm. Người lao động nhập được lá chiếu loại A cũng phải qua mấy cầu kiểm nghiệm với mục đích gây khó khăn,vòi vĩnh
          Từ năm 1986 thực hiện cơ chế mới, mô hình hợp tác xã chiếu cói của xã không còn phù hợp nên giải thể. Nghề dệt chiếu truyền thống của Nghĩa Trung được giải phóng có điều kiện phát triển mạnh trong các hộ gia đình. Toàn xã có tới 60% gia đình dệt chiếu ( chủ yếu thuộc các xóm ở thôn Liêu Hải ) các gia đình dệt chiếu lúc này được chủ động trong tất cả các khâu từ mau và sản xuất nguyên liệu đến sản xuất và bán sản phẩm. lúc này chỉ có thượng đế là người kiểm nghiệm và phân loại tiền nào vải ấy theo cơ chế thị trường. Xã không phải lo liệu khâu gì, chỉ việc lấy số liệu báo cáo thành tích hàng năm. Liêu Hải, Nghĩa Trung, làng nghề chiếu cói rầm rập suốt ngày đêm nào là dệt chiếu dãi chiếu đêm đêm thì đóng gói để 4, 5 giờ sáng hàng loạt thanh niên đã lên đường bằng đủmọi phương tiện, người đi xe máy, kẻ oto, đưa hàng đi khắp nơi trong cả nước. Ông bạn tôi Nguyễn Huy Chiểu, người đã làm giầu về nghề buôn bán chiếu. Ông đưa hàng oto chiếu cá nhân đi bán hần hết cho các trường sĩ quan quân đội. Ngồi nghĩ được chỉ có bộ đội là dùng chiếu cá nhân nhiều, quả là ngoạn mục. Có nơi đổ hàng như vậy nên các loại cói ngắn dài đều được tận dụng hết. Nghề làm chiếu đã góp phần không những xóa đói giảm nghèo mà còn làm giầu cho những hộ gia đình có lao động và làm ăn năng nổ, tháo vát như ông Chiểu. Từ vốn liếng nghề làm chiếu hiện nay ông đã đứng được một cửa hàng chạm khắc đá mĩ nghệ lớn tại thị trấn Liễu Đề thu hút hàng chục lao động nông nhàn đến cùng làm với ông. Nhìn cửa hàng của ông đã có hàng nghìn tác phẩm nghệ thuật bằng đá nào là thiếu nữ ba miền bắc trung nam, thiếu nữ tam tống hội nhạc, thiếu nữa vũ hội  áp sa ra và tượng tố nữ, quan văn, quan võ, tượng phúc lộc thọ, tượng chúa, tượng phật, tượng anh hùng tương ngộ và 12 con giáp cùng các loại bình hoa, khay chén, cây đèn với hoa văn tram trổ tinh xảo thực hồn văn hóa dân gian. Làm được 10 đồng bao giờ ông cũng là từ thiện 3 đồng. Hàng năm ông đóng góp vào quỹ từ thiện của thôn Liêu Hải để sử dụng vào các việc thăm hỏi nhau lúc ốm đau, phúng viếng và xin lễ lúc các cụ qua đời. Cơn bão số 7 năm 2005 vào Nghĩa Hưng, bằng những đồng tiền từ chiếu cói, ông đã gửi hằng trăm thùng mì tôm ( qua Hội Chữ thập đỏ huyện ) để giúp nhân dân vùng bị bão đỡ bữa trong những ngày bị bão lũ vây quanh
          Cũng ông Nguyễn Huy Chiểu là người dẫn tôi đi tìm ông tổ nghề chiếu cói thôn Liêu Hải ( Nghĩa Trung ). Trong “Tân biên Nam Định tỉnh dư địa chí lược” của Khiếu Năng Tĩnh là quan tế tửu Quốc tử giám viết : “dệt chiếu Đại An có Tịch Nhi, Nhân Hậu, Hà Dương Đoài, Tân Liêu, Liêu Hải, An Thịnh, Thụ Ích, Đông TĨnh”. Ngày nay duy Liêu Hải, xã Nghĩa Trung là còn giữ nghề. Nghề chiếu cói không phải có từ thời Nguyễn mà có từ thời Lê Trung Hưng cụ Đỗ Thế Duệ người làng Phi Lai, Tổng Phi Lai huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung’ Thanh Hóa, ra vùng Bông Hải (nay là Khánh Thiện, Yên Khánh, Ninh Bình) chiêu đinh lập ấp mở mang nghàn nghề trong đó có nghề dệt chiếu.
                            Chiếu hoa Bồng Hải anh ngồi
                            Tình chồng nghĩa vợ giận rồi lại thương
                            Chiếu này chỉ vấn tơ vươn
                            Anh ngồi em chải thiệt hơn xá gì
          Do đất này gắn bó với nghề chiếu, sống về chiếu nên có nhiều vè câu đố và thơ ca về chiếu truyền miệng trong dân gian  Chiếu Bông Hải vải Lộn Khê (Lộn Khê ở Yên Tử, Yên Mô)
          Câu đố:     
Con rắn nó cuốn, nó lượn, nó tha vào lỗ, nó luồn nó ra. (là cái ngao)
         Răng rổ xề lại hay ăn bánh (Là cái go hay cái khổ ăn bánh đay)
          Thơ:
                            Khen ai lặn lội cắt cỏ bồng
                            Bởi vì ngao khổ mới lên công
                            Mũ đai điểm chuyết lên mình ngựa
                            Buồm lèo sắp sẵn đón sang sông
                            Rợp đường võng tố canh mùng dậu
                            Đẹp mặt hàng hoa tống điểm bông
                            Nối bước cha ông mưu nghiệp lớn
                            Xứng danh con cháu giống tiên rồng
          Đại An xưa trong đó có Nghĩa Trung sang học nghề. Trai gái Yên Khánh, Bồng Hải và Đại An, Liêu Hải kết hôn với nhau, đưa nghề về trở thành nghề đẹt chiếu Liêu Hải cho đến đời nay. Cụ tổ nghề dệt chiếu của Bồng Hải cũng là cụ tổ nghề dệt chiếu Liêu Hải là vậy. Chiếu cói Bồng Hải, Liêu Hải từ thời Pháp thuộc đã được đi dự đấu xảo tại Hà Nội. Năm 1985 được thưởng huy chương vàng hội chợ kinh tế kĩ thuật toàn quốc. năm 2005 từ đường cụ tổ nghề dệt chiếu Đỗ Thế Duệ nơi có đôi câu đối:
         Tịch thổ chiêu dân u Bồng Hải thành đai công tộc.
         Bình nhung hậu quốc chí cảnh hưng phong vận thế phúc thần.
          Đã được công nhận di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh.
          Hàng năm từ 09 đến 16 tháng 02 âm lịch hàng tổng mở hội (Phụng nghinh) cụ và thành hoàng các làng được kiệu rước về đình Xanh tế lễ. Các thông khác như Ba Phường, Xuân Hòa, thôn Tư đều lập đền thờ cụ để nhớ về người xưa chiêu binh lập ấp mở mang ngành nghề.





Trước Giờ Mìn Nổ

          Đánh xong đồn Cà Leng nằm ở ngã ba Đông Dương , nơi giáp địa danh với cả Lào và Campuchia, ta bắt sống nhiều tù binh và thu nhiều súng ống đạn dược. Nhưng vẫn thấy máy bay L19 và OV10 lượn đi lượn lại có lúc như muốn xà cả xuống cánh rừng còn nguyên mùi khói súng. Chính trị viên Phạm Thành cùng tổ trinh sát kiểm tra lần cuối thì từ xa xa văng vẳng có tiếng người rên, mọi người rẽ rừng rậm chạy lại thì ra là một phụ nữ áo quần bê bết máu nằm đó. Thấy quân giải phóng lại chị ta không chỉ vào cái cổ đùi  gẫy của mình mà lại chỉ tay vào cái làn nhựa để gần đó. Thì ra trong đó là một cháu bé do chị vừa sinh lúc chị ngã lăn từ trên sườn đồi xuống vực. Vệ binh tiểu đoàn khiêng ngay người phụ nữ và cháu bé sơ sinh về trạm cứu thương. Thấy khiêng thêm cả dân
về bác sĩ kêu tướng lên:
          -  Giời ơi! Thương binh còn nằm đầy ra đây chờ mổ gấp lại còn khiêng…chưa kịp nói hết câu thì chính trị viên có mặt kịp thời nhỏ nhẹ:
          -  Bác sĩ Hải, chúng ta là bộ đội cụ Hồ- bộ đội của dân. Rồi người dân và cháu bé được đưa vào cấp cứu.
          Máy bay vẫn lượn rát. Chính trị viên và đội trinh xát lại đi. Lần này họ đi về phía Đông Bắc. Ông mặt trời sắp đi ngủ, tiếng cây rừng xôn xao trong gió, bỗng rào rào như có người chạy, chính trị viên hô to
          -  Đứng lại, bỏ sung xuống, giơ tay lên, tiến lên ba bước. Tên ngụy không có sung ống gì. Xung quanh nó là điện đài, nó là lính thông tin. Khi quân ta khóa máy phát tín hiệu thì máy bay cũng bay đi, tên ngụy được giải về giao cho trung đoàn, cùng chiến lợi phẩm.
          Trời đã tối hẳn, cũng là lúc mẹ con người dân được cứu sống. Mọi người không cầm được nước mắt khi một chiến sĩ của ta đã không đợi được đén lượt mình lên bàn phẫu thuật. Tên lính thông tin ngụy cũng được thả sau thời gian xét hỏi nhanh chóng nhưng nó lại không đi mà hỏi lại người chỉ huy của ta:
          -  Vậy túi tiền 5000 đô của tôi đâu? Các ông lấy hết thì tôi đi đâu?. Mọi người ngơ ngác không biết túi tiền  nào.
          Quân Pháp vào cuộc, tổ công tác hậu chiến lại phải mỗi người một nơi để làm bản tường trình.
          Người sản phụ gẫy cổ đùi tỉnh hẳn mới biết chị ta là vợ đồn trưởng đồn Cà Leng bị thất thủ đã bỏ cả vợ chaỵ về đồn Trâu Điên. Đêm hôm ấy đội binh vận của ta bắc loa` kêu gọi đồn Trâu Điên đầu hàng. Khi nghe tin vợ con đồn trưởng Cà Leng bị nạn, sinh con, được quân giải phóng cứu chữa an toàn hắn hạ lệnh cho đồn Trâu Điên nộp súng, giao đồn cho quân giải phóng.
          Khi được phép dẫn giải hắn về thăm vợ con điều đầu tiên hắn hỏi:
          -  Tên lính điện đài các ông bắt giờ ở đâu? Hắn liếc mắt nhìn đồng hồ rồi cuống lên bảo với sĩ quan của ta cho hắn xem gấp điện đài.
          Khi xuống kho vũ khí nơi cất điện đài ta vừa thu được tên đồn trưởng thất thủ nhặt vội chiếc túi mìn hẹn giờ (giành giết tên lính và phá điện đài mà hắn đã nói dối là túi tiền) để tháo ngòi nổ. Mọi người đã thở phào trước giờ mìn hẹn nổ.





VĂN HÓA DÂN GIAN TRÊN ĐẤT TRỰC KHANG

          1. Vài Nét Về Mảnh Đất Trực Khang.

          Trực Khang, một xã có bề dày lịch sử lưu đậm bản sắc văn hoá vùng đất bồi ven biển phía Nam, tỉnh Nam Định. Trực Khang nơi có cây cầu Đông Thụ bắc qua dòng sông Rõng nước chảy lơ thơ đổ ra biển, nối liền ba huyện Trực Ninh- Nam Trực- Nghĩa Hưng cùng với những con đường 53,55,56 chạy vòng quanh ở phía Nam Nam Định.
          Từ buổi đầu mở đất, những người dân đến đây phải một nắng hai sương gồng mình vật lộn với thiên nhiên để quai đê lấn biển, khoanh vùng tưới, tiêu nước, rửa mặn, thau chua. Biết bao công sức đã đổ ra, thậm chí cả máu xương để giành giật từng mảnh đât để nuôi sống con người. Người vì đất, đất chẳng phụ công người, đất đai vùng này tương đối bằng phẳng màu mỡ phì nhiêu, nên dần dân các cư dân các nơi về đây cùng tụ tập lên những xóm làng ngày càng trù phú đông vui.
          Đặc biệt việc lập làng xóm ở Trực Khang lại được chia thành từng dong, từng dãy nhà. Cứ trước mặt một dãy nhà là một dãy ao, người ta đào ao để vượt thổ, Trước ao là đường dong ngõ xóm bây giờ đã được đổ đường bê tông rộng đến ba mét mặt. Mỗi làng lại cách nhau một trực đường dọc chạy dọc xã để nối với đường liên huyện, liên tỉnh. Một đặc điểm khác với các xã trong huyện là ở xóm thì trên đường dưới ao, ở làng thì trên đường dưới sông, đường liên huyện cũng trên đường dưới sông tạo nên thế giao thông thủy bộ thuận lợi cho cả nhân dân trong vùng đến với Trực Khang.
          Ngược dòng lịch sử mảnh đất Trực Khang ngày nay chính là bãi biển do phù sa bồi đắp mà thành. Từ xa xưa nơi đây vẫn còn hoang vu. Đầu thế kỷ XVI mới có người ở các nơi khác đến khai phá.
          Cuộc sống cam do, quá trình mở đất lập nghiệp kéo dài hàng trăm năm, đã hun đúc lên tinh thần tương thân tương ái, cần cù sáng tạo, dũng cảm trong lao động sản xuất, kiên cường bất khuất trong đấu tranh, thiên nhiên cũng như cường quyền áp bức và giặc ngoại xâm. Truyền thống đó là tinh thần yêu làng, yêu nước, bồi đắp trí tuệ cho người dân Trực Khang trong quá khứ và hiện tại.
          Truyền thống đó lại được nhân lên gấp bội từ khi có Đảng cộng sản Việt Nam ra đời lãnh đạo toàn dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sống trong đêm trường nô lệ, chịu áp bức của thực dân phong kiến, nhân dân Trực Khang phải chịu bao nỗi thống khổ của phu phen tạp dịch, sưu cao thuế nặng. Đặc biệt khi phát xít Nhật nhảy vào xâm chiếm đông dương, với ách cai trị một cổ ba tròng, người dân Trực Khang cũng như người dân cả nước bị đẩy vào con đường cùng không có lối thoát. Căm thù chế độ thực dân, phát xít, phong kiến sục sôi đã nuôi ý chí sẵn sàng vùng lên đập tan ách áp bức bất công, vì vậy khi cơn lốc cách mạng tháng 8 tràn về, dưới sự lãnh đạo của Đảng, của mặt trận Việt Minh, nhân dân Trực Khang đã nhất tề vùng lên, lật đổ chính quyền thực dân phong kiến, giành cuộc sống độc lập, tự do.
          Ngay sau khi giành được độc lập không lâu, với dã tâm xâm lược một lần nữa, thực dân Pháp núp sau quân đồng minh, từng bước gây hấn trở lại xâm lược nước ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền nhân dân Trực Khang ra sức xây dựng, củng cố chính quyền cách mạng, trực tiếp chiến đấu anh dũng chống thực dân Pháp xâm lược. Chín năm kháng chiến chống Pháp, đặc biệt là thời kỳ 2 năm 4 tháng Trực Khang nằm sâu trong vùng tạm chiếm, bốn góc xung quanh đều là bốt giặc (như bốt Quỹ Trung, Chợ Đền, Thạch Bi và bốt Liễu Đề). Nhân dân Trực Khang phải sống những ngày tháng rên xiết dưới gót giày xâm lược, dưới họng súng lưỡi lê đậm máu và sự tàn sát của kẻ thù. Nhưng chính những năm tháng máu lửa chiến tranh đó, Đảng bộ, quân, dân Trực Khang đã thể hiện rõ bản chất kiên cường, trung dũng chiến đấu, hy sinh xứng đáng với truyền thống cách mạng vẻ vang của quê hương. Điển hình là liệt sỹ Hà Sỹ Hùng đã thà chết chứ nhất định không chịu rơi vào tay giặc. Đồng chí đã đốt tài liệu và tung lựu đạn hy sinh. Liệt sỹ Nguyễn Tất Đạt người quê hương là bộ đội huyện về xã công tác bị giặc bắt, đồng chí đã bỏ tài liệu vào mồm nhai nuốt và đập cằm xuống bàn cho đứt lưỡi để hy sinh trước mặt quân thù lúc chúng đang dụ dỗ.Học tập gương anh hùng của các liệt sỹ, Đảng bộ và nhân dân Trực Khang kiên quyết trụ vững để chiến đấu bảo vệ quê hương với tinh thần “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Trong những năm tháng trực tiếp chiến đấu chống thực dân pháp và bọn tay sai, thực hiện nghiêm túc đường lối kháng chiến trường kỳ, toàn dân toàn diện của Trung ương Đảng.
          Đảng bộ, quân, dân Trực Khang kiên cường bán đất xây dựng chiến trận chiến tranh nhân dân, xây dựng lực lượng du kích, lực lượng chính trị, cơ sở cách mạng trong nhân dân vững chắc, thể hiện phối hợp đấu tranh quân sự, chính trị và địch vận chống lại có hiệu quả chiến tranh tổng lực của kẻ thù. Suốt thời gian địch chiếm đóng xung quanh xã, nhân dân Trực Khang vừa chiến đấu vừa kiến quốc, anh dũng chiến đấu, chống trả nhiều cuộc hành quân, tấn công đồn bốt địch, diệt hàng trăm tên địch. Kiên quyết phá Tề trừ gian.Quá trình đó Đảng bộ và nhân dân Trực Khang đã hy sinh biết bao xương máu để giữ gìn quê hương, góp phần cùng quân dân cả nước đánh bại cuộc chiến tranh dã man, tàn bạo của thực dân Pháp xâm lược. Xứng đáng là một xã được Nhà nước phong tặng “ Danh hiệu anh hùng”. Kháng chiến 3 ngàn ngày không nghỉ, đã đem lại cuộc sống hoà bình cho Miền Bắc. Từ năm 1954 nhân dân phấn khởi hân hoan ra sức xây dựng cuộc sống mới. Nhân dân Trực Khang đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ khôi phục và phát triển kinh tế văn hoá, Cải tạo XHCN đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, Hợp tác hoá nông nghiệp. Trực khang đã là lá cờ đầu toàn miền Bắc về phong trào làm phân xanh để sản xuất nông nghiệp. Tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiếm lược, vừa sản xuất xây dựng hậu phương vững mạnh, vừa sẵn sàng chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của đế Quốc mỹ (từ 1946), chi viện sức người, của cho tiền tuyến lớn miền Nam (1965 - 1975). Với tinh thần “Thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang” giành nhiều thắng lợi to lớn. Năm 1973 được thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm vì Trực Khang có thành tích dẫn đầu toàn miền Bắc về phong trào chăn nuôi lợn. Cùng với nhân dân Trực Ninh, Đảng bộ và nhân dân Trực Khang luôn hoàn thành vượt mức nghĩa vụ đóng góp với Nhà nước, đảm bảo “ thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện nâng cao, xóm làng ngày càng khang trang đổi mới, góp phần cùng chiến thắng vĩ đại của mùa xuân 1975 đã đem lại sự thống nhất trọn vẹn cho dân tộc ta, cho đất nước ta.
          Tuy vậy sự kéo dài cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, sự nôn nóng muốn xây dựng CNXH nhanh chóng, không tính hết các quy luật khách quan, sự tập chung chuyên môn hoá trong sản xuất nông nghiệp... đã dẫn đến sa sút đình trệ nghiêm trọng trong sản xuất, thu nhập của nông dân thấp kém. Suốt những năm đầu thập kỷ 80 đời sống nhân dân Trực Khang gặp nhiều khó khăn. Song sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi xướng, lãnh đạo đã khơi dậy mọi tiềm năng, nguồn lực trong nhân dân để phát triển kinh tế - xã hội, từng bước đưa nước ta thoát khỏi khủng hoảng. Với bản lĩnh cách mạng kiên cường, với tinh thần năng động sáng tạo kịp thời chuyển đổi theo đường lối đổi mới. Những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI Đảng bộ và nhân đân Trực Khang đã khẳng định sự phát triển vững chắc của mình. Với sự bung ra trong kinh tế nông nghiệp, từng bước giải phóng và phát huy năng lực sản xuất, từng bước chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng theo sán xuất hàng hoá. Từ năm 1991 đến nay, nhân dân Trực Khang đã đạt được những thành tựu khả quan. Năng xuất lúa không ngừng nâng cao trên một héc ta gieo trồng, đến năm 2004 đạt 30 -32 triệu đồng/1 năm. Số người giàu tăng lên, không còn hộ đói, hộ nghèo giảm đến năm 2005 còn 8%, kinh tế phát triển năng động phồn thịnh. Sự nghiệp văn hoá xã hội không ngừng tiến bộ, đời sống nhân dân ngày càng ấm no sung túc. Nông thôn phát triển bắt đầu hiện rõ trên quê hương Trực Khang thân yêu.
          Mặc dù còn không ít khó khăn bởi trải qua thăng tràm trong quá trình xây dựng quê hương. Song phải khẳng định rằng những thành tựu mà Đảng bộ nhân dân Trực Khang vững vàng đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông thôn theo đường lói nghị quyết Đại hội Đảng toàn Quốc lần thứ X đề ra. Từ thực tiễn lịch sử đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, Đảng bộ Trực Khang đã đực kết được những kinh nghiệm lịch sử quý báu trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách mạng. Những kinh nghiệm đó đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
          Đất nước đang tiếp tục đổi mới đi lên, sẽ còn gặp không ít khó khăn, song chúng ta tin tưởng rằng đã từng trải qua những bước thăng trầm của lịch sử nên nhân dân Trực Khang sẵn có kinh nghiệm và sáng tạo để vượt qua. Đảng ta sẽ có đủ trí tuệ, tài năng để lái con thuyền cách mạng, Trực Khang mãi mãi vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của ấm no hạnh phúc.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Trực Khang đã thực hiện trọn vẹn chặng đường 80 năm chiến đấu và xây dựng để tồn tại và phát triển thư ngày nay. Cuộc sống ngày càng thay đổi, vấn đề nông thôn, nông nghiệp và nông dân ở Trực Khang còn phải đấu tranh không ngừng, càng thích nghi, tiếp cận và tiếp thu với nhiều điều của công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng. Có Đảng lãnh đạo chắc chắn mọi cản trở, mọi tập tục lạc hậu, mọi lãng phí, tiêu cực, tham nhũng, quan liêu ra đời quần chúng sẽ bị đẩy lùi để mở đường cho sản xuất phát triển, thực hiện “ Dân giàu – nước mạnh- xã hội công bằng – dân chủ - văn minh”
          Trách nhiệm lịch sử giao cho Đảng bộ lãnh đạo nhân dân, cùng nhân dân tạo dựng cơ hội phát huy nội lực, tiềm năng ẩn chứa trong mỗi con người sinh ra từ quê hương để xây dựng Trực Khang ngày một giàu đẹp. Vinh dự, tự hào quê hương anh hùng. Mỗi con người Trực Khang càng phải phát huy truyền thống sống theo lý tưởng của Đảng để viết tiếp những trang sử vàng cho quê hương thân yêu vẻ vang hơn nữa.

          2. Những thay đổi địa danh hành chính của Trực Khang.

          Thời Lê Trung Hưng do các thế lực phong kiến tranh giành quyền lợi đem quân đánh chiếm lẫn nhau gây nên cảnh “Nồi da nấu thịt” trăm họ lầm than phiêu bạt mọi nơi. Một bộ phận nhân dân xứ Hải Dương chạy về đây lánh nạn, đứng đầu là các cụ Hà Huống, Vũ Hội, Phan Bội, Đồng Hoành, Nguyễn Huyên, Nguyễn Thái Liễu,
          Nguyễn Kình, Nguyễn Sơn Minh thượng hạ đoạn, Hoàng Liên, Loại Cảnh Tiên, Tống Thế Nghị, Đoàn Quang Chiếu đại diện cho 12 dòng họ khai sáng ra đất Duyên Bình ngày xưa nay là Trực Khang.
          Hiện vẫn còn đôi câu đối thờ các cụ khai sáng ở đền làng:
         Duyên giang tiên thiệu bình cơ phàm thập nhị công xưng thủ
         Lạc địa trường lưu chính khí ức thiên vạn cổ kỳ thần.

          Buổi đầu đi mở đất, những người dân tới đây phải vật lộn với thiên nhiên, quai đê lấn biển khoanh vùng tiêu nước rửa mặn, thau chua, đã đổ ra không biết bao nhiêu công sức, thậm chí cả máu xương để giành giật từng mảnh đất nuôi sống con người. Người vì đất, đất chẳng phụ công người, dần dần các cư dân trong huyện, ngoài tỉnh về đây quần tụ ngày càng đông lập lên xóm lên làng.Quá trình sinh cơ lập nghiệp ở Trực Khang kéo dài hàng thế kỷ đã hun đúc lên truyền thống trong một cộng đồng làng xã. Từ buổi đầu 12 dòng họ khai sáng mở đất các cụ đều được mang tên mình ở những cánh đồng mà mình đã mở mang khai khẩn như cánh đồng Hà Huống là của cụ Hà Huống mở, cánh đồng Hoàng Niên là của cụ Hoàng Niên mở, còn cụ Đồng Hoành chuyên về dạy học thì được các cụ biếu cho khu đất cao nhất gọi là cánh thượng đồng để tôn sư trọng đạo người đã dạy chữ cho con em mình. Đến nay toàn xã đã có 22 dòng họ nhưng đều yêu thương đùm bọc lẫn nhau như anh em một nhà. Nhớ công sinh thành dưỡng dục của tổ tiên, hiện nay các dòng họ đều xây được từ đường thờ tiên tổ. Họ Đồng đã xây dựng được từ đường cách đây gần 150 năm và đã được nhà nước công nhận là di tích lịch sử văn hoá.
          Trực Khang là đất hiếu học, nhiều người đỗ đạt cao trở thành tấm gương sáng cho con cháu noi theo. Qua các triều đại phong kiến hàng chục cụ có học vị cử nhân tú tài, có cụ đỗ đến tiến sĩ được tôn vinh là ông Nghè Nguyễn Đình Nghi, có người làm quan trong triều và nhiều người khác được triều đình phong chức tước.
          Trải qua các thời kỳ lịch sử, Trực Khang ngày nay được thay tên đổi địa danh nhiều lần. Buổi đầu là xã Duyên Bình thuộc Tổng Duyên Hưng Hạ huyện Nam Chân phủ Thiên Trường. Năm Minh Mạng thứ 16 (1836) huyện Nam Chân chia làm hai huyện là Chân Ninh và Nam Chân. Năm Thành Thái thứ 29 (1881) huyện Chân Ninh đổi là Trực Ninh.
          Xã Duyên Bình và Quỹ Đê tổng Duyên Hưng Hạ, huyện Trực Ninh xưa kia (tức trước 1945) có 6 làng (tên là do các cụ khẩn đất đặt ra) đó là Lạc Chính, Nam Trực, Thái Bình, Cổ Nông, Hưng Lễ, Cựu Phú nay là đất các xã: Trực Khang, Trực Hùng và Trực Mỹ, thời phong kiến làng thôn thứ tự anh em xếp theo vần điệu sau:
          Lạc Chính, Thái Bình, Hưng Lễ nghĩa
          Nam Chân, Cựu Phú, Cổ Nông thôn
          Đây là địa danh hình thành do lấn biển cho nên các làng đều thờ các vị Thần có liên quan đến biển như Tống Thái Hậu (hoàng hậu nhà ông chết ở cửa Cờn Nghệ An),
          "Thế kỉ 13 nhân loại chứng kiến gần như cả thế giới cùng chung chiến hào đánh quân Mông Cổ. Năm 1274 vua Tống Độ Tông mất, triều đình đưa con là Cung Tông lên ngôi, do thế lực quân Mông Cổ quá mạnh, nhà Tông thất thủ, triều đình lui về Phúc Châu, Quảng Đông, phong Ích Vương lên ngôi vua, tôn Dương Thái Hậu làm Hoàng Thái Hậu và ban hịch kêu gọi cả nước kháng chiến chống giặc Mông Cổ.
          Năm Tường Hưng II (1279) Mông – Nguyên đem quân từ cảng Triều Dương (Quảng Đông) theo đường biển tiến đến Nhai Sơn đánh Tống. Thế giặc mạnh, nhà Tống bại trận, hàng trăm chiến thuyền bị vỡ. Riêng Hoàng Thái Hậu, Hoàng hậu và hai công chúa bám vào được mảnh ván thuyền (có tài liệu nói là bám vào cột buồm) trôi dạt đến Cửa Cần (còn gọi là Cần Hải) thuộc xã Hương Cần, huyện Quỳnh Lưu, phủ Diễn Châu và được vị sư già ở chùa Qui Sơn cứu vớt. Nhà sư chùa Qui Sơn đã chăm sóc thuốc men, ăn uống cho Thái Hậu và công chúa tận tình. Nhưng nghĩ đến cảnh nước nhà bị thôn tính, vua quan triều đình bị giết, nạn chiến tranh chết chóc thảm thương, đồng thời lo đến việc truy lùng của nhà Nguyên nên Thái Hậu đã gieo mình xuống biển tuẫn tiết. Thấy vậy hai công chúa là Triệu Nguyệt Khiêu và Triệu Nguyệt Hương cùng sinh ngày 15/08, hoàng hậu là Quách Thị sinh ngày 12/12 cũng nhảy xuống biển chết theo. Xác bốn mẹ con Thái hậu trôi dạt vào bãi biển Cần và được người dân địa phương vớt lên mai táng chu đáo. Tương truyền, cảm động trước.
            “Khí tiết lăng thiên nhật nguyệt,
             Anh phong lẫm lẫm địa sơn hà”

         Thượng đế đã phong cho Thái Hậu là Hải Thần coi giữ 12 cửa bể cho Đại Việt. Nhân dân làng Cần Hải đã lập đền thờ bà. Đền thờ linh thiêng được ứng nghiệm rõ rệt, mỗi khi ngư dân ra biển, qua đền bà thắp hương khấn bái. “Đại Việt sử kí toàn thư” còn chép: Năm Hưng Long 19(1311) vua thân chinh đi đánh Chiêm Thành, đến cửa biển Cần Hải (nay là cửa Cần, xã Quỳnh Phương, Quỳnh Lưu, Nghệ An) đóng quân tại đây, đêm chiêm bao thấy nữ thần khóc và nói: “Thiếp là cung phi Triệu Tống, bị giặc bức bách trôi dạt đến đây, Thượng đế phong cho làm thần biển ở đây đã lâu, nay thấy bệ hạ đem quân đi, thiếp xin giúp đỡ lập công”. Khi thức dạy vua cho gọi các cố lão ở đấy hỏi sự thực rồi cho quan vào tế lễ, sau đó mới kéo quân đi. Trên đường đi nhờ biển lặng, gió yên nên quân Trần đã tiến thẳng đến Trà Bàn, nhờ có Đoàn Nhữ hải lập kế nội ứng nên đã bắt được vua Chiêm mang về. Tưởng sự việc ứng nghiệm, vua bèn cho Hữu Ty lập đền thờ tại Cửa Càn hàng năm cúng tế. Truyền thuyết địa phương và các thư tịch khác còn ghi: việc Trần Anh Tông phong sắc cho nữ thần đền Cần là: “Đại Càn quốc gia Nam Hải Thánh mẫu thượng đẳng thần” đồng thời ban nhiều vàng bạc cho dân địa phương tu chỉnh tôn tạo đền thờ. Sử cũ và ngọc phả còn ghi việc Bình Định Vương Lê Lợi trong khi tổ chức kháng chiến chống quân Minh xâm lược (1418 – 1428) đã cho tướng về đền Cần làm lễ cầu sự âm phù dẹp giặc. Và khi kháng chiến thắng lợi vua đã nghĩ đến Thánh mẫu đền Cần gia phong thêm Mỹ Tự ca ngợi tôn vinh công lao đức độ của Thánh Mẫu. Dưới triều Thánh Tông hoàng đế niên hiệu Hồng Đức thứ nhất (1470). Lần này vua Lê huy động một lực lượng to lớn rất hiếm thấy trong lich sử bình Chiêm của dân tộc. Đội quân gồm 5000 chiến thuyền và 25 vạn quân đã dừng chân ở cửa Cần để chấn chỉnh. Thời gian lưu trú tại cửa Cần, vua Lê Thánh Tông thân chinh vào đền thánh Mẫu làm lễ cầu nguyện Thánh Mẫu âm phù cho cuộc chinh phạt thắng lợi, sau đó đoàn quân ra đi trong điều kiện thiên nhiên sóng yên bể lặng và nhanh chóng đến chiến trường khiến vua Chiêm Thành lo sợ xin được qui hàng không dám quấy nhiễu. Trên đường vua tôi trở lại kinh đô, đoàn thuyền đã vượt quá cửa Cần hơn muời dặm, bỗng gió dông nổi lên làm đoàn thuyền lật buồm quay trở lại. Nơi quay thuyền có danh là Đông Hồi thuộc xã Quỳnh Lập ngày nay. Hiện tượng này khiến nhà vua nhớ đến chuyện cầu đảo ở Đền Cần nên cho thuyền ngược lại Đền Cần mua sắm lễ vật lên đền tạ ơn, sau đó mới về về kinh đô.
          Chỉ ở của Cần mà nhân dân ven biển từ nam chí bắc còn lập nhiều đền để thờ Tống Thái Hậu. Đặc biệt ở đền Mẫu thị xã Hưng Yên gần bờ sông Hông, xa đây cũng là cửa biển và theo truyền thuyết địa phương cửa biển này cũng gọi là là Càn Môn. Ngọc phả còn có tình tiết sau: Bà cùng ba con bị chết đuối trôi dạt sang cửa Cần Hải, Quỳnh Phương, Quỳnh Lưu, Nghệ An rồi xác của Mẫu lại trôi ngược dòng đến Càn Môn, Hưng Yên. Nhân dân vớt lên và mối đùn thành mộ. Sau dân lập đền thờ và chính tẩm của đền che phủ cho phần mộ của Mẫu.
          Đền Đại Lộ xã Ninh Sở, Thường Tín, Hà Nội là ngôi đền lớn, nằm sát bờ sông Hông, tiếp cận huyện Thanh Trì. Truyền thuyết địa phương kể lại câu chuyện bốn chiếc nón trôi về khu vực này, lẩn quẩn mãi không đi. Năm ấy đê sông Hồng bị vỡ, nhà vua lo lắng bèn khấn thần biển Đại Càn phù hộ. Sau đó hai con rắn (lốt) xuất hiện rồi cắn đuôi nhau nằm trên đê vỡ chắn ngang dòng nước thành đôi rắn khổng lồ khiến dòng nước ngừng chảy, giúp nhân dân có thời cơ cứu vãn vỡ đê.
          “Như vậy ở Đại Càn Thánh Mẫu, hoặc các vị mẫu khác dân gian ước nguyện có được sự cứu độ để giải toả mọi ức chế, xua đi những nỗi lo âu, những tai ương bởi hoạ người và thiên nhiên chưa giải thích được. Sự vô hình của các thánh mẫu sẽ làm cho tâm ta thiện hơn, trong trẻo hơn, hướng về bản chất dân tộc chân, thiện, mĩ. Lẽ tất nhiên trong sự vô hình mà tác động đến đời sống tâm linh, đến đời sống đời thường thì khó vận dụng lí lẽ khoa học để phân tích. Phân tích một tín ngưỡng dân gian có thể coi như một hiện tượng văn hoá bản địa lâu đời mà nhân dân, dân tộc đã kính thờ, đã tổ chức lễ hội như một chương “Diễn xướng sử thi” để từ đó nảy sinh niềm tin, tăng thêm tình yêu quê hương đất nước và làm cho cuộc sống được hạnh phúc và thi vị hơn.”( Theo Hồ Đức Thọ) Sách “Ô châu cận lục” viết thế kỉ 15 còn cho Đại Càn Thánh Lương vương là Vương Hậu thời Hùng Vương thứ 13. Có nơi vùng trung du như Phú Thọ còn ghép tứ vị Thánh nương bộ tướng của Trưng Nữ Vương thế kỉ I. Cũng có nơi ở đồng bằng Bắc Bộ cho đại càn tứ vị là mẫu thoải thuộc hệ tam toà Thánh Mẫu Phủ Giầy… Và tất nhiên bởi sự dung hợp nên Duệ Hiệu cũng thật phong phú. Đơn cử một số Duệ Hiệu thường thấy ở các đền như sau:
          - Đại Càn quốc gia Nam Hải Thánh Mẫu Thượng đẳng thần.
          - Nam Việt Tống triều quốc mẫu tứ vị hồng nương phu nhân.
          - Đại càn quốc gia Nam Hải thần chiếu ninh ứng tự vị thánh nương Thượng đẳng thần.
          - Càn Hải môn hiển thánh Tống Thái Hậu nam Hải tối linh Tứ vị thánh nương Đại vương.
          Nhìn chung tương tự như nhau, có theo màu sắc dân gian từng địa phương nhưng không chênh lệch nhiều. Chỉ tính riêng sắc phong ở đền Cần đã có tới 300 chiếc. Có ngày đền được phong 8 đạo sắc. Sắc phong ở đền Cần và hàng trăm đền thờ khác đều là tài sản quí cần được bảo quản và giữ gìn nguyên bản.
          Trong khi hiện nay không thiếu gì cò mồi lùng sục với giá có khi lên tới ba trăm triệu một đạo sắc. Trong tín ngưỡng dân gian có sự ngưỡng vọng nghĩa là phù hợp với bản chất dân tộc thì nhân dân lại lập đền thờ ở khắp mọi nơi và nó trở thành một phương thức sinh hoạt văn hoá của cộng đồng làng xã. Nó như nhu cầu cuộc sống, là sự tồn vinh của mảnh đất con người, là niềm hạnh phúc, lòng tin để nhà nhà bách tính được nhân khang vật thịnh, quốc thái dân an.
          Và huyền thoại Đại Càn Thánh Mẫu được hoà nhập, Việt hoá từ xa xưa, không phân biệt người Việt hay người Hoa, giống như Đức Phật ở Ấn Độ là vậy. Cũng vì lẽ đó mà đền thờ Đại càn tứ vị trở nên đa dạng, khó bề giải thích. Và từ một càn miếu phát triển đến hàng trăm đền thờ, đình thờ. Theo sách di tích lịch sử đền Cần do Phan Đình Phương biên soạn thì nơi thờ thần đền Cần được ghi trong “Bách Thần Ký”, số miếu, đền có tới 1057 chiếc. Đặc biệt thần tích đền tứ vị ở Hàm Thuỷ và trại Ninh Mật (Ninh Bình) lưu ở thư viện Hán Nôm số đền thờ thần ở Đền Cần lên đến 1964 chiếc.
          Trong thực tế số đền thờ thần đền Cần không còn nhiều. Nhưng nhiều nơi đã và đang tu sửa, phục hồi để thành tích có qui mô thu hút đông đảo khách hành hương. Đó là đền Cần, đến Hữu lập, đền Phú Đa, Phú Nghĩa ở Quỳnh Lưu; đền Vo Trung – Gia Lâm; đền Cơ Xá - quận Ba Đình; đền Nghĩa Dũng sau chuyển vào đường Thanh Niên – Hồ Tây; đền Hàng Than – quận Hoàn Kiếm… Nam Định có hàng chục đền thờ, đó là đền Ninh Cường, đền Hạ Lạc Chính - Trực Khang; đền Quần Anh - Hải Hậu… Ngoài ra các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Thái Bình, Hưng Yên… hiện tại vẫn có các đền thờ Đại Càn Thánh Mẫu.
Thật là:
         Hà sứ phong đào thiên địa bạch
         Thử gian miếu vũ nhật tinh hồng.

          (Đâu có sóng gió tung trắng trong trời đất thì có miếu đền sáng rực như sao và như mặt trời hồng).
          Cũng nhờ có giấc mộng vua Trần mà đền Cần thờ Thánh mẫu được xây dựng to đẹp, xin trích một câu có tính ôn lại lịch sử:
         “Phong ba hoán tỉnh Anh Tôn mộng
          Hương hoả do lưu Thánh mẫu từ.

      Thật là:
          Nam Độ dĩ lai phong phạm cựu
          Đông A nhi hậu cổn trường tân.

            (Từ khi vượt sang cõi Nam phong độ của Mẫu vẫn như cũ, từ thời Trần về sau luôn được sắc tặng biểu dương.)
          Sau này hải Thượng Lãn Ông trên đường thượng kinh chữa bệnh cho Trịnh Cán khi qua đền Cần cũng đề:
            Đại Tống cơ đồ thiên cổ hận
            Nam Thiên vũ trụ tứ thời xuân.

      Tạm dịch là:
              Đồ Đại Tống hờn nghìn thủa
              Vũ trụ trời nam xuân bốn mùa.
          Tục thờ mẫu tại xã Ninh C­ường huyện Trùc Ninh đã có từ xưa, sau này mới có tại Trực Khang.
          Tương truyền trẻ trâu xã Duyên Bình xưa, nay là Trực Khang chăn trâu cắt cỏ ở bãi sông Ninh Cơ nô nghịch bơi qua sông sang đền thờ Tống Thái Hậu ở Ninh Cường nhổ chân hương đem về lập ụ đất thờ ở bãi cỏ ven song. Thế rồi hàng ngày phân công nhau đứa củ khoai, đứa quả chuối, quả cam, có gì góp lấy đưa ra tháp hương khấn vái khi chăn trâu cắt cỏ với nhau rồi liên hoan. Tuần tuyết mồng một, tư rằm hàng tháng có khi còn góp cả gạo nếp để thổi cơm cúng thánh. Thế rồi động về làng, trâu bò cứ lăn ra chết hàng loạt chẳng hiểu làm sao. Hào Lý trong làng điều tra nguyên nhân rồi cho lập đền thờ Thái hậu. lúc đầu đền làm trên đất thôn Phụ Nghiêm, đến năm 1879 chuyển về xây tại thôn Lạc Chính to đẹp hơn. Đền gồm ba cung là Hậu cung, trung đường và tiền đường kèo cột toàn bằng gỗ lim, cánh cửa ô, ngưỡng cửa bằng đá. Trong đền ở cung chính điện có tượng Dương Thái Hậu ngồi trên ngai vàng đặt ở cung cấm không mấy khi cửa được mở trừ ngày chính kị vào mồng 7 tháng giêng. Xưa kia cứ vào tối ngày mồng 6 tháng giêng thì làng tổ chức rước Mục đồng (trẻ trâu) để ôn lại tích xưa đền thờ là do trẻ trâu lập lên. Cứ mỗi con Trâu trong làng đóng một quan gạo nếp để làm xôi tế cáo thánh vào chiều ngày mồng 6. Tế cáo xong làng tổ chức hội trâu, thi trâu khỏe đẹp rồi mỗi trẻ trâu cầm một bó đuốc rước quanh làng, đi trước là hai hang cờ thánh, chấp kích, bát biểu các đoàn tế nam quan, nữ quan, đoàn các phật tử trong làng ngoài xã cùng các đội phường động, múa lân trống phách láo nhiệt vào những ngày đầu xuân năm mới. Những năm cả nước có chiến tranh làng không tổ chức rước nhưng hiện nay hang năm vào chiều mồng 6 tháng giêng làng đã khôi phục lại tích xưa nhưng không có trâu vì trâu đã được thay bằng máy.
          Ngoài đền thờ Tống Thái Hậu làng còn có đền thờ Triệu Quang Phục (tuần tiết ở cửa biển Đại Nha). Các thôn trong xã Duyên Bình xưa chỉ có Làng Lạc Chính là được thờ Triệu Quang Phục. Người ta quan niệm làng to ( anh cả thờ cha) còn lại các làng khác đều thờ Trần Hưng Đạo. Từ đền thờ Dương Hậu và chùa đi qua hang cây gạo rực đỏ đường làng qua gốc đa gù đến hang chục người ôm không xuể đến đền thờ Triệu Quang Phục của thôn Lạc Chính, sang đền thờ Trần Hưng Đạo và chùa Nam Trực có cây đa con ngựa to cao hàng chục mét xuống đền thờ thánh Tứ và chùa Bình Quang Tự, lên đền thờ Trần Hưng Đạo của thôn Thái Bình tạo thành vòng khép kín cho đoàn rước kiệu thánh vòng quanh xã vào những ngày kỵ đức thánh Triệu trong những ngày tháng tám giỗ cha vòng quanh xã.
          Tương truyền thời kỳ mở đất dân xã Duyên Bình có đánh nhau với dân huyên Nam Chân làm chết người. Dân làng Lạc Chính có người bị chết, người Lạc Chính của huyện nam Chân để lại xác chết ăn vạ. Theo gió mây bay mùi người chết đến đâu thì đất đai của họ đến đó. Dân Duyên Bình có người làm quan không chịu mất đất, nhưng đã để đất mang tên Lạc Chính cho dĩ hoà vi quý với Nam Chân.
          Làng xã trước đây khoanh vùng theo đất đai do dân làng khai khẩn được, cho nên ranh giới giữa các làng thường theo hình da báo, một ít dân làng này ở nộn với dân làng khác. Ở xôi đỗ nên thường không chấp hành lệ làng, hương ước của nhau, Vì thế đã nảy sinh mâu thuẫn, đánh chửi nhau, kéo bè kéo cánh nên đã có câu quá lời:
                               ........................................
                               Ai chơi với nó cởi trần mà ra


          Bởi đã có một vài hộ dân như của làng Đông Thụ (người xã khác) lại vượt qua sống ở tròi vời người Lạc Chính nên với sinh ra mâu thuẫn là vậy
          Sau cách mạng tháng Tám 1945 thành công, do yêu cầu của cuộc kháng chiến, ngày 21/5/1947, Duyên Bình và Quĩ Đê là hai xã có đền thờ Triệu Quang Phục và Trần Hưng Đạo sáp nhập với nhau thành một xã đặt tên là Quang Hưng (lý do lấy tên Quang Hưng bởi Quang là Quang Phục, Còn Hưng là Hưng Đạo). Đến thời kỳ địch hậu, để tiện cho việc chỉ đạo kháng chiến, vùng đất Trực Khang ngày nay nhập về với xã Minh Tân (vì giặc đóng bốt ở chợ đền) chia cắt, nên sự chỉ đạo của xã Quang Hưng với vùng dân cư (nay là Trực Khang) vô cùng khó khăn, nên vùng đất ấy được tách khỏi Minh Tân về xã Quang Hưng như cũ. Đến tháng 6 – 1956, cải cách ruộng đất thì Quang Hưng đước tách làm 3 xã là Trực Khang, Trực Hưng và Trực Mĩ đồng thời chuyển các thôn Nội về Trực Thuận, trại A, B, C về Trực Nội, trại Duyên Thọ về Trực Đạo, trại 50 về Nam Thái, trại Phú Ngọc về Nam Hải. Năm 1965, xóm Khang Cù của Trực Khang được chuyển về Nghĩa Hiệp và xóm Hoàng Niên về Trực Thuận. Từ đấy Trực Khang chỉ còn có 3 thon là Lạc Chính, Nam Trực, Thái Bình và xóm Phụ Nghiêm tạo thành xã Trực Khang. Mảnh đất đã sinh ra những con người. Họ đã lăn lộn trên mảnh đất này vượt qua bão tháng bảy, mưa tháng ba, cần cù cải tạo đào xới vun trồng biến đất này thành hạt gạo, củ khoai như dòng sữa mẹ nuôi con người khôn lớn trưởng thành.
          Hoà Bình lập lại làng xã xóm thôn được tổ chức lại theo mô hình xây dựng hợp tác xã nông nghiệp. Các làng xã thường lấy đường quốc lộ làm ranh giới với nhau.Từ đường làng đến những cánh đồng, bến nước, nhánh sông được sử dụng trong việc điều chỉnh địa giới hành chính để hình thành ra 14 xóm đặt như hiệnnay. Địa giới hành chính xã Trực Khang được hình thành và ổn định từ đây (1965) cho tới hôm nay.

... còn tiếp ...




NĂM BÍNH THÂN VỚI NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ

          N hững tờ nhật lịch trên tường đã lần lượt rơi sắp đến tờ cuối cùng báo hiệu năm Ất Mùi sắp qua, năm Bính Thân sắp tới. Năm Bính Thân 2016, một năm sẽ có nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của cả nước như đại hội Đảng CSVN lần thứ XII, bầu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân dân các cấp sắp đến.
          Chúng ta hãy cùng nhau lên con thuyền thời gian đi ngược dòng lịch sử để xem lại những sự kiện lịch sử của đất nước trong  những năm Bính Thân đã qua:

1- Năm bính thân 696 trước công  nguyên

          Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ của văn hóa Đông Sơn - cũng chính là thời kỳ hình thành một nhà nước đầu tiên ở nước ta. Đó là nhà nước Văn Lang của các vua Hùng.
          Về sự thành lập nhà nước Văn Lang đời Hùng Vương, Việt sử Lược là bộ sử xưa nhất của nước ta còn lại đến nay chép rằng: “Đến thời Trang Vương nhà Chu (696-681 tr.CN), ở bộ Gia Ninh có người lạ, dùng ảo thuật áp phục được các bộ lạc, tự xưng là Hùng Vương, đóng đô ở Văn Lang, hiệu là nước Văn Lang, phong tục thuần hậu chất phác, chính sự dùng lối kết nút. Truyền được 18 đời đều gọi là Hùng Vương.Nước Văn Lang chia làm 15 bộ (vốn là 15 bộ lạc). Đứng đầu mỗi bộ lạc là Lạc tướng (còn gọi là Bộ chúa, Bộ tướng, Phụ đạo) cũng là những chức thế tập cha truyền con nối.

          2- Năm Bính Thân 1056 xây tháp Báo Thiên Tự (chữ Hán: 報天寺), tên đầy đủ là Sùng Khánh Báo Thiên Tự (崇慶報天寺), từng là một ngôi chùa cổ kính, tráng lệ, đồ sộ vào bậc nhất trong lịch sử Việt Nam[1]. Được xây dựng vào năm 1056, dưới triều đại của Hoàng đế Lý Thánh Tông, trong chùa có Tháp Báo Thiên là một trong An Nam tứ đại khí.
          Chùa tọa lạc tại thôn Tiên Thị, huyện Thọ Xương, (xưa gọi là phường Báo Thiên), gần hồ Lục Thuỷ (hồ Gươm), bên ngoài thành Thăng Long. Khu vực này ngày nay là phố Nhà Chung, nơi có Nhà thờ Lớn Hà Nội, Tòa khâm sứ cũ, cùng nhiều trụ sở Thiên Chúa giáo khác.

          3. Trần Thái Tông với sự kiện lịch sử năm Bính Thân 1236

          Trần Cảnh sinh năm Mậu Dần (1218) cùng tuổi với Lý Chiêu Hoàng.
          Nhờ Trần Thủ Ðộ thu xếp. Lý Chiêu Hoàng đã lấy Trần Cảnh và nhường ngôi cho Trần Cảnh (1225), lên làm vua, lấy niên hiệu là Trần Thái Tông. Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Thái Tông đã được 12 năm, tức là đã 19 tuổi mà vẫn chưa có con, trong khi triều Trần cần kíp phải có Hoàng tử. Bởi vậy Trần Thủ Ðộ bắt vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Thánh giáng xuống làm công chúa, rồi đem người chị của Chiêu Thánh là Thuận Thiên vợ của Trần Liễu đã có thai vào làm Hoàng hậu, Trần Liễu tức giận đem quân làm loạn. Vua Trần Thái Tông cũng đang đêm ngày9-5- 1236 (Bính Thân) bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử (Quảng Ninh) tỏ ý phản đối. Trần Thủ Ðộ đem quần thần tới đón về. Trần Thái Tông từ chối, nói rằng: Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc. Nói mãi không chuyển. Thủ Ðộ ngoảnh lại nói với các quan: Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đấy.
          Nói đoạn truyền lệnh xây dựng cung điện ở chùa Phù Vân. Vị quốc sư ở chùa vào van lạy Trần Thái Tông về triều. Trần Thái Tông bất đắc dĩ phải theo xa giá về kinh.
          Ðược ít lâu, Trần Liễu biết không địch nổi, đang đêm giả làm người đánh cá lẻn lên thuyền ngự xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Ðộ hay tin, tuốt gươm xông đến toan giết Trần Liễu. Trần Thái Tông lấy thân che cho anh, xin Thủ Ðộ tha cho Trần Liễu.
          Vua Thái Tông tha cho Trần Liễu, cắt cho đất An Sinh làm thái ấp và phong cho làm An Sinh vương.

4- Hội thề Lũng Nhai năm Bính Thân 1416

          Hội thề Lũng Nhai là một sự kiện trong lịch sử Việt Nam, do Lê Lợi cùng 18 người tổ chức tại Lũng Nhai vào mùa đông năm 1416. [1]
             Bài văn thề do Hoàng Xuân Hãn dịch, hợp chú 2 bản, bản của dòng họ Lê Sát và bản của dòng họ Đỗ Bí:
           Bui ! (cổ-ngữ đứng đầu các văn khấn)
          Năm đầu niên-hiệu Thiên-khánh là năm Bính-thân (1416), quá ngày sóc (mồng một) là ngày Kỉ-mão đến ngày 12 là ngày Canh-dần. Tại nước A-NAM, lộ Khả-lam, tôi là phụ-đạo Lê-Lợi đứng đầu, với Lê-Lai, Lê-Thận, Lê Văn-Linh, Lê Văn-An, Trịnh-Khả, Trương-Lôi, Lê-Liễu, Bùi Quốc-Hưng, Lê-Nanh, Lê-Kiểm, Vũ-Uy, Nguyễn-Trãi, Lưu Nhân-Chú, Trịnh-Vô, Phạm-Lôi, Lê-Lí, Đinh-Lan, Trương-Chiến,
          Chúng tôi kính cẩn đem lễ-vật, sanh-huyết mà thành-khẩn dâng lời tâu, cáo cùng Vua Trời, Hậu Đất và các thần linh bậc thượng, trung, hạ, coi các cảnh đẹp sông núi tại các xứ ta. Chúng tôi cúi xin rộng rủ lòng thương, soi xét để chứng cho việc nầy. Rằng có bạn từ xa tới kết tình vui-vẻ và rất tin nhau, cho nên phải làm lễ tâu cáo.
          Nay ở nước tôi, tôi phụ-đạo Lê-Lợi đứng đầu với 18 người từ Lê-Lai đến Trương-Chiến, tuy sinh khác họ, quê quán xa cách nhưng kết nghĩa cùng nhau, xem nhau như cành liền chung một tổ. Tuy phần vinh hiển có khác nhau, nhưng nguyện đem tình đối xử với nhau như người không khác họ.
          Nếu có bè đảng, vì muốn xâm-tiếm, tỏ vẻ xem chừng sắp vượt cửa vào để làm hại, thì:
          Ví bằng chúng tôi đây, Lê-Lợi với 18 người từ Lê-Lai đến Trương-Chiến, có đều hiệp lực đồng tâm chống giữ địa-phương để làng xóm được yên; nếu chúng tôi sống chết cùng nhau không quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh chứng giám cho, ban xuống trăm điều lành, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều được yên lành để đời đời hưởng lộc Trời.
          Ví bằng Lê-Lợi với 18 người từ Lê-Lai đến Trương-Chiến lại ra ý đổi đường, tìm sướng hiện-thời, mập-mờ sao-lãng, không chịu đồng tâm, bỏ quên lời thề ước, thì chúng tôi cúi xin Trời, Đất và các vị Thần linh phát xuống trăm tai, cho từ thân đến nhà, dòng-dõi, con cháu đều chịu giết sạch, đúng với luật Trời.
           Kính cẩn tâu trình

5- Sự kiện lịch sử năm Bính Thân 1536

          Năm 1536 một lần nữa Lê Trang Tông sai Trịnh Viên yêu cầu nhà Minh đánh họ Mạc.
          Hành động của vua Lê, kêu gọi người nước ngoài về đánh nước mình, trong đó có ý kiến cố vấn của Nguyễn Kim, không bị một sử gia nào lên án. Việc làm nầy đưa đến kết quả cụ thể là nhà Minh cử Cừu Loan làm tổng đốc, Mao Bá Ôn làm tán lý quân vụ đem 20 vạn binh mã sang ải Nam Quan năm 1540. Ngược lại, trong thế yếu, muốn tránh một cuộc chiến mà mình nắm chắc phần thất bại, đồng thời dân Việt sẽ một lần nữa bị đặt dưới ách thống trị trực tiếp của ngoại nhân như thời Mộc Thạnh, Trương Phụ, Mạc Thái Tổ, lúc đó đã lên làm thái thượng hoàng, như cố giáo sư Trần Quốc vượng Đánh giá Mạc Đăng Dung đành chấp nhận "đầu hàng giả vờ để giành độc lập thực sự" cho Đất nước và chấp nhận hy sinh danh dự cá nhân, lên ải Nam Quan (Lạng Sơn) chịu nhục. Nhờ sự nhẫn nhục của Mạc Thái Tổ,... Đại Việt trên danh nghĩa là lệ thuộc Trung Hoa, nhưng trong thực tế vẫn độc lập một phương được nhà Minh công nhận phong ấn tín,5 đời vua Mạc trị vì 65 năm (1527-1592) ở Thăng Long vẫn cai trị đất đai từ Lạng Sơn trở xuống, đâu có viên tướng Tàu nào bén mảng sang cai trị. Ai cũng bảo Mạc Đăng Dung đầu hàng nhà Minh vì quyền lợi gia đình họ Mạc, nhưng giả thiết, một giả thiết không bao giờ có thể quay lại được, Mạc Đăng Dung chống cự quân Minh như họ Hồ, nước ta bị tái đô hộ, thì nhân dân ta còn khổ biết bao nhiêu nữa. Đàng này, Mạc Đăng Dung một mình chịu nhục cho trăm họ bình yên. Người ta ưa ca tụng Hàn Tín khi nghèo khổ đã lòn trôn tên bán thịt chợ Hoài Âm (Trung Hoa) như là một gương nhẫn nhục đáng noi theo, nhưng chẳng một ai chịu chia sẻ với nỗi nhẫn nhục vĩ đại của Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung lúc đó đã là ông già 60 tuổi rất buồn tủi về sự kiện Nam Quan (Lạng Sơn) nên về nhà chưa được một năm, ông nhuốm bệnh từ trần năm 1541."
          Đi xa hơn nữa, tác giả còn so sánh hành động này của Mạc Đăng Dung với vua Lê sau ngày trung hưng về Thăng Long:
           ...(Theo Việt sử Thông giám cương mục,) "sau khi trở về Thăng Long, năm Bính Thân 1596 vua Lê Thế Tông (trị vì 1573-1599) cử người đem hình dạng hai quả ấn của nhà Mạc và vua Lê lên Nam Quan cho đại diện nhà Minh khám xét, nhưng quan nhà Minh không chịu, bắt vua Lê phải thân hành đến gặp. Vua Lê phải chấp hành, nhưng khi đến nơi đợi lâu quá không được gặp quan nhà Minh, vua Lê đành trở về, rối năm sau (1597) lên một lần nữa mới được hội kiến. Sự kiện nầy chẳng khá gì hơn việc Mạc Đăng Dung lên Nam Quan năm 1540..."
          "Học giả" Trần Trọng Kim thì lên án Mạc Đăng Dung như sau:
          "Mạc Đăng Dung đã làm tôi nhà Lê mà lại giết vua để cướp lấy ngôi, ấy là một người nghịch thần; đã làm chủ một nước mà không giữ lấy bờ cõi, lại đem cắt đất mà dâng cho người, ấy là một người phản quốc. Làm ông vua mà không giữ được cái danh giá cho trọn vẹn, đến nỗi phải cởi trần ra trói mình lại, đi đến quì lạy ở trước cửa một người tướng của quân nghịch để cầu lấy cái phú quý cho một thân mình và một nhà mình, ấy là một người không biết liêm sỉ."

6- Sự kiện lịch sử năm Bính Thân 1836

          Đặc biệt nhất sự kiện năm 1836 Vua Minh Mạng sai Suất đội thủy binh Phạm Hữu Nhật, người gốc đảo Lý Sơn chỉ huy thủy quân đi cắm cột mốc, dựng bia chủ quyền tại Hoàng Sa và Trường Sa, sau đó thành lệ hàng năm. Đại Nam thực lục chính biên Đệ nhị kỷ, Quyển 165 cũng đã chép rất rõ từ năm Minh Mạng thứ 17 (1836), Bộ Công tâu vua hàng năm cử người ra Hoàng Sa ngoài việc đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ và còn cắm cột mốc, dựng bia. Châu bản tập tấu của Bộ Công ngày 12 tháng 2 năm Minh Mạng 17 (1836) với lời châu phê của vua Minh Mạng cũng đã nêu rất rõ: “Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ (cột mốc) dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc.
          Đại Nam thực lục chính biên, Đệ nhị kỷ, quyển 6 còn ghi rõ : “Vua Minh Mạng đã y theo lời tâu của Bộ Công sai Suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc. Mỗi bài gỗ dài 5 thước rộng 6 tấc và dày 1 tấc, mỗi bài khắc những chữ: “Minh Mạng thập thất niên Bính Thân thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật phụng mệnh vãng Hoàng Sa tương đồ chí thử hữu chí đẳng tư (tờ 25b)”.
(Năm Minh Mạng thứ 17, năm Bính Thân, thủy quân Chánh đội trưởng suất đội Phạm Hữu Nhật, vâng mệnh ra Hoàng Sa xem xét đo đạc, đến đây lưu dấu để ghi nhớ).
          Vì sự kiện trên đã thành lệ hàng năm, nên Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (1851), Quyển 207, tờ 25b-26a và Quyển 221 đã chép lại việc dựng miếu, dựng bia đá, cắm cột mốc năm 1836 và lệ hàng năm phái biền binh thủy quân đi vãng thám, vẽ bản đồ…
          Về những tư liệu của Trung Quốc minh chứng chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người ta thấy:
          - Hải ngoại kỷ sự của Thích Đại Sán (người Trung Quốc) năm 1696. Trong Quyển 3 của Hải ngoại kỷ sự đã nói đến Vạn Lý Trường Sa khẳng định Chúa Nguyễn đã sai thuyền ra khai thác các sản vật từ các tàu đắm trên quần đảo Vạn Lý Trường Sa.
          - Các bản đồ cổ Trung Quốc do chính người Trung Quốc vẽ từ năm 1909 trở về trước đều minh chứng Tây Sa và Nam Sa không thuộc về Trung Quốc.
          Khảo sát tất cả bản đồ cổ của Trung Quốc từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào có ghi các quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả bản đồ cổ ấy đều xác định đảo Hải Nam là cực Nam của biên giới phía Nam của Trung Quốc.
          Sau khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng Hoàng Sa tháng 1/1974, nhiều đoàn khảo cổ Trung Quốc đến các đảo thuộc quần đảo này và “phát hiện” nhiều cổ vật như tiền cổ, đồ sứ, đồ đá chạm trổ trên các hòn đảo này, song đều không có giá trị gì để minh xác chủ quyền Trung Quốc, trái lại họ lại phát hiện ở mặt Bắc ngôi miếu “Hoàng Sa tự” ở đảo Vĩnh Hưng, tức đảo Phú Lâm (Ile Boisée) bằng chứng hiển nhiên vết tích của việc xác lập chủ quyền của Việt Nam.

7- Lê Duẩn và việc ra đời Đề cương cách mạng miền Nam năm Bính Thân (1956)
          Tháng 5-1954, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta thắng lợi, hiệp định Giơnevơ được ký kết, trong đó có nội dung rất quan trọng: “Các bên tham gia hội nghị thừa nhận về nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; việc hiệp thương giữa hai miền bắt đầu từ ngày 20-7-1955 và tổng tuyển cử tiến hành vào tháng 7-1956; quyết định lấy vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời ở Việt Nam”.
          Trong khi ta coi hiệp định Giơnevơ là cơ sở pháp lý quốc tế để tiếp tục đấu tranh hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước thì đế quốc Mỹ ngang nhiên không chấp nhận các điều khoản của hiệp định, xúc tiến kế hoạch xâm nhập vào miền Nam thay thế thực dân Pháp, xâm chiếm miền Nam bằng chính sách thực dân mới, đốc thúc ngụy quân, ngụy quyền tay sai ra sức phá hoại hiệp định bằng mọi biện pháp với thủ đoạn tàn ác và thâm hiểm.

Nội dung cơ bản của Đề cương cách mạng miền Nam: Bản đề cương gồm 5 phần:
          I- Ba nhiệm vụ chính của cả nước hiện nay.
          II- Mục đích, nhiệm vụ và đối tượng của cách mạng miền Nam.
          III- Yêu cầu và khẩu hiệu của cuộc đấu tranh cách mạng ở miền Nam.
          IV- Hình thức đấu tranh và khả năng phát triển của phong trào cách mạng miền Nam.
          V- Bài học lịch sử và những nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam.
   Kết luận.
          - Đề cương nêu rõ: Ngày 20-7-1956 đã không có tổng tuyển cử như Hiệp định Giơnevơ quy định. Nhân dân ta ở miền Nam đang rên xiết dưới ách áp bức, bóc lột, tù đày, chém giết man rợ, đất nước bị chia cắt và bị chiến tranh của Mỹ – Diệm hăm dọa. Tình hình đó buộc nhân dân phải vùng dậy đập tan chế độ Mỹ – Diệm để tự cứu mình. Đề cương nêu rõ 3 nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn đó. Ba nhiệm vụ đó là:
          1. Củng cố thật vững chắc miền Bắc.
          2. Đẩy mạnh đấu tranh cách mạng ở miền Nam.
          3. Tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân yêu chuộng hòa bình, độc lập dân tộc và dân chủ trên thế giới.

          8- Cải cách ruộng đất năm Bính Thân 1956 : Thực hiện người cày có ruộng, nam nữ bình quyền

          9- Cũng năm 1956 (Bính Thân) cả nước làm nghĩa cử cao đẹp là quy tập hài cốt liệt sĩ vào lăng và xây đâì Tổ quốc ghi công để tưởng nhớ công lao của những người con đã hy sinh vì tổ quốc.




NHÂN VẬT LỊCH SỬ SINH NĂM BÍNH THÂN

          1./Hứa Tam Tỉnh (1476-?): Tức Trạng Ngọt

          Ông là văn thần đời vua Lê Uy Mục, quê làng Vọng Nguyệt, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh.
          Ông đẹp trai, nổi tiếng văn học, đi thi khoa Mậu thìn 1508, ông đỗ bảng nhãn, 32 tuổi. Bấy giờ, vị trạng nguyên khoa này là Nguyễn Giản Thanh, tướng mạo kém ông. Khi các vị tân khoa vào chầu, nhà vua khen tướng mạo ông và gọi đùa là "Mạo Trạng nguyên" (Trạng nguyên dáng đẹp).
          Khi làm chức Thị thư, khoảng năm Quí dậu 1513, ông sung chức Phó sứ, sang nhà Minh. Về sau, ông lại làm quan nhà Mạc đến chức Thượng thư bộ Lại, tước Đôn giáo Hầu. Rồi cùng Nguyễn Văn Thái đi sứ nhà Minh, cầu phong cho họ Mạc. Lúc về, được tặng Thiếu bảo, lãnh việc dạy con vua Mạc.

2./Nguyễn Đôn Tiết (1836-?): Phó bảng, tham gia phong trào Cần Vương đánh Pháp.

          Nguyễn Đôn Tiết là người làng Thọ Vực, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hóa.
          Năm Kỷ Mão (1879), ông đỗ Phó bảng, làm Tri phủ một thời gian. Sau tháng 7 năm 1885, hưởng ứng dụ Cần vương, ông về quê chiêu mộ quân rồi tham gia chiến đấu trong cuộc khởi nghĩa ở Ba Đình (thuộc Nga Sơn, Thanh Hóa).
          Tháng 3 năm 1886, ông bị quân Pháp bắt được, đày đi Côn Đảo, rồi mất tại đấy (1887), hưởng dương 51 tuổi.

3./Hoàng Ngọc Phách (1896-1973): Nhà giáo, tác giả cuốn Tố Tâm.

          Quê ở làng Đông Thái xã Yên Đường (nay là xã Tùng Ảnh) tổng Việt Yên, huyện Đức Thọ tỉnh Hà Tĩnh.
          Suốt 20 năm dạy học dưới chế độ thực dân do có liên quan xa gần đến phong trào yêu nước trong các trường đại học ông luôn bị chuyển đến hết nơi này đến nơi khác.
          Năm 1935 về dạy học tại Bắc Ninh nhiều lần giữ chức Giám đốc học khu Bắc Ninh cho đến tận Tổng khởi nghĩa. Cách mạng tháng Tám thành công ông giữ những trọng trách trong ngành giáo dục, sau ngày hoà bình lập lại ông công tác ở Ban tu thư Bộ giáo dục, tham gia sưu tầm biên soạn các công trình về văn học cổ điển, cận đại dân gian Việt Nam.
          Lịch sử văn học Việt Nam đã chọn Hoàng Ngọc Phách làm người thể hiện những bước chuyển về chất ấy - người mở cánh cửa đầu tiên cho nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại. Với tác phẩm “Tố Tâm” của Hoàng Ngọc Phách đã tạo nên một cuộc cách tân lớn trong nghệ thuật.
          Hoàng Ngọc Phách không chỉ là một nhà văn có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học và sự trưởng thành của khoa học xã hội mà ông còn là một nhà giáo thế hệ của những người khai sinh ra nền giáo dục của chế độ mới.

4./Hồ Tùng Mậu (1896-1951): Chiến sĩ yêu nước hoạt động cách mạng nhiệt thành.

          Hồ Tùng Mậu tên khai sinh là Hồ Bá Cự, khi xuất dương sang Thái Lan hoạt động mới mang tên Hồ Tùng Mậu và trở thành tên gọi chính thức đến khi qua đời.
          Ông  người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An. Xuất thân trong một gia đình có truyền thống khoa cử, truyền thống yêu nước.Hoàn cảnh gia đình, quê hương, xã hội đã sớm hun đúc tinh thần yêu nước cách mạng, căm thù đế quốc. Cuối tháng 4/1920, Hồ Bá Cự từ giã vợ, con nhỏ sang Thái Lan, rồi 3 tháng sau được sang Trung Quốc tìm gặp các nhà cách mạng tìm gặp các nhà cách mạng Xứ Nghệ đang hoạt động ở đây là Phan Bội Châu, Hồ Ngọc Lãm v.v... Tại đây, Hồ Tùng Mậu cùng Lê Hồng Sơn lập ra Tâm Tâm xã, tập hợp số thanh niên hăng hái kiên quyết cùng chí hướng, hy sinh quyền lợi cá nhân, cùng nhau mưu đồ giải phóng dân tộc.
          Sau khởi nghĩa ông được giao nhiều nhiệm vụ: Phụ trách trường quân chính Nhượng Bạn, Chủ tịch Uỷ ban kháng chiến Liên khu IV, Uỷ viên thường vụ Liên khu uỷ, Tổng thanh tra Ban thanh tra Chính phủ, Hội trưởng Hội Việt Hoa hữu nghị. Ở bất kỳ địa vị công tác nào, ông đều hăng hái, nhiệt tình và phát động được cán bộ, nhân dân tham gia. Tại Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc tháng 2/1951, Hồ Tùng Mậu được bầu làm uỷ viên dự khuyết Ban chấp hành Trung ương và vẫn giữ các công tác cũ.
          Ngày 23/7/1951 trên đường công tác , ông hy sinh do bị máy bay Pháp ném bom.

5./Phạm Hồng Thái (1896-1924): Tham gia hoạt động phong trào Đông Du và là người đặt bom ám sát toàn quyền Đông Dương.

          Phạm Hồng Thái tên thật là Phạm Thành Tích, quê Nghệ An, là con quan Huấn đạo Phạm Thành Mỹ dòng giõi nhà Mạc. Là một người yêu nước, sớm tham gia các phong trào dân chủ, năm 1918 ông cùng với một nhóm thanh niên có tâm huyết theo Vương Thúc Oánh (thành viên Việt Nam Quang phục Hội) vượt biên qua Xiêm (Thái Lan) rồi sang Quảng Châu (Trung Quốc). Tháng 4 năm 1924, ông gia nhập Tâm Tâm Xã do Hồ Tùng Mậu, Lê Hồng Sơn thành lập.
          Chiều tối ngày 19 tháng 6 năm 1924, Phạm Hồng Thái đặt bom ám sát toàn quyền Đông Dương Meclanh. Vụ đặt bom thành công, bom nổ nhưng Mec-lanh thoát chết, chỉ bị thương. Bị cảnh sát phát hiện và truy đuổi ráo riết, Phạm Hồng Thái nhanh chóng thoát ra ngoài, nhảy xuống sông Châu Giang định bơi sang bên kia bờ. Nhưng dòng nước xoáy làm Phạm Hồng Thái không đến được điểm hẹn, ông đã anh dũng hy sinh. Sự kiện này đã được báo chí Trung Quốc và nhiều nước trên thế giới đưa tin nhiều ngày liền với tên gọi “Tiếng bom Sa Điện”.
          Nhân dân Quảng Châu cho đó là hành vi nghĩa liệt, đưa thi thể Phạm Hồng Thái mai táng ở chân đồi Bạch Vân. Sau này mộ Liệt sỹ Phạm Hồng Thái được chuyển về xây tại Nghĩa trang Trung ương Hoàng Hoa Cương, bên cạnh các Liệt sĩ Trung Quốc, mộ chí ghi “Việt Nam Phạm Hồng Thái Liệt sĩ chi mộ”

6./Khái Hưng (1896-1947): nhân vật trong nhóm Tự Lực Văn Đoàn với nhiều cuốn tiểu thuyết xuất sắc.

          Khái Hưng tên thật là Trần Khánh Giư, bút hiệu khác Nhị Linh, sinh năm 1896 tại làng Cổ Am, phủ Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương.Thuở nhỏ học chữ nho, rồi theo Tây học (lycée Albert Sarraut, có nơi ghi Paul Bert). Sau khi đậu tú tài Pháp, ban triết, Khái Hưng dậy ở tư thục Thăng Long, ở đây ông gặp Nhất Linh và thành lập nhóm Tự Lực Văn Đoàn với nhiều cuốn tiểu thuyết xuất sắc mở ra cả một phong trào sau này.

7./Vũ Đình Long (1896-1960):

          Ông Vũ Đình Long là người làng Mục Xá, xã Cao Dương,huyện Thanh Oai, Hà Nội. Ông là người khai sinh ra nền kịch nói Việt Nam bằng vở kịch Chén thuốc độc (1921).Ông là một người suốt đời phấn đấu cho một nền đạo đức trong sáng, giữ vững thuần phong mỹ tục của dân tộc. Ông là người có công lớn trong việc chấn hưng và phát triển nền văn học nước nhà. Ông mở Nhà xuất bản Tân Dân để tạo điều kiện cho các nhà văn phát triển tài năng. Dưới con mắt tinh đời của ông, nhiều nhà văn đã được khích lệ và trở thành những nhà văn lớn của Việt Nam. Nhà xuất bản Tân Dân là một nhà xuất bản lớn vào loại nhất của Việt Nam trước Cách mạng Tháng 8.1945.
          Ông là người sống trong sạch, không vụ tiền tài, tiền công diễn các vở kịch của ông thời ấy, ông không nhận mà là để góp phần công đức nuôi dưỡng các trẻ em mồ côi.

8- Nguyễn Đình Đống còn có tên là Nguyễn Đình Dĩnh, húy là Nguyễn Đình Tôn, thụy Mẫn Nhuệ, trực hệ đời thứ 10 của dòng họ Nguyễn Hoành Từ, hậu duệ đời thứ 16 của anh hùng dân tộc, công thần khai quốc Thái sư Cương Quốc công Nguyễn Xí. Ông sinh năm Bính Thân (1716), tại làng Phương Duệ, tổng Hoa Duệ, phủ Kỳ Hoa, trấn Nghệ An (nay là làng Hưng Mỹ, Cẩm Thành, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh) - là nhân vật lịch sử Thế kỷ XVIII.
  Ban đầu ông xuất thân theo đường binh nghiệp, tham gia trấn áp cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật dưới quyền Trấn thủ Nghệ An Bùi Thế Đạt. Nhờ có quân công, ông được thăng thưởng tước Dĩnh Vũ hầu.
          Khi Hoàng Ngũ Phúc đem quân vào nam đánh họ Nguyễn, Dĩnh Vũ hầu Nguyễn Đình Đống được phong chức Tiền Tướng quân. Ông tham gia nhiều trận đánh lớn với quân Nguyễn. Khi đánh đồn Hối Miệt ở Quảng Nam, Nguyễn Đình Đống bắt được mẹ và vợ của Định vương Nguyễn Phúc Thuần, người cậu là Nghiêm Quận công Nguyễn Phúc Nghiễm. Sau đó, Nguyễn Đình Đống tham gia các trận đánh Cẩm Lệ, Cẩm Sa giao chiến với quân Tây Sơn của Nguyễn Văn Nhạc, Tập Đìnhư và Lý Tài. Do quân công, ông được phong tước Quận công (gọi là Dĩnh Quận công), hàm Thái bảo.
          Khi Hoàng Ngũ Phúc mất, ông được cử ở lại Phú Xuân phụ tá cho Bùi Thế Đạt lĩnh chức Bình Nam Phó Tướng quân kiêm Đốc lĩnh Thuận Hóa.
          Nguyễn Đình Đống mất trước khi Tây Sơn chiếm Phú Xuân. Ông được chôn ở quê nhà làng Phương Duệ, tổng Hoa Duệ, phủ Kỳ Hoa, trấn Nghệ An (nay là làng Hưng Mỹ, Cẩm Thành, Cẩm Xuyên, Hà Tĩnh), thọ 67 tuổi.





NĂM BÍNH THÂN VỚI NHỮNG SỰ KIỆN LỊCH SỬ (2)

          T heo cổ sử thì: Trần Cảnh sinh năm Mậu Dần (1218) cùng tuổi với Lý Chiêu Hoàng. Nhờ Trần Thủ Ðộ thu xếp. Lý Chiêu Hoàng đã lấy Trần Cảnh và nhường ngôi cho Trần Cảnh (1225), lên làm vua, lấy niên hiệu là Trần Thái Tông. Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Thái Tông đã được 12 năm, tức là đã 19 tuổi mà vẫn chưa có con, trong khi triều Trần cần kíp phải có Hoàng tử. Bởi vậy Trần Thủ Ðộ bắt vua Trần Thái Tông bỏ Chiêu Thánh giáng xuống làm công chúa, rồi đem người chị của Chiêu Thánh là Thuận Thiên vợ của Trần Liễu đã có thai vào làm Hoàng hậu, Trần Liễu tức giận đem quân nổi loạn. Vua Trần Thái Tông cũng đang đêm một mình một ngựa bỏ trốn lên chùa Phù Vân, núi Yên Tử (Quảng Ninh) tỏ ý phản đối. Trần Thủ Ðộ đem quần thần tới đón về. Trần Thái Tông từ chối, nói rằng: Trẫm còn nhỏ dại, không kham nổi việc to lớn, các quan nên chọn người khác để cho khỏi nhục xã tắc. Nói mãi vua không nghe, Thủ Ðộ ngoảnh lại nói với các quan: Hoàng thượng ở đâu là triều đình ở đấy.          
          Nói đoạn truyền lệnh xây dựng cung điện ở chùa Phù Vân. Vị quốc sư sợ mất chùa vào van lạy Trần Thái Tông về triều. Trần Thái Tông bất đắc dĩ phải theo xa giá về kinh.    
          Ðược ít lâu, Trần Liễu biết không địch nổi, đang đêm giả làm người đánh cá lẻn lên thuyền ngự xin hàng. Hai anh em ôm nhau mà khóc. Thủ Ðộ hay tin, tuốt gươm xông đến toan giết Trần Liễu. Trần Thái Tông lấy thân che cho anh, xin Thủ Ðộ tha cho Trần Liễu.    
          Vua Thái Tông tha cho Trần Liễu, cắt cho đất An Sinh làm thái ấp và phong cho làm An Sinh vương.    
          Ta hãy thử bàn về sự kiện này, trước đây mỗi học giả, mỗi nhà nghiên cứu nói một cách: đi từng việc một trước hết ta thấy việc Trần Liễu mất vợ, chiêu quân nổi loạn là: “vì trước hết Thái Tông đã nuôi nên tội ác cho Liễu”(ĐVSKTT 5tờ 10b5-11a2)hay Thái Tông lấy con anh làm con mình về sau Dụ Tông Hiến Từ  đều lấy Nhật Lễ làm con của Cung Túc đến nỗi cơ nghiệp họ trần xuýt nữa sụp đổ ( ĐVSKTT 5tờ11a3-5 )   
…     
          Nhưng vào đêm năm Bính Thân ( 9-5-1236) vua Trần Thái Tông bỏ triều chính đi về núi Yên Tử để tỏ ý phản đối thì sao? Nếu Trần Liễu không nổi loạn thì Trần Thái Tông có bỏ Triều không? Sự thật là Trần Thái Tông đã nghe theo hoặc phải nge theo Trần Thủ Độ trong việc thu xếp này. Không ít giấy mực đã chê bai, phê phán nào là : Em lại cướp cái bụng của vợ anh, nên người khác mới cướp vợ mình, loạn dâm với Thuận Thiên, nên mới mở mối ra đầu cho việc dâm loạn bỉ ổi chưa từng có của Trần Dụ Tông sau này. Có người bảo Trần Thái Tông không giết Trần Liễu là nhân, có phải là nhân hay lẽ trời chưa định?     
          Sự thật thì Trần Thái Tông đã một mình một ngựa vượt núi băng ngàn qua bao suối sâu núi cao hẳn ngựa cũng chùn chân mỏi gối lên chùa Phù Vân ở núi yên Tử gặp bạn cố giao để tâm sự. Nghe xong mọi điều vị quốc sư có màu sắc chính trị này đã khuyên với lời lễ rất thật như sau này Trần Thái Tông kể lại: “Trong núi vốn không có phật, Phật ở ngay trong lòng. Lòng lặng mà hiểu, đó chính là chân Phật. nay nếu bệ hạ giác ngộ tâm đó thì lập tức thành Phật, không nhọc nhằn tìm kiếm bên ngoài.” hay khi Quốc sư cầm tay Trần Thái Tông nói: “ Phàm làm bậc nhân quân thì phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình. Nay thiên hạ muốn đón bệ hạ về thì bệ hạ không về sao được! Duy có việc nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng chút sao nhãng mà thôi.” Đây là lời khuyên mang bản sắc chính trị Đại Việt thế kỷ XIII của môt quốc sư.    
          Nghe ra, Trần Thái Tông đã buộc phải xa giá về cung.    
Trong văn bản Khoá Hư lục, có bài. “Tự Thiền Tông chỉ nam” của Trần Thái Tông viết. Ông kể lại sự việc năm 1236 đang đêm bỏ cung điện vào núi và lý do trở về.  Có lẽ ít thấy trong lịch sử Phật giáo nước nào lại nêu vấn đề “quốc gia xã tắc” lên trên hết, trước hết như thế. Thái độ đối với “quốc gia xã tắc” là thước đo giá trị của mỗi người, bất kể họ ở cương vị nào. Nghe theo quốc gia xã tắc, Trần Thái Tông đã trở về triều để 22 năm sau đã lãnh đạo nhân dân Ðại Việt phá tan quân Nguyên. Trần Thái Tông là người có tính cách đặc biệt. Lúc làm vua thì thân làm tướng đi đánh giặc “xông vào mũi tên hòn đạn”, làm vua xem thường vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc. Ông là gương mặt văn hoá đẹp và lạ đến khác thường trong lịch sử Viêt Nam.     
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đầu năm Ðinh Tỵ (1257), Thái Tông biết dựa vào Trần Thủ Ðộ, Trần Quốc Tuấn (Tức Hưng Ðạo Vương, con của Trần Liễu) để lãnh đạo nhân dân Ðại Việt quyết chống giặc. Bản thân Trần Thái Tông cũng tự làm tướng đi đốc chiến, xông pha nơi hòn tên mũi đạn. Lại nói lại tại sao Trần Thái Tông không giết Trần liễu? mà tại sao lại giết ? Nếu giết Trần Liễu ( Bố đẻ Trần Quốc Tuấn), anh trai mình thì liệu có được sự hợp tác của Trần Quốc Tuấn không? Như ta cũng thấy được bí quyết thắng giặc của thời Trần là: “ Vua tôi đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước gắng sức…”(Việc Trần Thái Tông không giết Trần Liễu cũng là lẽ trời để cho người đời mới nói được câu đó).     
Còn “đồng tâm” ở chỗ nào trong sự kiện này? sự việc mà Trần Thủ Độ bắt Trần Thái Tông bỏ hoàng hậu Chiêu Thánh để lấy vợ anh trai mình là Thuận Thiên khi đang có thai. Qua sự việc này có người cay nghiệt phán rằng trần Thủ Độ sui đểu, sui bậy. Ta hãy đặt mình vào cương vị của Trần Thủ Độ trong lúc tình hình thế giới  đang có những biến chuyển không có lợi cho ta như quân Nguyên Mông chuẩn bị tấn công xuống phía Nam đánh Tống và cũng không ngoại trừ Đại Việt. Việc đoàn kết toàn dân để một lòng chuẩn bị chống giặc giữ làng là hàng đầu, muốn thế càng phải chính thức hóa ngôi vua Trần ( Nghĩa là phải có một hoàng tử mang dòng máu Lý Trần) để khỏi mang tiếng là cướp ngôi nhà Lý. Mà khi đến tuổi 19 rồi mà hai người ( vua và hoàng hậu vẫn chưa có con) sốt ruột quá nên buộc lòng Trần Thủ Độ phải làm như vậy. Điều này có phải cách mà Trần Thủ Độ đã nhìn xa trông rông để đặt xã tắc lên trên  hay không? Trần Thái Tông chắc đã nghe ra nhìn thấy trước được nên phải nghe theo là vậy. Chúng ta không phủ nhận luân thường đạo lý mà bất cứ xã hội loài người nào cũng dùng làm thước đo để đánh giá hành vi xã hội của một con người. Nhưng trong trường hợp này trần Thủ Độ đã có cái nhìn luân thường theo góc độ mới mà bây giờ ta gọi là cách mạng cho nên Trần Thủ Độ mới có thái độ rất quyết liệt.     
          Trần Thái Tông đã trở thành ông vua anh hùng cứu nước. Nhưng Thái Tông được sử sách lưu truyền còn bởi ông là một nhà Thiền học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, một cốt cách độc đáo, là tác giả Khoá hư lục, một cuốn sách xưa nhất hiện còn giữ được trong kho thư tịch cổ nước ta.    
          Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái Tông nhường ngôi cho Thái tử Trần Hoảng, một cách tập sự cho thái tử làm quen việc trị nước. Triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng cùng trông coi việc nước.    
          Thái Tông trị vì được 33 năm, làm Thái Thượng hoàng 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.  




HÒA THƯỢNG PHẠM QUANG TUYÊN

          T hường gọi là cụ Cổ ( húy là Viêm tự Quang Tuyên, pháp hiệu là Giác Linh, sinh năm 1951 tại Quần phương trung, huyện Hải Hậu nam Định). Xuất thân trong một gia đình Trung lưu phúc hậu, thân phụ là ông Phạm Đức Miện một bậc túc nho trong làng, thân mẫu là bà Trần Thị Hương hiệu Từ Hoa một gia đình có truyền thống kính tín đạo Phật. Thủa thiếu thời ngài có tư chất thông minh hiếu học, từng dự các khoa thi triều Nguyễn và đã đỗ cử nhân. Do có tri thức và lòng yêu nước nên cuối thế kỉ XIX ngài tham gia phong trào Cần Vương. Khi vua Hàm Nghi bị bắt, Tôn Thất Thuyết trốn sang Trung Quốc, phong trào Cần Vương thất bại, chí nguyện xả thân vì nước không thành, người không thể đi với bọn người giá áo túi cơm xênh xang dưới bóng kẻ ngoại bang nên đã từ bỏ con đường công danh ảo mộng, cuộc đời giả huyễn vô thường chọn cửa Thiền làm nơi gửi gắm tâm nguyện với dân với nước. Người là một trong số học trò giỏi của sư tổ Liên Phái trở thành một luật sư ( ngài chuyên làm luật nhà phật)
          Khoảng ngoài năm 1890 ngài về Xuân Thủy xuân trường Một mảnh đất đa phần là bãi lầy đầy sú vẹt đến thế kỉ thứ XV mới hội tụ cư dân các nơi về đây quai đê lấn biển khai hoang, thau chua rửa mặn hình thành lên làng xóm. Có người là có chùa thờ Phật, mỗi làng đều có một chùa tuy nhiên trước đây ngôi chùa cũng chỉ là dắp đất, tranh tre lứa lá Nhưng từ khi về ngài đã vận đông nhân dân trong làng  đốt vôi , đóng gạch, khai thác vỏ sò ven biển để xây chùa Thủy Nhai. Ngôi chùa được hình thành giống như ngôi chùa hiện nay nhưng to cao lông lẫy hơn. Phía trước chùa có hồ nước thả cá. Có cầu bắc qua ao để vào chùa. Phía trước ao chùa có cổng tam quan nguy nga to đẹp. HT Phạm Quang Tuyên đã có bài thơ:
Thủy Nhai sơn thủy hữu tình
Quy mô nội ngoại in hình bày ra
Đào dương cảnh sắc lớn thay
Không đầy một tháng lên ngay tòa chùa
Thuận am cũng gần Đồ rô
Cảnh thanh ai dám mưu mô chủ trì
Tự nhiên vạn vật thiên kì
Quan Âm hóa phép tiên tri khác trần
Vào năm Quý Dậu sang dần
Sửa sang xây đắp nền nhân lâu dài
Ngắn tay sao với được trời
Không gan mà hóa ra người có gan
( Mốc thời gian trong bài thơ này tôi cho rằng chỉ để cho vần)
          Khi xây xong chùa ngài hoạch định đất đai xây tường rào gắn mảnh sành không cho kẻ trộm vào chùa. Việc làm này có người chê là ác nên cụ bỏ chùa giao lại cho người em là cụ phó Rồng cùng dân làng trông coi.
          HT Phạm Thế Long nguyên quán Hải Anh , Hải Hậu nhưng là người sinh ra và lớn lên ở ngôi chùa này vì bố ngaì là ông phó Rồng  (em HT Phạm Quang Tuyên) đã cùng vợ lên xây dưng chùa Thủy Nhai đến năm 1908 thì đẻ ra ông Cóc ( tên của HT Phạm Thế Long lúc bé) ở đây. Đến năm 6 tuổi được HT bác cho đi tu ở đây dưới  sự bảo trợ của bố mẹ.
          HT Phạm Quang Tuyên về xây chùa Thôn Nội ở Nam Thanh Nam Trực bây giờ cũng bằng vôi gạch và vỏ sò ( Hiện nay chuà Thôn Nội vẫn còn một bức tường nhà tổ bằng vỏ sò). Một hôm ngài đi vắng hương lý trong làng ra chùa đánh cá ở ao lên ăn. Khi về biết chuyện ngài lại bực mình bỏ đi. Nhân dân Cổ lễ đón được cụ về cụ lại bắt tay xây chùa cổ lễ.
          Chuyện kể rằng: 
Năm 1902 sư cụ cổ Phạm Quang Tuyên được nhân dân Cổ Lễ đón về, cụ  bắt tay ngay vào việc chuẩn bị xây chùa. Mới đầu cụ đúc một con trâu bằng vàng rồi đưa vào triều đình tâu với vua:
Bần tăng ở Cổ Lễ bới đất nhặt cỏ thấy có vật lạ vào trình vua.Vua Khải Định tuổi Sửu nhận được con trâu bằng vàng phấn khởi hỏi:
 - Bần tăng  cần gì?
          - Bần tăng muốn xây chùa ở Cổ Lễ .Vua cho chiếu chỉ xây ngay nhưng Cụ cũng chưa về ngay mà còn xuống các phòng của cung phi mỹ nữ để thông báo việc Cổ lễ xây chùa.các cung  phi mỹ nữ đưa tiền tiến cúng cụ không nhận mà còn nói “tài dị sát nhân”và mơì các quan bà khi nào xuống móng thì về dự lễ động thổ.
Khi đã có chiếu chỉ xây chùa cụ về bàn với nhân dân và hương hào lý bá trong làng việc xin đất  làm chùa, được nhân  dân ủng hộ ,chính quyền cấp đất ở ngay vị trí gần chùa cũ nơi đất thiêng tụ linh tụ khí tụ nhân tụ đức, có đất rồi, cụ chuẩn bị làm gạch nung vôi để xây chùa và bàn với xã quy ba ngôi chùa vào một (tam tự quy nhất tự) cho to đẹp phong cảnh.
Tự sư cụ đã hô hào đào ao vượt thổ lấy đất làm gạch vì vậy nên trong khuôn viên chùa có nhiều hồ , hai bên còn có sông nhỏ thông với sông Cổ Lễ để  ngôi chùa tách khỏi khu dân cư cho thanh tịnh và nằm gọn trong cái võng sơn thuỷ hữu tình.
Năm 1920 chùa Cổ Lễ xây xong toà chính cung đúc ra pho tượng đồng cao 3 thước 7 quả chuông cao hơn 3 thước. Xây đền cất phủ, đắp đường, mở chợ, xây hai cây giả sơn, cuốn 5 trường kiều.
          Chùa Chính hay còn gọi là Toà Chính cung cao 29m, một chiều cao hiếm thấy trong các chùa cổ Việt Nam.
          Năm 1920 khánh thành chùa Cổ Lễ HT Phạm Quang Tuyên lại có bài thơ:
          Nhất thốc lâu đài
Phiên âm:
          Vô biên công đức lạc đồng nhân
Hỷ kiến Thần Quang thế giới tân
Luân hoán kỷ niên danh thắng cảnh
Kinh dinh bất nhật phú từ vân
Thập phương lan cúc song song tú
Nhất thốc lâu đài điệp điệp xuân.
ý vị thiên ban nan hội giải,
Hân hồi thái Cổ Lễ phong thuần
                   Tạm dịch ( TT: Thích Tâm Vư­ợng)
Biết bao công sức của tiền nhân
Vui thấy Thần Quang thế giới tân
Thay mới m­ời năm lên thắng cảnh    
Mây lành che phủ áng từ vân  
M­ời ph­ương lan cúc chen chân tới    
Một khóm lâu đài nhúc nhích xuân
Mơ ư­ớc ngàn năm đâu dễ gặp
Nay về chốn Cổ Lễ phong thuần.

          Năm 1927 cụ xây tháp Cửu Phẩm Liên Hoa tr­ước cửa chùa cao 32 m.
          Cụ còn xây nhiều chùa khác kể có đến 30 ngôi chùa như chùa Mật lăng, chùa Trung Đông…
          Biên niên sử Phật giáo miền Bắc có ghi: “Ngày 30-4-1934 s­ cụ cổ  (Hoà thư­ợng Phạm Quang Tuyên) trụ trì chùa Cổ Lễ Nam Định một vị cao tăng công đức dựng và tu sửa nhiều chùa trong tỉnh Nam định viên tịch”. Tháp của ngài tại chùa Cổ Lễ có dòng chữ: Đại lão hoà th­ượng Thích Quang Tuyên đệ nhất truyền tăng tác động phái h­ơng quang tháp ma ha sa môn tỷ khiêu bồ tát giới pháp huý tự Quang Tuyên thích kỳ kỳ luật s­ư hoá thân bồ tát thiền toạ ngày (1951 -1934).
Chùa Cổ Lễ hiện nay còn lư­u giữ đư­ợc những tác phẩm văn, thơ, các bài kệ, khoa cúng, khoá tụng, khoá niệm, nội dung có những nét rất độc đáo, không giống bất cứ một sơn môn nào trong vùng, điều đó càng rõ nghĩa hai chữ “Kỳ Kỳ” pháp huý của Ngài.




tiểu thuyết LÃO HÓI

          Mở tập bản thảo tiểu thuyết “Lão Hói” mà nhà nghiên cứu Đồng Ngọc Hoa gửi qua email nhờ đọc và cho ý kiến, tôi thầm nghĩ: Vốn là người chuyên nghiên cứu phê bình, bây giờ lại viết tiểu thuyết thì đa tài thật.

          Đồng Ngọc Hoa nguyên sĩ quan kỹ thuật, tốt nghiệp đại học kĩ thuật quân sự, nhưng lại có khiếu làm báo. Ông là cộng tác viên báo quân đội và nhiều báo khác nhiều năm liền. Vào tuổi sáu mươi, ông mới gia nhập Hội khoa học lịch sử Việt Nam và Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh với vốn liếng là một tập phô tô với hàng trăm bài đăng báo và một giải thưởng báo chí trung ương. Vậy mà chỉ sau dăm năm, ông lần lượt cho ra đời mấy tác phẩm liền. Tác phẩm đầu của ông là cuốn Lịch sử Phật giáo huyện Trực Ninh. Đây là tác phẩm đầu tiên viết về lịch sử Phật giáo cấp huyện ở nước ta, được bạn đọc đánh giá cao, được nhận giải thưởng Văn học Nghệ thuật Lương Thế Vinh của tỉnh. Sau thành công này, Đồng Ngọc Hoa liên tiếp cho ra đời các tác phẩm mới như Ngôi chùa bên dòng sông, Lịch sử Phật giáo tỉnh Nam Định, Tuyển tập nghiên cứu phê bình Đồng Ngọc Hoa, Lâu đài của Phật và lịch sử đảng bộ và nhân dân của nhiều xã. Ông còn là đồng tác giả nhiều tuyển tập nghiên cứu phê bình khác. Cuốn Lịch sử Phật giáo tỉnh Nam Định của ông dày gần tám trăm trang, trình bầy mạch lạc nguồn tư liệu phong phú về lịch sử Phật giáo tỉnh Nam Định. Những tác phẩm viết về chủ đề Phật giáo là điểm sáng trong sự nghiệp nghiên cứu của ông. Cảm phục sức làm việc và thành quả của Đồng Ngọc Hoa, tôi có viết mấy câu tặng ông:
          Một thời mê mải việc quân
          Viết văn làm báo tuổi xuân trôi vèo
          Cửa Thiền không - sắc lần theo
          Hào quang Phật sử một chiều thăng hoa.
    Tên tiểu thuyết Lão Hói, ban đầu ông đặt là Người viết sử. Sau nghĩ lại, ông lấy tên Lão Hói đặt cho tiểu thuyết của mình.
    Lão Hói kể về cuộc đời từ khi lọt lòng tới khi tuổi đã ngoài bảy mươi với nét đặc biệt về hình hài, tính cách và những biến cố thăng trầm của nhân vật Lâm Thanh (tức Lão Hói).
    Lão Hói khác người từ khi mới được sinh ra: “Lúc mẹ đẻ ra, đầu lão chẳng có tí tóc nào, người bé tí khoảng hai cân. Người ta cứ bảo hay mẹ lão đẻ non nhưng không, lão khóc to như xé vải, không trách sau này lão là gã lắm mồm. Rồi sáu bảy tháng sau tóc lão cũng mọc, nhưng thưa hơn những bé bình thường. Khi mới ngoài bốn mươi tuổi lão đã hói. Người ta thường hói từ trán trở lên, lão lại hói từ đỉnh đầu trở xuống”.
    Tính cách, sở thích của Lão Hói cũng rất khác người. Lão nhớ ngày định kỳ cắt tóc như nhớ ngày lĩnh lương. Thợ cắt tóc phải cắt đúng theo bản vẽ tỉ mỉ chính xác như bản vẽ kỹ thuật mà lão thiết kế. Lão đòi chủ cửa hàng ăn phải phục vụ khách như phục vụ thượng đế. Thấy người giúp việc bê bát phở để hai ngón cái chấm vào nước bát phở, lão đòi đổi bát khác… Khi đã là sĩ quan quân đội, lão làm việc cần mẫn, thông minh, tính kỷ luật cao, thẳng thắn không khoan nhượng với những việc làm chạy theo thành tích, qua loa, vô trách nhiệm. Khi về hưu, lão trở thành người cầm cờ trong đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, cửa quyền ở địa phương, bất chấp bị trả thù… Những khiếm khuyết của lão trong tình cảm, hình thể được mô tả cụ thể, chi tiết nhưng không làm bạn đọc ghét lão. Lão cũng là người, có ưu có khuyết. Qua giọng kể của tác giả, tôi nhận ra hình tượng Lão Hói hiện lên rất chân thực.
   Qua tiểu thuyết Lão Hói, tác giả muốn cho người đọc biết về lớp thanh niên có học được đào tạo cơ bản phục vụ quân đội trong công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Lâm Thanh - Lão Hói, một chiến sĩ quân giới năng nổ, hăng hái nhiệt tình có trình độ, trách nhiệm luôn luôn làm hết sức mình. Ở tiền phương anh luôn xông pha xoay tìm hỏng hóc, ở hậu phương anh luôn miệt mài gia công sản xuất để đảm bảo cho súng pháo nổ dòn sẵn sàng tiếp sức cho tiền duyên, xứng đáng kế tiếp lớp quân giới của Ba Tơ anh hùng, của núi sông Việt Bắc, của chiến thắng Điện Biên vẻ vang. Người đọc cũng thấy được cuộc chiến tranh thần thánh giải phóng dân tộc của nhân dân ta với những hy sinh của tuổi trẻ trên khắp các chiến trường, khắp các lẻo đường chiến trận, kể cả của các chiến sĩ quân giới trên mặt trận thầm lặng mà ít người biết đến. Lão Hói là nhân vật trong số lớp trẻ đó. Cuộc đấu tranh chống tiêu cực, tự hoàn thiện mình của Lâm Thanh-Lão Hói cũng không phải không gay go quyết liệt qua chuyện phản đối vụ hàng ngàn chiếc kim hỏa của súng B40 không đạt yêu cầu, việc báo cáo thành tích giả qua chuyện nhập kho khống và người xấy thuốc ngủ quên đến việc buộc phải túm cổ áo trung úy trưởng phòng kế hoạch, cấm đốc công Phiên lấy số liệu để phát thanh làm lộ bí mật, làm cho chính ủy nhà máy cũng phải khiếp lão báo cáo về cục.
    Lão Hói cũng có gia đình và tình yêu tuổi trẻ, tình yêu thuở học trò. Lão cũng được yêu như bao nhiêu thanh niên khác. Người ta yêu mình thì chẳng có tội gì miễn là nói thẳng được như lão: “ Anh có vợ rồi” và giữ được tình bạn đẹp với cả những cô gái thích mình. Lão gần gũi với công nhân, hiểu tâm lý người thợ. Lão vốn là một học sinh giỏi văn, lại có duyên với công tác chính trị. Lão muốn làm nhà báo và đã chuyển về công tác ở báo Quân đội. Nhưng thủ trưởng đơn vị đòi lão về, vì nhà nước đã mất công đào tạo lão để phục vụ ở ngạch kĩ thuật. Lão vẫn phải gắn bó với nghề cho đến lúc về hưu, chấp hành phân công của tổ chức.
    Là một người có ý thức tổ chức, người vì dân, thương dân nghèo khó bị hành hạ qua chi tiết người chồng bế con lên nhà kho hợp tác xã nơi vợ bị giam vì thiếu sản để mẹ vạch vú đút qua song sắt cửa sổ cho con bú. Thương dân chết đói năm 1945 qua thống kê khi lão viết lịch sử xã. Lão tự hào với những chiến công của những người giữ đất giữ làng như liệt sĩ Hà Sĩ Hùng thà chết chứ nhất định không chịu rơi vào tay giặc, liệt sĩ Hà Tất Đạt bỏ tài liệu vào mồm nhai nuốt rồi đập cằm xuống bàn cho đứt lưỡi hi sinh trước mặt kẻ thù lúc chúng đang dụ dỗ anh khi bắt được. Lão ghét cay ghét đắng những kẻ gọi là đầy tớ của dân nhưng lại ăn bớt, ăn chặn ăn bẩn ăn vặt của dân, ăn cả lần trong lần ngoài, ăn cả cái đầu cúi tôn chổng của dân, ăn ráo cả phần của trẻ con qua lời thề của thằng bé đứng cửa buồng cắn móng tay nhìn cán bộ ăn xông ra nói: “Tôi thề với các ông là chỉ còn tý nước” nhưng rồi nước cũng chẳng còn.
    Lão rất yêu mảnh đất nơi sinh ra mình đó là xã Mỹ Khê, một xã anh hùng thời chống Pháp, được Thủ tướng Phạm Văn Đồng về thăm do có thành tích chăn nuôi dẫn đầu toàn Miền Bắc. Lão yêu con người làng mình, xã mình nên yêu cả những nghề phụ góp phần nuôi sống dân mình như nghề dệt chiếu và cả câu cáy lão cũng cho là một nghề vì làm ra những giọt nước chấm ngon hơn cả Chin-su khi nhấm nháp thấy mằn mặn, ngòn ngọt, thơm thơm tê tê mùi cà cuống.
   Nhưng rồi cái yêu làng yêu người đã làm lão gặp phải không ít khó khăn, khi chống lại cái xấu, cái ác, cái đểu, cái mà làm lão suýt đến mất mạng trên mặt trận chống tham nhũng ngay tại chính quê hương mình. Nhờ có đồng chí đồng đội và nhân dân ủng hộ nên những kẻ xấu nơi một xã tưởng như bình yên đã được lôi ra ánh sáng, đã bị vạch mặt, kỉ luật để răn đe kẻ khác muốn nhấp nhổm làm cán bộ với mục đích lấy của dân làm giàu, lấy lại niềm tin của dân đối với đảng quang vinh.

    Tôi đọc từ đầu đến cuối tập bản thảo hơn trăm trang A4 luôn cảm thấy thú vị. Nghệ thuật kể chuyện theo thời gian một cách giản dị, giản dị tới mức tưởng ai cũng viết được, nhưng không, sự giản dị ấy lại là nghệ thuật sử dụng ngôn từ giúp bạn đọc dễ theo dõi cốt truyện. Mặc dù ít khi thấy tác giả miêu tả hình ảnh khung cảnh thiên nhiên hỗ trợ cho tả tình, nhưng giọng kể tự trào bù lại làm cho người đọc bị cuốn hút.
    Đọc hết tập bản thảo, tôi củng cố thêm cảm nhận ban đầu: Đúng là nhà nghiên cứu viết tiểu thuyết. Tiểu thuyết gồm 9 chương. Mỗi chương có thể đứng độc lập thành một tác phẩm với chuyên đề riêng, Mỗi chuyên đề đều có những kịch tính tuy chưa quyết liệt và được giải quyết ngay làm cho bạn đọc thở phào. Chín chương kết nối với nhau thành một nội dung liên hoàn lô gic: Tái hiện cuộc đời của nhân vật Lâm Thanh - Lão Hói. Có lẽ nghề nghiệp nghiên cứu ảnh hưởng, tác giả có lúc đi sâu vào một chuyên đề như Lịch sử xã, hay lịch sử một di tích… Nhưng chính những kết quả của ảnh hưởng nghề nghiệp này lại tái hiện hoàn cảnh lịch sử, cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta… là môi trường để nhân vật chính - Lão Hói bộc lộ tính cách.
   Là đồng nghiệp rất hiểu và quý trọng Đồng Ngọc Hoa tôi nghĩ: Lão Hói - Lâm Thanh trong tiểu thuyết phần nào cũng gợi lại cuộc sống, suy nghĩ, chiến đấu, lao động của một lớp người đi qua cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và những năm đầu đổi mới. Bạn đọc có nhu cầu nghiên cứu về họ có thể được phần nào thỏa mãn qua tiểu thuyết Lão Hói.

   Trần Mỹ Giống
    Nhà nghiên cứu phê bình

Chương I

          L úc mẹ đẻ ra, đầu lão chẳng có tí tóc nào, người bé tí khoảng hai cân. Người ta cứ bảo hay mẹ lão đẻ non nhưng không, lão khóc to như xé vải, không trách sau này lão là gã lắm mồm. Rồi sáu bảy tháng sau tóc lão cũng mọc, nhưng thưa hơn những bé bình thường. Khi mới ngoài bốn mươi tuổi lão đã hói. Người ta thường hói từ trán trở lên, lão lại hói từ đỉnh đầu trở xuống. Có người nói: “Hói như hắn thì không bị chết đột tử bao giờ”. Hôm lão say rượu ngã gục xuống bờ ruộng, vợ hắn phải vắt ngang qua yên xe để đèo về nhà, không chết thật.
          Bỏ cái tã nồi đen ra, đầu lão nhẵn thín như cái đít nồi đồng. Lão hay cắt tóc, lại cắt rất cầu kì. Lão nhớ định kỳ cắt tóc như nhớ ngày lĩnh lương hàng tháng. Hồi còn đóng quân ở Hà Nội, một lần chủ nhật được nghỉ, đi ăn sáng, tôi gặp lão cũng vào quán phở. Lão gọi:
          - Này bà chủ quán.
          - Dạ.
          - Tôi đặt bà bát phở ba đồng, không có mỳ chính. (Hồi ấy có tin đồn mỳ chính là để dùng ướp xác người chết) - nói rồi lão rút trong túi ra cái lọ Penexinin đựng đầy mỳ chính để cạch trên bàn, ngồi đợi. Lúc sau, một cháu bé lom khom bưng bát phở nghi ngút hương thơm ra đặt trước mặt lão. Lão nhìn cháu bé rồi gọi to:
          - Này bà chủ quán.
          - Dạ.
          - Tôi đặt bà làm phở chứ có đặt con bé này đâu mà nó bưng bát phở ra, hai ngón tay cái nhúng cả vào nước phở thế này thì ai ăn?
          Nghe thượng đế nói có lý, bà chủ quán chiều khách sai cháu bé bê bát phở vào. Bà trực tiếp bê ngay cái khay đựng bát phở lúc nãy ra cho lão. Ừ, lão hạch sách cũng có lý, nhưng cũng có thể là lão hâm. Tôi ăn xong, liền đi cắt tóc còn về tắm giặt cho hết sáng chủ nhật.
          Tại hiệu cắt tóc, tôi lại gặp lão. Vừa vào lão đã rút trong túi ra tờ giấy vẽ một cái đầu tóc mẫu, ghi chú kích thước chằng chịt. Nào là từ chân tóc ở cổ trở lên mấy phân thì nhẵn rồi xanh dần với góc độ vuốt lên tới đỉnh là bao nhiêu. Nào là bấm gáy vuông rộng bao nhiêu, vát lên hai mang tai góc độ bao nhiêu… Chìa bản vẽ cho thợ, lão hất hàm hỏi: - Ông có cắt được không?

          Ông thợ cắt tóc xem đi xem lại bản vẽ, xong lại ngó trước ngó sau cái đầu lão rồi trả lời:
          - Tôi cắt được.
          Lão ngồi vào ghế để thợ thi công đầu tóc lão theo bản thiết kế. Phải công nhận cái đầu lão sau khi cắt xong theo bản vẽ trông cũng được. Có bản vẽ như người ta xây cái nhà cũng có khác. Thợ đòi lão trả công gấp đôi bình thường. Lão không nói không rằng, soi gương trước, ngắm gương sau, nhìn bản vẽ một lúc lâu. Chừng như vừa lòng với công trình, lão gật đầu quyết định nghiệm thu… Lão móc ví đếm đủ tiền công, lại xòe ra thêm ba đồng thưởng cho thợ:
          - Đãi ông bát phở.
          Về già, đi cắt tóc không thấy lão đưa bản vẽ đi nữa, nhưng cái thú cắt tóc vẫn còn. Lão cắt tóc để chứng minh rằng lão không hói. Ai chê lão hói là lão chửi, chửi thậm tệ, chửi để chứng tỏ lão vẫn còn nhiều tóc chứ không phải hói, chửi để quên đi cái chuyện đẻ ra lão không có tóc. Lão chê mấy cha nhà quê cắt tóc đểu, không bằng thợ tỉnh ngày xưa cắt cho lão. Lão quyết tập đi xe đạp để còn định kỳ đạp xe lên tỉnh cắt tóc… Tôi về quê sang thăm bố lão, thấy lão đang nằm cong queo ở giữa sân, cái xe đạp đè lên người. Thấy lão bất động, tôi tưởng lão chết. Nhưng khi thấy tôi, lão gọi to: “Bác ơi! Bác đã về, bác giúp em một tay”. Tôi dựng cái xe đạp lên cho lão bò dậy, nhưng không được, cái xe đạp đã dính chặt vào lão. Thì ra cái giải rút quần ngố của lão cuốn chặt vào líp xích xe. Tôi lấy dao cắt dây rút quần ra lão mới dậy được. Lão hổn hển nói không ra hơi:
          - Bác biết không, em tập xe gần đi được rồi, nhưng hôm nay đạp sao nó nặng thế, không bon tí nào, thì ra là tại cái rút quần quấn vào xích líp. Em càng đạp nó càng kéo ghì em xuống, em cũng cứ đạp xem đứa nào thắng, đạp cho đến lúc nó kéo người em xuống lăn kềnh ra sân chân dưới chân trên em quặp chặt lấy cái xe đạp mà bánh của nó vẫn cứ quay. Em không biết làm sao mà gỡ ra được, Cuối cùng thì như bác biết. Cũng may mà ngã ở sân, chứ ngã trên phố tỉnh thì bán bêu bác nhẩy. Đã đến kỳ cắt tóc, lần này thì lão quyết không cắt mấy cái ông thợ đểu nhà quê. Lão đi xe ô tô ra tỉnh để cắt tóc. Lão xuống bến xe được xe ôm dẫn đường vào hiệu cắt tóc. Nhìn một lúc hắn thốt lên: chà, hiệu cắt tóc phải thế này chứ. Cắt cho lão là một phụ nữ khoảng ngoài ba mươi tuổi, trẻ đẹp, thỉnh thoảng làn tóc mây cứ xõa xuống mặt hắn. Lúc cạo mặt, mùi thơm nước hoa từ tóc mụ làm lão ngây ngất. Cái bụng đầy mỡ của mụ cứ cọ cọ vào tay, vào người lão làm lão tê mê. Lão nghĩ bụng: “Hơn đứt gái nhà quê…” Đến lúc lấy ráy tai, lão cũng không quên tỏ ra thành thạo bảo thợ lấy bên trái trước, bên phải sau nó mới không bị ho. Ho là nguy hiểm lắm. Nhưng lão có biết đâu cái nguy hiểm sắp đến với lão mà lão không biết. Lão nhắm mắt nằm im nghe cái dao lá lúa cạo xồn xột trong tai, lão tê mê người khi dụng cụ cứ làm buồn trong tai, chả biết có lấy được cái ráy nào không nhưng cũng thích ơi là thích. Lấy xong bên trái lẽ ra phải xoay ghế để lấy bên phải thì cô thợ lại chồm người qua mặt lão, dí cái ngực đẫy đà vào mặt lão, quờ tay sang lấy ráy tai bên phải. Lão cố mở mắt nhìn bộ ngực trắng nõn là cứ day đi day lại vào mồm, vào mũi lão. Lão không dám thở, bụng bảo dạ cứ nằm im xem sao. Lão cũng định mở mồm bảo nhấc lên một tý cho lão thở, nhưng lão lại nghĩ bây giờ mà mở mồm ra nói thì cái núm cương cứng bần bật nóng hổi kia đang quét đi quét lại trên môi hắn biết đâu sẽ nhảy tọt ngay vào mồm lão. Nếu vậy thì không biết chuyện gì sẽ sảy ra, chỉ còn nước bán áo đi mà trả tiền. Ví của lão không đủ tiền thật, tuy lão đã chuẩn bị đến vài trăm lên tỉnh để còn mua cái này cái khác nhưng chắc mụ vợ đã nắn mất một 100 đồng rồi. Thật là mất cảnh giác. Đã một lần lão đi ăn phở móc ví ra trả tiền thì chẳng có đồng nào, mụ vợ đã móc hết từ khi nào. Hắn phải bán cái áo com lê thật, mặc áo len về nhà cũng được rồi. Hắn cầm cái áo ra cửa, lũ con phe xúm lại đứa xem, đứa kéo, đứa giằng, đứa lộn áo ra kiểm tra, đứa trả cao, đứa trả thấp, lão bảo không được 200đ không bán. Bọn con phe cười ầm lên gọi nhau: “Chúng mày ơi lại đây xem lão hói bán cái áo 200đ này”. Lũ phe chạy lại càng đông túm vào ve vuốt lão nhà quê làm mặt lão đỏ tím ngượng như thằng ăn trộm bị bắt. Lão nghĩ lúc này mà gặp người làng thì không có lỗ mà chui…
          Người ta bảo lão hâm, mà có lẽ hâm to thật. Hồi lão mới về hưu, vợ lão đã chuẩn bị vật liệu để đổ cái hiên tây, bảo lão đi xem ngày nào tốt để còn làm, lão quắc mắt nhìn vợ quát:
          - Làm cái gì? Để tao còn phải đi báo cáo tổ chức đã chứ. (Lão quen như hồi còn ở đơn vị nhất cử nhất động là phải báo cáo tổ chức) vợ lão lại còn quát lại to hơn:
          - Tổ chức, tổ chức ngay cái... Tao có tiền có của tao làm chứ việc gì tao phải báo cáo đứa nào. Lại một cuộc ẩu đả giữa vợ chồng lão sảy ra làm inh ỏi xóm làng khi mụ vợ giám động đến cái tổ chức cao sang của lão. Lần đánh nhau này lão thua nên sáng mai lão lại phải chịu sự phân công của vợ đi tát nước cho ruộng lúa. Lão vác chiếc gầu kéo lên vai ra đồng kéo suốt từ sáng đến 11 giờ trưa. Không thấy lão về, vợ lão tưởng lão đi chơi, ra đồng kiểm tra thì thấy lão vẫn hí húi kéo nước xì xòm, nước ngập hết ruộng nhà hắn tràn bờ ngập ráo cả những thửa ruộng bên cạnh. Vợ hắn kêu làng kêu nước rồi lội xuống máng tát vứt gầu lên bờ, rút hai que tre trượt máng, lão tưởng đánh lão nên vác gầu chạy miệng lẩm bẩm: “Ngày nào cũng gây sự với ông, ông mà chết thì bòi cũng chẳng có mà ăn”. Lão cũng mua một con bò, hàng ngày đi chăn gọi là “trâu chăn bò dắt” cho nó có đẳng cấp. Hôm ấy, lão vừa dắt bò ra ngõ thì gặp đoàn cán bộ của xã và hợp tác xã đi thăm đồng đông lắm, có cả bí thư đội trưởng các đội, lão hô to:
          - Ơ! Hai con trâu nó cỡi nhau các ông kìa. Mọi người nhìn sang bên kia cầu đá thì thấy hai con trâu đang phủ nhau thật. Lão bảo: Trâu hợp tác xã đấy các ông ạ. Mẹ cha nó chẳng giữ đạo đức gì cả, rõ người làm sao của tào hao làm vậy. Tay chủ nhiệm hợp tác xã giờ lên chủ tịch biết mình bị chọc quay lại:
          - Này lão Hói chiều lên ủy ban nộp phạt nhá.
          - Phạt cái gì?
          - Phạt tội lão đùa với nhà chức trách hôm làm giấy chứng minh thư ấy. Lão nghĩ hôm công an huyện về xã làm chứng minh thư nhân dân, đến lượt lão đồng chí công an hỏi:
          - Họ tên?
          - Hòi Văn Búi. Công an tìm mãi trong danh sách bảo:
          - Không có Hòi Van Búi.
          - Hòi Văn búi là Bùi văn Hói mà.
          - Ông đùa với nhà chức trách hả?
          - Xin lỗi nhà chức trách. Chuyện có vậy rồi họ cũng cho qua, hôm nay chủ tịch lại bắt lên ủy ban nộp phạt là thế nào. Lão dắt ngay bò về thay quần áo chỉnh tề lên ủy ban. Đã mười giờ trưa, cỗ bàn phục vụ cho cán bộ đi thăm đồng đã xong. Ngoài đường bà con đi chợ về cũng đông, lão chạy ra ngăn bà con lại mời tất cả vào ăn cỗ. Mọi người đang đói thấy lão hói bảo vào ăn cỗ vào ngay, cứ hai, ba, bốn người ngồi một mâm ai vào trước ăn trước, vào sau ăn sau, còn bao nhiêu lấy phần hết sạch chục mâm cỗ. Cánh cán bộ đi thăm đồng về thì chỉ còn bát rếch. Từ đó dẹp được cái nạn ăn uống trên xã.
          Lão làm thơ đọc cũng vần đáo để. Mọi người nghe cứ bảo lão gửi cho báo tỉnh. Lão gửi thật, gửi đến năm sáu bài liền không thấy báo đăng, rồi lão cũng nhận được cái giấy báo của tòa soạn là:  “Chúng tôi đã nhận được bài của bạn, mong bạn tiếp tục cộng tác với tòa soạn”. Thế là lão mang cái giấy ấy đi khoe khắp làng. Khi người ta bảo: “Vậy là những bài lão gửi người ta không đăng rồi”. Lão tức đe bỏ tù tay tổng biên tập báo tỉnh vì lão viết về đề tài thương binh liệt sĩ mà thằng này phản động hay sao lại không đăng cho lão.
          Hồi lão học cấp 3 trường huyện lão cũng được vào tổ bồi dưỡng học sinh giỏi văn để đi thi miền bắc cơ mà. Lão học giỏi thật, chả vậy mà lão được mua cung cấp chiếc xe đạp thiếu nhi liên xô. Nhưng những bài văn của lão thầy cho về nhà làm chả mấy khi được điểm 4, cao nhất là điểm 4- (bốn trừ). Mặc dù bài lão làm cho bạn trọ cùng nhà để thay không phải thổi cơm thì được những 5 điểm. Quên cái điểm bốn điểm năm đi, lão tự hào nhất là hôm thi tốt nghiệp thầy hiệu trưởng dặn lão là: “ Em phải bảo bài cho Quang Hy ngồi bên cạnh” rồi Quang Hy cũng đỗ tốt nghiệp vào tổng hợp văn, ra trường về làm phóng viên báo nhân dân.
          Còn lão được chọn làm hồ sơ đi học ở Liên Xô. Chưa hết hè các bạn lão đã có giấy gọi đi học nước ngoài. Còn lão thì học đại học trong nước cũng không, mặc dù hồi ấy cứ tốt nghiệp phổ thông là vào ngay đại học, không phải thi cho đến mấy năm sau nữa. Lão chạy đôn chạy đáo hỏi ban tuyển sinh huyện tỉnh rồi về sau lão cũng được một người thịnh tình tiếc cho cái sự học của lão cho biết: “ Hồ sơ của lão bị giữ tại công an huyện”;

Chương II

          Rồi lão lại được gọi vào bộ đội đi học lớp kĩ thuật quân sự ( tiền thân của trường đại học kĩ thuật quân sự) để trở thành sĩ quan chỉ huy hệ cử nhân. Cả huyện chỉ có mình lão và Lê Minh Quý (con ông Lê Huy Đan phó chủ tịch huyện) được chọn đi đợt này. Trước hôm lên đường thầy hiệu trưởng Trạm Lê Văn thầy trực tiếp dạy môn văn cho lão lên chơi ngủ với lão một đêm căn dặn đủ điều. Tên thật của lão là Lâm Thanh, học xong Lâm Thanh được điều về công tại cục quân giới tổng cục hậu cần sau là tổng cục kỹ thuật bộ quốc phòng. Phòng làm việc của Lâm Thanh treo đầy tranh ảnh mặt cắt vả sơ đồ điện tử về các loại súng pháo, bàn làm việc là nơi để các chi tiết súng pháo nào máy nạp đạn, máy hãm lùi, máy ngắm…Lâm Thanh là người chuyên thiết kế các chi tiết thay thế cho những khẩu pháo cao sạ bị hỏng ở các trận địa kéo về sửa chữa ở các nhà máy. Giúp việc cho Lâm Thanh là Hạ Thúy một nhân viên kĩ thuật giỏi của phòng.
          Ăn cơm chiều xong, Lâm Thanh rủ Hạ Thúy đi chơi, Hạ Thúy nhận lời ngay nhưng bảo chờ em một lát. Thúy cầm bàn chải đựng trong hộp nhựa thuốc phóng B40 đi đánh răng. Từ ngày Lâm Thanh về đây công tác thấy mình là một sĩ quan trẻ đẹp trai thỉnh thoảng bắt gặp ánh mắt nhìn trộm của Hạ Thúy. Cô cao khoảng một mét sáu mươi, súng xính trong bộ quân phục Tô châu màu xanh, tóc dài cặp lửng ngang lưng để xõa mái tóc hai bên dập dềnh óng mượt che hai nửa má bầu bĩnh hồng hồng làm nổi lên cái cằm chẻ đỡ cặp môi hình trái tim đỏ tươi ướt mọng. Lâm Thanh và Hạ Thúy đi chơi, Lúc đầu Lâm Thanh đi trước rồi chầm chậm đi ngang Hạ Thúy trên con đường cấp phối đất đỏ au. Lâm Thanh đi thẳng, không vào nơi đã định với Hạ Thúy, cũng không thấy Hạ Thúy hỏi sao, Lâm Thanh nghĩ bụng mình đã dắt được nàng. Khi thấy ánh đèn pin loang loáng đằng sau, không để cho ai biết mình đi chơi đêm cùng Hạ Thúy, Lâm Thanh bảo Hạ Thúy chờ anh rồi một mình rẽ xuống bờ ruộng trồng thuốc lá. Những cây thuốc lá được sáu bảy lá đã che được ý đồ lẩn trốn của mình, Lâm Thanh càng rảo bước. Ánh đèn pin đã đi xa, Lâm Thanh quay lại, Hạ Thúy vẫn đứng chờ, hỏi chọc:
          - Anh bị đau bụng à? Lâm Thanh được dip sờ ngay vào bụng Hạ Thúy
          - Ừ, anh cũng đau bụng như em lúc chiều. Hạ Thúy cầm lấy tay Lâm Thanh nhưng không có ý dun ra, áp thấp nhiệt đới vẫn quanh quẩn ở tọa độ phố Rốn, không chuyển lên thành bão. Thế rồi tay phải Lâm Thanh quàng ngay lên cổ Hạ Thúy còn tay trái luồn từ bụng sang eo hông, hai người ghì chặt lấy nhau bên gốc cây sà cừ canh đường. Hạ Thúy cứ ngển cái cổ cao trắng ngần lên như dấu điều gì còn đôi môi lâm Thanh cứ dục vào cùng cái lưỡi thì thụt, chòm chọp từ cổ lên hai má nhũn nhặn, man mát, tê tê rồi mút chặt lấy môi dưới nóng hổi của bạn gái, còn Hạ Thúy chỉ biết bập bập bờ môi trên xuống mồm bạn khác giới. Cứ mỗi lần có ánh đèn pha ô tô lướt qua họ lại bỏ nhau ra, Lâm Thanh nhìn rõ hai má bạn mình hồng hồng tới tận mang tai rừng rực bên trên cái núm đồng tiền càng lún sâu khi hạ Thúy cười. xe đi qua họ lại ôm chặt lấy nhau như đang sợ điều gì. Đêm ấy họ làm việc tới khuya, thỉnh thoảng cái chân “Thầy Đề” lại tìm gác lên chân “cô Hến” ngồi ở bàn đối diện. Hạ Thúy dục: Anh không đi ngủ à?, em xong rồi đây. Mùi nước hoa quen thuộc của Hạ Thúy cứ cuốn hút Lâm Thanh đến lao lòng, họ nhìn thẳng vào nhau cùng im lặng thật lâu cho bõ những ngày yêu thầm liếc trộm. Cứ mười lăm ngày đầu tháng Lâm Thanh làm việc ở phòng thiết kế nhà máy với hàng trăm hàng ngàn các chi tiết súng pháo để cho các kĩ sư đo đo vẽ vẽ mải miết trong một phòng làm việc rất quân sự mà Lâm Thanh ước ao được khoe với bố mình nơi làm việc ở đây nếu như được bố anh lên thăm đơn vị. Cũng như phi công Nguyễn Văn Cốc dẫn mẹ leo lên tận bậc thang cao nhất và chỉ vào máy bay cho mẹ biết: “Đây là chỗ ngồi của con”.

          Lâm Thanh được cục giao nhiệm vụ đôn đốc việc cải tiến chân súng 12ly7. Gọi là theo rõi đôn đốc nhưng việc gì khó anh cũng phải ghé vai vào còn kiêm cả khâu tiếp vận nghĩa là chuyển bán thành phẩm từ khâu nọ đến khâu kia. Có lúc cùng với nhân viên của phòng kế hoạch vác mỗi người hàng chục chiếc ống chân 12ly 7 mới tiện xong từ X11 về X25 để mạ crôm. Quãng đường đi đêm xa tới trên 30km không có lấy một cái xe đạp để đi, làm cho giám đốc nhà máy ái ngại phải chào và dặn dò đến mấy lần khi tiễn các anh đi. Lúc đầu hai anh em còn hùng dũng lắm, mới một tiếng đồng hồ đã xuống tới gần Đông Anh. Qua trọng điểm này bụng đã bảo dạ nhưng cũng được bạn cùng đi nhắc chiều nay máy bay mỹ bỏ bom ở ga Đông Anh, qua đây ta phải cố gắng rảo chân. Đến lúc trèo qua cây đổ ngổn ngang chặn đường do bom địch bỏ lúc chiều, cố gắng đi quãng nữa cho hết quãng đường trọng điểm, hai anh em tiếp vận hàng quân sự ngồi vật xuống ngỉ bên vệ đê. Nằm gối đầu lên bao tải hàng ướt nhếp nhếp do thấm mồ hôi từ lưng áo ra Lâm Thanh mới thấy rõ ý nghĩa giảm từng cân (kg) của chân súng khi đã được cải tiến đối với bộ đội. Sương đêm đã lạnh, hai người rủ nhau sốc bao hàng lên vai đi tiếp. càng về khuya, chân càng mỏi, vai càng nặng, người càng gù xuống, bây giờ Lâm Thanh mới hiểu tại sao các nữ thanh niên xung phong hai tay hai gậy gù hàng leo dốc Trường Sơn, lúc đầu thì ai cũng hăng hái, cười nói râm ran, đến lúc nhọc rồi thì chẳng ai nói với ai điều gì, tất cả đều im như thóc ngâm, quần áo xộc xệch xu chiêng trồi cả lên trên chị em nào cũng thêm hai vú nữa. Ngồi giải lao họ tìm mọi thứ trong ba lô vứt được cái gì thì vứt đi cho đỡ nặng. Không còn cái gì vứt nữa có người còn mang cả cái bàn chải đánh răng ra để cắt ngắn sợi cước đi cho nhẹ. Giao ống chân súng cho xưởng mạ xong, Lâm Thanh vào nơi anh em đang làm cái súng hai nòng cho tướng Thiện nói: Các cậu làm khẩn trương lên, cụ ấy dục lắm rồi. trưởng phòng kế hoạch X25 kéo Lâm Thanh về phòng uống nước thì có tiếng xe con xin mở cổng, đoạn Nghi chạy vào: Báo cáo trưởng phòng tướng Thiện đến ạ rồi lại tự chạy ra đón. Bước từ trên xe xuống tướng Thiện nghe nghi:
          - Chào thủ trưởng ạ
          - Mày là thằng nào?
          - Báo cáo cháu là Nghi cán bộ phòng kế hoạch ạ.
          - Có Lâm Thanh đây không?
- Báo cáo có. Vừa lúc đó trưởng phòng kế hoạch
          X25 và Lâm Thanh cùng chạy ra nghe tướng bảo:
          - Dẫn xuống xưởng làm súng. Mọi người cùng đi, thấy phần nguội làm sắp xong, tướng mừng lắm. Việc làm khẩu súng hai nòng cho tướng Đinh Đức Thiện là việc làm cho Lâm Thanh ân hận mãi cho đến bây giờ với một chuyện không ngờ... Làm khẩu súng hai nòng cho tướng Thiện Lâm Thanh còn được cả vinh và nhục. Nhục là vì hôm ấy trời mưa phùn gió bấc Thanh đóng bộ vào, vác khẩu súng từ Đoàn hai ( nhà máy X25) sang X100 ở mãi cầu Diễn để làm khâu cuối cùng là nhuộm đen. Đi đến giữa Thủ đô thì người hắn nóng ran, bức bối. Lâm Thanh tụt ủng ra đi chân đất, cũng đã biết gỡ quân hàm bỏ túi cẩn thận rồi treo hai cái ủng lên hai đầu khẩu súng gánh tòong teng đi bộ giữa phố. Hắn vừa thấy thoải mái một tý thì kiểm soát quân nhân tút còi vây xung quanh. Người đi đường dừng lại xem cũng đông. Thế là Lâm Thanh được lên xe đi về trại giam Vĩnh Tuy của bộ tư lệnh Thủ đô. Chờ mãi không thấy Lâm Thanh lên. Có người bảo: Chú bộ đội vác khẩu súng hai nòng bị kiểm soát quân sự bắt rồi. Thế là tướng Thiện chửi um lên: Mẹ cha đứa nào lại dám bắt sĩ quan của tao rồi quay lại nói với giám đốc X100: “ các anh không biết phải làm gì à?”
Khoảng nửa tiếng sau cũng chiếc xe ấy của kiểm soát quân sự lại phải đưa Lâm Thanh cùng với khẩu súng hai nòng lên tận nơi để gặp tướng Thiện. Khẩu súng hoàn thành, tướng Thiện thưởng ngay cho Lâm Thanh cái phiếu mua một xe phượng hoàng Trung Quốc. Lại lần thứ hai anh được mua xe cung cấp, thật là vinh cho hắn. Về đến bờ đê Yên Phụ thì thấy tổ quân giới của cục đang trực trên đê nhằm ứng cứu bổ xung cho các đơn vị đang trực chiến đấu nếu như pháo cao sạ bị hỏng. Vừa lúc địch đánh vào trận địa sư 210, Lâm Thanh ngồi trên xe Sđờ ca phóng thẳng vào trận địa vừa bị đánh bom. Mùi thuốc súng khét lẹt lẫn khói bụi mù mịt trận địa nhưng anh vẫn thấy tại khẩu đội 5 đầu người chiến sĩ lọt thỏm trong chiếc mũ sắt rơi xuống mâm pháo mắt vẫn còn chệp chệp. Nòng pháo các khẩu đội nhuốm màu cà chua. Thấy đài chỉ huy không có ai Lâm Thanh hô to:
          - Đại trưởng đâu?
          - Ai ?
          - Quân giới bộ đây, nòng pháo đã đỏ hết, đạn không vượt tầm, đánh làm sao. Đại trưởng đi đâu, về ngay đài chỉ huy. Bị máy bay địch đánh vào trận địa đại đội trưởng hoang mang đang mất bình tĩnh có cán bộ của cơ quan cấp trên làm chỗ dựa, nên buộc phải làm theo khẩu lệnh của Lâm Thanh. Lâm Thanh hô trước:
          - Tổ cấp cứu khẩn trương làm công tác thương binh liệt sĩ. Đại trưởng cũng hô sau to hơn :
          - Tổ cấp cứu khẩn trương làm công tác thương binh liệt sĩ.
          - Hướng 34
          - Hướng 34
          - Hạ tầm
          - Hạ tầm
          - Thay nòng pháo
          - Thay nòng pháo.
          Thay nòng pháo xong, quân khí viên đại đội phục vụ cho quân giới bộ sửa pháo ngay tại trận địa.
Trả lại ngay biên chế vũ khí cho đơn vị trong lúc còn khét mùi thuốc súng.
          Khi ống mạ của chân 12ly 7 được chuyển về lắp ghép và thao tác thử, mọi người đang vui mừng khao nhau lương khô thì được tin đồng chí Đinh Đức Thiện về kiểm tra. Lúc này đã là một giờ đêm. khi nhìn thấy nòng súng B40 đã được khoan, xoáy, doa, miết xong bị loại ra hàng đống, tiếc của, Ông hỏi:
          - Tại sao lại phế phẩm nhiều thế?
          - Báo cáo thủ trưởng không đạt yêu cầu về độ bóng ạ.
          - Độ bóng bao nhiêu?
          - Thưa độ bóng “tam giác tám”.
          Mọi người đã bắt đầu sợ ông thủ trưởng nóng tính nhất nhì quân đội Nhưng không, ông lại gọi tất cả anh em kĩ thuật lại nói vui:
          - Này, các cậu chỉ nặn tượng ra mà thờ. Mọi người còn đang ngơ ngác chưa hiểu vị tướng nói gì thì ông lại nói tiếp: Ông tượng bằng đất ấy, do người ta nặn ra có tay, chân, mắt, mũi hẳn hoi rồi đưa sơn son thiếp vàng, cắm râu đội mũ cho tượng rồi bỏ lên bàn thờ thắp hương khấn vái, vái mãi, tưởng tượng thiêng rồi quay ra lại sợ tượng có phải không nào?
          Kĩ thuật chế tạo súng do các cậu đặt ra, (mới gọi là chế thử) không làm được lại quay ra sợ nó chứ gì? Không đạt tam giác 8 thì tam giác 7, tam giác 6 có được không? Ông lại xuống giọng nhỏ nhẹ giảng giải như quyết đoán: B40 là súng nòng trơn, nếu đạt được tam giác tám thì lý tưởng, súng không giật, còn tam giác bảy thì hơi giật một tý. Nhưng giật một tý còn hơn ngoài mặt trận chiến sĩ không có súng bắn.
          Thấm nhuần chỉ đạo của cấp trên “CT2SGIẢI PHÓNG” đã kịp thời có mặt ở chiến trường hỗ trợ cho bộ đội ta đánh to thắng lớn.
          Xe tướng thiện vừa đi ra thì chiếc xe com măng ca của cục lại vào đón Lâm Thanh đi. Trời đã rạng đông, ánh trăng bàng bạc đổ xuống dòng sông Cà Lồ nước cạn thấp thoáng đã nhìn thấy mấy người be be tát tát bắt cá. Ngồi trên xe Lâm Thanh mới biết nhiệm vụ đột xuất là đi giao nhiệm vụ làm pháo hoa cho các nhà máy.
          Hàng năm cứ vào dịp tháng tám, ngành Quân giới lại vinh dự được chuẩn bị phaó hoa để bắn mừng Quốc Khánh. Mãi đến cuối tháng tám năm ấy (1969) theo rõi sức khỏe của Bác qua đài tiếng nói Việt Nam, mọi người nghĩ năm nay Bác ốm mệt nên Quốc Khánh chắc sẽ không bắn pháo hoa, vì không thấy trên giao nhiệm vụ như những năm trước. Nhưng đột nhiên gần đến ngày quốc khánh chúng tôi lại được lệnh chuẩn bị pháo hoa.
          Đoàn cán bộ cục Quân Giới cầm lệnh sản xuất đặc biệt xuống các nhà máy quốc phòng để triển khai nhiệm vụ. Đầu tiên là Z125. Rời Z125 đêm hôm ấy, đoàn kỹ thuật còn phóng xe xuống các đơn vị đóng ở 5 huyện của ba tỉnh nữa để giao nhiệm vụ, để đôn đốc làm thuốc phóng, lắp ghép giàn phóng. Đến đâu bộ đội cũng làm việc quên ăn quên ngủ để rồi sản phẩm được giao đúng hạn cho bộ tổng tham mưu trước giờ G.

          Sao lênh chuẩn bị pháo hoa năm nay lại triển khai chậm để vội vàng đến thế? Quốc khánh năm nay Bác Hồ đang ốm mệt cũng bắn pháo hoa ư? Nhiều cán bộ chiến sĩ thực hiện nhiệm vụ không khỏi băn khoăn. Nhưng có ai biết rằng những ngày đó, từ trên giường bệnh, Bác đã hỏi các đồng chí trung ương:
          “Các chú chuẩn bị pháo hoa cho ngày quốc khánh chưa?”
          Về sau mọi người mới được biết Bác Hồ của chúng ta đã không muốn vì Bác ốm mà ngày Quốc khánh ở Thủ đô thiếu pháo hoa.
          Tối 1/9 năm ấy, pháo hoa sáng rực cả bầu trời Hà Nội, pháo hoa soi sáng gương mặt từng người, từng dòng người trên khắp các nẻo đường, ngõ phố đang dồn về Hồ Gươm, về Ba Đình lịch sử.
          Dưới ánh sáng của pháo hoa, mọi người vẫn nhận ra nét lo lắng của mọi người về tình trạng sức khỏe của Bác kính yêu.
Sau đợt công tác đột xuất Lâm Thanh lại về nhà máy, về với phòng thiết kế sửa chữa pháo cao sạ của mình nơi có Hạ Thúy và các bạn cùng làm việc. Nhưng dịp này Hạ Thúy đã được điều xuống làm kĩ thuật viên ở phân xưởng tổng lắp. gặp Hạ Thúy cô vừa cười vừa nói khoe ngay:
          - Em sắp lấy chồng.
          - Lấy ai?
          - Anh
          - Chết chết anh có vợ rồi, em biết.
          - Vâng em biết nên mới đi lấy chồng. Người yêu em là bộ đội cơm Bắc, giặc Nam.
          - Ừ, ừ anh mừng cho em.
          - Anh biết không, đêm hôm ấy em ném mảnh giấy sang phòng anh nhưng anh ra ngoài, chú Dương lại nhặt được.
          - Giấy gì?
          - Tờ giấy em ghi: “Em sợ lắm”.
          - Em sợ gì?
          - Đấy, chú Dương biết chữ em viết nên cứ gặp riêng hỏi.
          - Hỏi gì?
          - Cũng hỏi như anh ấy, là “ Em sợ gì”. Và chú ấy cũng biết là tờ giấy ấy em ném cho anh vì phòng ấy chỉ có anh và chú Dương chả nhẽ em ném cho chú ấy. Nhưng chú ấy cũng kín lắm, giữ cả cho anh và cho em. Đám cưới Hạ Thúy được tổ chức sau đó gần một tháng , tuy vào ngày chủ nhật nhưng chú Dương tế nhị phân công Lâm Thanh ở nhà trực cho các bạn đi mừng Hạ Thúy lên xe hoa.
          Tối ấy giám đốc Quyên hẹn Lâm Thanh đi xem phim của đội chiếu bóng huyện về phục vụ nhân dân địa phương tại sân kho HTX. Lúc ngồi chờ ông hỏi:
          - Lâm Thanh cưới vợ được mấy năm rồi?
          - Cám ơn thủ trưởng được hơn bốn năm
- Chưa có con
- Vâng
- Cô ấy thế nào?
- Nhà em khỏe mạnh, tươi tắn
- Có sốt ruột không?
- Chúng em còn trẻ ai cũng muốn phục vụ và phấn đấu.
- Thế là tốt, trời cũng giành thời gian, cơ hội cho các cậu nhưng chậm con nó cũng có nhiều nguyên nhân, có thể là vợ chồng không được thường xuyên gần nhau như người ta. Thời chiến mà, một vài năm mới được về một lần, có thể do cô ấy béo quá, cái vòng co dãn nó hơi sâu, kích hoạt sự khoái cảm chưa được đồng điệu. mình là lính phải dùng cách đánh của lính. Vượt qua cửa mở cậu phải cho quân luồn lách thật sâu, khi nó túm được quân mình lôi ra kéo vào xừn xựt thì dứt khoát là thắng.
- Vâng, sau đợt này thủ trưởng cho em tranh thủ nhé.
- Nhưng đánh phải thắng đấy.
          Lâm Thanh không ngờ trong lúc chiến tranh công việc bộn bề đầu tắt mặt tối như vậy người thủ trưởng vẫn quan tâm đến cán bộ của mình . Không phải chuyện bù khú mà là câu chuyện khoa học của các nhà khoa học.
          Suốt ngày Lâm Thanh lăn lộn với xưởng máy. Cứ 15 ngày cuối tháng thì hình như thức suốt đêm ngày với công nhân (chỉ tranh thủ ngủ lúc trưa được vài tiếng). Công việc là kiểm nghiệm khâu cuối cùng của tổng lắp, chỉ đạo kiểm tra đóng hòm các loại quân cụ, vũ khí và phụ tùng kèm theo thiếu thứ gì là bộ đội bó tay, quân giới không thể sửa chữa tại chỗ được. Trách nhiệm ấy lại thuộc về nơi sản xuất.
          Súng B40 chỉ kiểm vết nứt sau khi bắn thử không kĩ, lúc đối mặt với xe tăng địch, người chiến sĩ bóp cò ùm một cái thì nòng súng có thể bị trải bằng ra như tờ giấy, lúc này thì cổ người vác súng bắn cũng không còn. Nếu không phải nòng nứt sẵn khi qua bắn thử cao áp thì ống thuốc sấy chưa đạt tiêu chuẩn vì lò sấy chưa đạt tiêu chuẩn nhiệt độ. Một giờ đêm, anh đến thẳng khu sấy thuốc (ống phóng B40) hỏi:
          - Ai sấy thuốc đây?
          - Có tôi
          - Cậu kiểm tra lại nhiệt độ của nước đi.
          - Vâng vâng vâng vâng.
          Người lính ngủ gật biết là có lỗi nên vâng rối rít rồi sách xô đi lấy than.
Việc gì Lâm Thanh cũng phải lấy sinh mạng người chiến sĩ ngoài mặt trận để làm mục tiêu giảng giải cho công nhân nhằm làm cho mọi người chấp hành quy trình, quy định kĩ thuật trong sản xuất. Một mẻ kim hỏa B40 hàng nghìn chiếc đã được mạ crôm đầu, nhuộm đen đuôi chỉ việc chuyển cho lắp ráp bị Lâm Thanh phát hiện không đạt độ cứng phải ngừng lại làm xôn xao cả nhà máy. Phó giám đốc kĩ thuật phải xuống tận buồng OTK để xem và kiểm tra lại. Trưởng phòng kĩ thuật, Thiết kế, kiểm nghiệm phân tích mẫu thép xác nhận không phải là thép 30XGESA như quy định mà vật tư cấp nhầm sang thép que hàn. Nhưng sáng hôm sau vẫn thấy hàng trăm hòm súng
          B40 được xếp nghiêm chỉnh chỗ nhập kho chờ cho xe chuyển đi. Lâm Thanh hỏi Hạ Thúy nhân viên kĩ thuật xưởng tổng lắp khâu cuối cùng kiểm nghiệm để quyết định việc đóng hòm:
          - Sao nhập được nhiều súng thế, kim hỏa lấy đâu ra?
          - Anh ơi ! hòm không đấy.
          - Sao làm thế?
          - Ý kiến của trưởng phòng kế hoạch. Lâm Thanh nhảy lên cạy một hòm ra có súng thật liền nhảy xuống túm cổ áo trung úy trưởng phòng kế hoạch vừa đi tới hỏi:
          - Ai cho nhập kho súng kim hỏa không đạt yêu cầu? Ai cho lắp? Định giết lính ngoài mặt trận à? Phản động à? Bị tấn công liên tiếp trung úy Hòa chỉ biết ớ ớ bảo Lâm Thanh:
          - Bỏ ra nào. Rồi cầm tay Lâm Thanh cùng đi vào phòng trực ban điều độ nói:
- Lệnh thủ trưởng bảo nhập kho để báo cáo hoàn thành kế hoạch tháng. Chỉ có hàng vây quanh là có súng còn ở giữa là hòm không đấy.
- Báo cáo giả à? Báo cáo thì bằng giấy sao lại phải xếp hòm không vào giữa?
- Cậu thông cảm cho, ngày mai có đoàn kiểm tra xác định việc hoàn thành kế hoạch, nhà máy báo cáo rồi.
          - Thì ra thế, rồi Lâm Thanh mặc cả với Hòa: “ Tôi lơ cho anh việc này nhưng anh phải điều thêm máy tiện gia công kim hỏa. Tôi hẹn mười bốn tiếng nữa phải có đủ kim hoả để lắp cho một nghìn khẩu súng. Thế là chiến dịch làm suốt ngày đêm lại lan đến cả phân xưởng cơ điện, phân xưởng dụng cụ đều phải làm thêm giờ để tiện kim hỏa. Anh cơ điện cậy mình là cái máy cái không nghe. Hòa viết nội thư đưa về cho giám đốc kí, nội dung.
          “Gửi các đồng chí quản đốc phân xưởng A1, A2 Hàng ngàn chiếc kim hỏa bị nhầm thép như các d/c đã biết, đẻ kịp tiến độ nhập súng cung cấp cho chiến trường (hiện xe lấy súng đang chờ) tôi đề nghị các đ/c tập trung máy tiện để làm kim hỏa theo điều độ của trưởng phòng kế hoạch.
          Kí tên
Giám đốc

Giám đốc xem xong rút bút chữa chữ tôi đề nghị thành tôi “yêu cầu” rồi kí đến toạc cả giấy.
Hôm sau trông thấy Hòa trung úy ở cửa phòng điều độ Lâm Thanh gọi:
          - Trung úy! cặp có gì mà to thế?
          - Cặp không ấy mà, trung úy Hòa đùa lại.
          - Cặp không như kiểu nhập kho hòm không hôm qua ấy à?
- May quá, hôm qua mưa to nước ngập bờ suối xe của đoàn kiểm tra không vào được thế là đi thẳng. mọi người cùng nói:
- Nay có về thì súng cũng đầy hòm rồi, không sợ họ phát hiện ra nhập kho giả, hòm không nữa phải không?
- Vậy thì tôi mới có cái này để thưởng cho anh em đây. Hòa mở cặp phát cho mỗi người một chiếc bánh mỳ.

... CÒN TIẾP




Người Về Với Giậu Mùng Tơi

          Ông là Nguyễn Trọng Bính, tức nhà thơ Nguyễn Bính, sinh năm Mậu Ngọ (1918), tại làng Thiện Vịnh xã Cộng Hoà huyện Vụ Bản tỉnh Nam Định. “Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe”. Cái đa đoan của thân ngựa hình như nó sẽ theo ông cho đén tận cùng…
          Cha ông là cụ đồ Nguyễn Đạo Bình thường dạy các con:
“Nhà ta coi chữ hơn vàng
Coi tài hơn cả giàu sang ở đời”
Nguyễn Bính mồ côi mẹ từ lúc chưa đầy một tuổi (lúc ấy Trúc Đường 6 tuổi, Thụ 3 tuổi), cảnh nhà neo đơn, bố lấy vợ hai, ba anh em phải nương tựa vào bên mgoại. Cụ Bùi Trình Khiêm (bố của nhà văn Bùi Hạnh Cẩn là anh của mẹ) nuôi dạy. Nguyễn Bính biết làm thơ từ bé, từ khi nhận được mặt chữ. Năm 1931 ở làng Thiện Vinh huyện Vụ Bản người ta đồn ầm lên có một thần đồng, đó là một cậu bé 13 tuổi được giải nhất trong cuộc thi hát trống quân đầu xuân ở hội làng, người giải nhì lại là một cụ già 70 tuổi đầu tóc bạc phơ tên là Nguyễn Thị Chanh. Thơ hát đối của bên nam mà khi đó Nguyễn Bính hát, người già hiện nay các cụ còn nhớ được mấy câu:

“Anh đố em này:
Làng ta chưa vợ mấy người?
Chưa chồng mấy ả, em thời biết không?
Đố ai đi khắp tây đông
Làm sao kiếm nổi tấm chồng như chúng anh đây…”
Nguyễn Bính là người đi nhiều, viết nhiều, có lúc giang hồ (nghĩa là không có tiền cũng đi) cùng bè bạn đi khắp xứ Đông, tỉnh Bắc.
          Ông là nhà thơ nghèo, quá nghèo. Kể cả những năm cuối đời: “Khổ muốn kêu trời trời chẳng thấu”. Không có tiền đi tàu ngồi toa đen như những kiện hàng. Có lúc khêu ốc ăn trừ bữa, lúc nằm lì nhà bạn, không có tiền đi, chẳng có tiền về, đi như hành khất, bẩn thỉu bệnh hoạn nhưng vẫn ngất nghểu lang thang, nghêu ngao đọc thơ: thơ tiên, thơ trăng, thơ sầu mộng, thơ điên, thơ em gái... “Thật tên là thơ xin ăn, vì thèm, vì đói đủ kiểu” (Tô Hoài). Đi đâu ông cũng làm được thơ. Ông thổ lộ: Thơ phải mang tính cách chân thật, càng chân thật càng tốt…
          “Nhà nàng ở cạnh nhà tôi
Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn.”
“Đúng là có giậu mùng tơi y như vậy, có cô hàng xóm y như thế. Cô hàng xóm ấy ngày ngày mang tơ vàng ra hong ngoài mái hiên, cô không bao giờ cười, mắt lúc nào cũng buồn đăm đắm. Từ ngoại cảnh ấy, tôi xúc cảm ra sao, tôi suy luận thế nào cứ thế mà điểm xuyết vào, miễn sao cho nhuyễn. Toàn bộ thơ tôi từ trước tới nay và từ nay về sau luôn trung thực với lòng mình thấy gì viết thế, nghĩ sao nói vậy.” (Nguyễn Bính). “Thơ ông là tiếng lòng phát ra từ trái tim mình nhất thiết phải tới trái tim người khác. Nếu trái tim người khác hờ hững thì dù cho là tiếng lòng của mình đi chăng nữa cũng không phải là thơ.” (Hoàng Tấn). Với Nguyễn Bính thì hình như trời bắt ông làm thơ thật “Mẹ hiền mất sớm Giời đày làm thơ” cho nên thơ ông được người đời hào hứng say mê đón nhận, dù cho ở bất cứ thể loại nào.
          Nhưng nói đến thơ Nguyễn Bính thì phải nói đến thơ tình. Nhà thơ Nguyễn Bính tích được đến mấy hộp thơ tình mà cắp đi từ Bắc vào Nam. Tô Hoài thì cho rằng: “Dẫu những bức thư tình kia là những bằng chứng về lời thề sông cạn núi mòn, có lúc dọa cắt tóc đi tu và uống thuốc phiện dấm thanh cho đến chết nhưng rồi cũng không người con gái nào yêu thơ rồi say mê nhà thơ đến đi theo không, còn nhà thơ thì chẳng làm sao lo được tiền cưới” dù cho nhà thơ Nguyễn Bính và cô gái nọ chỉ “Cách nhau cái giậu mùng tơi xanh rờn.”
          Giá đừng có giậu mùng tơi, giá như không nghèo đến rớt cục mùng tơi, mùng tơi càng xanh thì càng nghèo, giá như không ở cái thời mà những thói tục phiền nhiễu và đồng tiền to hơn nghìn vạn lần tình cảm con người thì cái nghèo đã không làm cho: “Hai người sống giữa cô đơn/ Nàng như cũng có nỗi buồn giống tôi”. Mọi phũ phàng u ám không phủ lên những mối tình xếp hộp gối đầu của nhà thơ thì: “Thể nào tôi cũng sang chơi thăm nàng”.
Sau ngày Nguyễn Bính mất, người anh ruột , Trúc Đường, nói rằng: “Bính như người khát nước mùa hè, yêu nhiều, thất bại không ít, có lúc thất tình nhưng chỉ trong thơ thôi. Vì người trong mộng, trong thơ, đến người ngoài đời là một khoảng cách khó khăn. Do đó thơ tình Nguyễn Bính có đôi bài đượm chua chát đắng cay và nuối tiếc:
          “Tiếc làm chi giấc chiêm bao một mình”
Khi vào Nam, Nguyễn Bính đã được Nguyễn Oanh (người cùng quê, là bí thư thành uỷ Sài Gòn, hoạt động bí mật hồi đó), thẳng thắn khuyên nên chuyển ngòi bút đi là vừa, vì những vần thơ lãng mạn, uỷ mị không thể ngăn cản gót giày của bọn xâm lược. Ông vua tự ái và ít phục thiện Nguyễn Bính đã được Nguyễn Oanh rèn cặp giác ngộ. Nguyễn Bính không thể đi con đường nào khác ngoài con đường cách mạng. Quả nhiên những vần thơ: “Những ai xứng đáng làm người/ Hãy hi sinh hết cho nòi giống ta/ Hãy nên vì nước, vì nhà/ Coi thường thân sống mới là trượng phu…” đã bay về tận chiến khu miền Đông và ông đã tham gia kháng chiến ở Rạch Giá, Đồng Tháp và làm việc trong ban văn nghệ khu 8. Và nhiều tập thơ của ông cũng đã được ra đời trong thời gian này.
          Những bài thơ xuất thần ông viết đã được truyền đi rất nhanh cùng với điệu nhạc hào hùng (tiểu đoàn 307) làm cho tên tuổi ông đọng lại mãi trên giải đất miền Nam. Ông còn là nhà thơ chân quê, tình quê, hồn quê. Hàng trăm bài thơ của ông đã viết nói lên nỗi nhớ quê nhà. Ông nhớ cái chân quê: “van em hãy giữ nguyên quê mùa”. Nhớ đến hội làng khi phải chia tay người bạn gái:
          “Hội làng còn một đêm nay
Gặp em còn một lần này nữa thôi”
Nhớ hàng cau, giàn trầu, nhớ thuyền, nhớ bến, nhớ sông, nhớ người trồng dâu tốt lá, chăn tằm, ươm tơ. Đặc biệt khi ông ở trong Nam nghĩ về thôn vân nơi ôm ấp tuổi thơ mình:
          “Thôn Vân có biếc có hồng
Hồng trong nắng sớm, biếc trong vườn chiều
          Đê cao có đất thả diều,
          Giời cao lắm lắm có nhiều chim bay
          Quả lành nặng trĩu từng cây
          Sen đầy ao cá, cá đầy ao sen.”
Kể sao cho xiết nỗi nhớ quê nhà, ông kêu lên hỏi bốn phương trời phải làm sao cho đỡ nhớ!                           
          “Ơi thôn Vân hỡi thôn Vân
          Phương nào kết giải mây Tần cho ta.
          Từ nay khi nhớ quê nhà
          Thấy mây Tần biết đó là thôn Vân.”
Tập kết ra Bắc thì ông lại nhớ về Nam, nơi có vợ, hai con gái và đồng bào miền Nam ruột thịt:
          “Thư một bức ngàn lời tâm huyết
Đêm canh dài thức viết cho em
Bồi hồi máu ứ trong tim
Chảy theo ngọn bút hiện lên thơ này.”
Cái nhớ, cái yêu, cái tình, riêng, chung quyện lại làm một, nó bùng lên thành tình yêu quê hương đất nước. Ông chuyển giọng kêu gọi:
“Lòng son còn vá chưa lành
Áo cơm thiên hạ chưa đành ấm no.
Mẹ già thì nhớ con thơ
Tình mong nhớ chị, em chờ đợi anh
Lấy đâu Vạn Lý Trường Thành
Cho quân thù khỏi tranh giành đất ta.
Anh còn trẻ tôi chưa già
Phải làm chi chứ để mà… hỡi anh.”
Ông được chuyển về Ty văn hóa Nam Hà 2 năm thì mất. Có người bảo ông mất tại vườn nhà bạn. Có người bảo xưa Lý Bạch say rượu vồ trăng, chết chìm trên dòng sông lớn. Nay, thi nhân Nguyễn Bính, cũng say, chết bên vũng nước ao bèo, âu cũng là cái chết. Nhưng chuyện nhà thơ chết một lần, chôn bốn lần thì có thật. Lần đầu người ta mai táng ông ở nghĩa trang thành phố, sau cải táng đưa về nghĩa trang Tam Điệp. Khi người ta nhận thức được rằng ông là nhà thơ lớn thì mộ lại được chuyển về quê để cạnh mộ ông nội nằm ở rìa làng. Mãi đến năm Canh Ngọ (1990) mộ ông mới được chuyển về mảnh đất chôn nhau cắt rốn như ngày nay. Thật cái tuổi Mậu Ngọ (năm ông sinh), sống rong ruổi giang hồ đến năm Bính Ngọ (bính biến vi tù) thì mất. Năm Canh Ngọ (canh biến vi cố) mới được về tại đất xưa nhà cũ, nơi xưa kia có giậu mùng tơi để yên thân một mình. Đúng là: “Đa đoan vó ngựa chung tình bánh xe”, một câu thơ trong bài “Tình tôi” đã vận vào ông.
          Bây giờ quê ông vẫn còn giậu mùng tơi nhưng đã đổi mới giầu lên nhiều, quê hương tự hào về ông, một nhà thơ lớn của thi nhân Việt Nam thế kỷ XX.

Đồng Ngọc Hoa

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét