Thơ
đời Phạm Ngọc Thái rất sâu sắc nỗi kiếp người. Ở đây, không chỉ nói về sự vất vả,
lam lũ kiếm miếng cơm, manh áo của những con người lao động, nó còn phản ảnh cả
chủ nghĩa nhân đạo trong đó. Những con người nghèo khổ luôn là tầng lớp phải
chịu nhiều sự bất công, bị quyền lực dẫm đạp, chà xéo.
1/.
Bài “CÔ QUÉT LÁ ĐÊM HỒ” -
Trước hết, ta hãy nghe tác giả tả hình ảnh trong hai câu đầu:
Một đêm hồ nước đầy sương gió
Người đi không rõ mặt người
Cái bóng người "không nhìn rõ mặt"
này, chỉ cả về nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Nghĩa đen, tức là gương mặt họ đã bị
nhoà nhoạt đi trong trời đêm sương gió - Nhưng nghĩa bóng, nó phản ảnh họ chính
là lớp người, những kiếp đời thấp hèn, sống mà không có... "nhân ảnh"
trong xã hội. Con người lao động tầng lớp thấp ấy, vừa lầm lụi gió sương vừa là
bọt bèo ở chốn cộng đồng:
Em quét lá lẫn đời, lẫn kiếp
Tiếng chổi
mòn kêu xiết vào tim!
Kiếp sống của họ cũng chỉ giống như những
chiếc chổi tre, bị kéo mòn vẹt đi trên đường đời. Cái tiếng chổi đời, chổi kiếp
ấy... đã trích vào trái tim đau của người thi sĩ. Anh cùng với thiên nhiên ru
quanh cô quét lá:
Liễu ru nhè nhẹ quanh bờ vắng
Em thầm thì quét lá, bên tôi!
Tả về nỗi người, cảnh đời mà thơ như mộng:
Em hoá thành thơ rơi lặng lẽ
Trong
cõi lòng tôi buồn triền miên
Nhà thơ buồn, đau với
những nỗi đời trong xã hội? Khoảng không gian bao trùm lên phố khuya vừa thực,
lại vừa ảo. “thực”: là cảnh trời đất gió sương, lá cây rơi xào xạc, hàng dương
liễu hiu hắt bên hồ với một vầng trăng cô đơn:
Trăng như đứa không nhà
trôi lạc lõng
Con nai vàng chết bóng
thu xưa...
Cái bòng trăng cũng cô độc, bơ vơ như người
thi sĩ = còn “ảo”: vì câu thơ đã chứa cả linh hồn cùng trái tim người. Không
phải cái bóng trăng nó lạc lõng, cô đơn đâu? mà chính là nhà thơ đấy! Anh cảm
đồng với thân phận cô quét lá, xót xa với nỗi kiếp người cần lao, để những giọt
thơ rơi ra.
Ta hỏi: Tại sao bóng của rừng thu lại vào
đây? - Đấy là cõi mộng của nhà thơ. Vốn là một thi sĩ đa tình, nhìn cảnh phố
khuya - Phạm Ngọc Thái ngỡ như mình đang đứng trong bóng rừng thu xưa của cố
thi nhân Lưu Trọng Lư: có con nai vàng đang ngơ ngác… Nhưng nếu con nai
vàng nó vẫn sống nhởn nhơ, tung tăng nhảy trong rừng thu đẹp như tranh vẽ (thì
đó lại là thơ của Lưu Trọng Lư) - Ý thơ sẽ trở nên mâu thuẫn với cảnh đời bọt
bèo, lầm lụi của cô quét lá đêm trong chốn dân gian. Bởi thế, con nai vàng phải
chết! Mới là thơ Phạm Ngọc Thái.
"Con nai vàng chết bóng thu xưa..." - Câu thơ mang
ý nghĩa tượng trưng. Nó muốn nói rằng: Những con người lao động nghèo khổ, phải
kiếm miếng cơm, manh áo, vật vã chốn đời thường - thì đầu óc nào mà mộng mơ đến
cảnh con nai vàng đẹp như tranh cổ tích của cố thi nhân!? Cho nên, hình ảnh
"con nai vàng chết" đã phản ảnh tới sự mất mát, không chỉ về
vật chất mà cả tinh thần của người lao động. Đây là hai câu thơ hay nhất bài!
Thế rổi, cả hồn vía nhà
thơ nhập vào cô quét lá. Anh nhìn theo mãi cái bóng đi xa dần ở phố đêm kia:
Cô
quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya...
Cái bóng người quét lá lẩn khuất
trong đêm, như thân phận nhân gian lầm lụi hết kiếp này, qua kiếp khác. Thơ
giàu tính nhạc và thấm đẫm tình người. Về phương pháp tư duy, ta hãy đem đối
chiếu với bài "Đây thôn Vỹ Dạ" của thi nhân Hàn Mặc Tử - Như một số
nhà bình luận có nhận định: âm hưởng trong thơ Phạm Ngọc Thái, ảnh hưởng khá
sâu sắc thơ Hàn Mặc Tử. Đó là lối cảm xúc thơ theo thi pháp "tương ứng cảm
quan" của trường phái thơ tượng trưng ở châu Âu đầu thế kỷ XX. Ở trong bài
"Đây thôn Vỹ Dạ", khi Hàn Mặc Tử nói về cái duyên phận hẩm hiu, cách
trở giữa thi nhân với nàng Hoàng Cúc bằng hinh ảnh tượng trưng:
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay...
Nghĩa là: Anh theo đường anh, em
đường em / Duyên phận đôi ta có thế thôi! - Phân chia, cách biệt như
con gió với làn mây ở trên trời. Tâm trạng thì u hoài, buồn nản tựa dòng nước
lặng lờ bên những bông hoa bắp phật phờ lay ở bờ sông.
Còn trong bài "Cô quét lá đêm hồ",
tác giả dùng hình ảnh cái chổi mòn quét cả đời, cả kiếp... làm tượng trưng nói
về thân phận người lao động như đã phân tích trên.
Trong đoạn thơ cuối của bài "Đây thôn Vỹ
Dạ": Hàn Mặc Tử mơ tưởng hình bóng người thương, nhói lên những uẩn khúc
trong lòng:
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
Thì trong
bài thơ Phạm Ngọc Thái, ta nhận thấy cái tâm trạng cảm hoài của nhà thơ về cô
quét lá, những thân phận mịt mờ, lầm lụi trong chốn dân gian:
Tôi đứng trông em mịt mờ ảnh vọng
Cô quét lá đêm hồ khe khẽ vào khuya...
Còn về cấu
tứ - Hai bài thơ đều được chia làm ba khúc, mười hai câu, phong dáng tư duy
tương đối giống nhau.
"Cô quét
lá đêm hồ" là một bài thơ đời sâu sắc và hay.
2/.
“EM BÁN XOÀI” -
Nói về những kiếp đời vất vưởng, lang thang trong chốn nhân quần. Bài thơ
vẽ lên một khung cảnh ở thành phố biển Nha Trang, dưới bóng hàng dừa xứ sở. Đó
là những cô gái “bán xoài” nổi trôi, để kiếm sống qua
ngày:
Em bán xoài đi đêm trên cát trắng
Bãi biển
chập chờn
kiếp đời các
cô gái lang thang
Dưới hàng dừa se sẽ gió ru êm
Dẫy cột đèn đứng đêm côi lạnh.
Xót
thương cho các thân phận lạc loài ấy, cả đến những chiếc cột đèn đã được nhân
cách hóa, linh hồn của chúng cũng hắt hiu trong đêm giá lạnh. Hàng dừa thì se
sẽ ru quanh các cô gái, lời ru ngọt ngào của quê hương.
Nghe nói: ngày ấy, nhà thơ trở về sau cuộc
chiến tranh. Anh đi ngang qua đây và đã gặp những cô gái bán xoài:
Xoài em chín, đêm tàn canh em đón khách...
Giọt thơ buồn như ngọc sương rơi
Các cô gái đã bị xô đẩy ra bên lề cuộc sống.
Dòng thơ như những giọt sương, rơi buồn bã xuống các kiếp đời. Làn điệu êm và
tha thiết đến lạ lùng. Tác giả đã khắc họa một thế giới bao quanh, bằng hình
ảnh của một biển cả mịt mùng sóng bão. Nó giống như miệng của con thuồng luồng
khổng lồ, chỉ muốn nuốt chửng những thân phận nhỏ nhoi, yếu đuối kia:
Biển to lớn - Bóng em nhỏ thẫm
Linh hồn treo ngoài thế giới em đi
Trên những cành dừa hay trong đám mây qua?
Những thân phận vất vưởng không có nơi bám víu, có khác nào kiếp đời
bạc bẽo của nàng Kiều đang hiển hiện lên?
Thế giới em đi "vòng thiên la địa võng"
Tóc còn xanh, em bán kiếp đời trôi...
Hình ảnh chúng vật vờ, cát bụi. Những chiếc
cột đèn lại được tái hiện đứng hiu hắt trong đêm, ánh đèn mờ mịt tựa các linh
hồn đang khắc khoải. Như lời Kinh Thánh đã nói: Ta sinh ra từ cát bụi lại trở
về cát bụi…
Cảm đồng trong cõi nhân gian, nhà
thơ cùng với hàng dừa quê hương cất lời ru em, tiếng ru chan chứa tình đời:
Các cô
gái đi đêm như các cột đèn
Bóng
nuốt lẫn vào bờ cát ấy...
Biển ru ta và ta ru em
Dưới hàng dừa xứ sở gió ngàn năm...
Chủ nghĩa nhân văn của bài thơ, chính là lòng thương người và nỗi đau nơi
nhân tình thế thái.
3/.
“LÀM MA EM VỢ” -
Là
một bài thơ có tính xã hội học sâu sắc, in lần đầu tiên trong tập "Rung
động trái tim", Nxb Thanh niên 2009. đã được nhà văn Đào Viết Minh binh
rất khúc triết. Mấy điều
đáng lưu ý:
a- Bài thơ rất
giàu bản sắc dân gian. Về tính triết học, nó dựa theo thuyết bản mệnh trong kinh
phật. Tôi xin trích hai câu cuói của bài để
phân tích:
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ, (*)
Anh ở vì chưng trả nợ đời
(*)
Theo kinh phật: Chỉ có người đã chết mới hết nợ đời! Ý của câu thơ, tác giả
muốn vấn an hương hồn em: Em chết, coi như đã trả hết nợ đời đó em! Cầu mong
hương hồn em được siêu thoát nơi suối vàng. Nhà văn Đào Viết Minh đã bình như
sau:
"Bài
thơ tuy cũng dựa trên một nỗi đời cụ thể, nhưng nó có cấu trúc của một bài thơ
tượng trưng. Theo quan điểm về nỗi kiếp đoạn trường nơi bể khổ dân tình của cụ
Nguyễn Du, thông qua thân phận nàng Kiều - Nàng Kiều trải qua bao khổ nạn, nhục
nhã ê chề. Mấy lần phải đắm tấm thân ngà ngọc của mình trong chốn thanh lâu nhơ
nhuốc, đến mức phải tìm cách quyên sinh cho thoát nợ. Nàng đã nhảy xuống sông
Tiền Đường để chết... nhưng rồi lại được Giác Duyên vớt cứu - Nghĩa là, theo
thuyết bản mệnh, món nợ kiếp của nàng Kiều chưa hết. Nàng vẫn phải sống để trả
nốt nợ đời:
Làm cho sống đọa, thác đầy
Đoạn trường cho hết kiếp này mới thôi
(
Kiều )
Trở lại với bài thơ "Làm ma em vợ"
của Phạm Ngọc Thái, với câu:
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ,
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ,
Ý của câu thơ như đã phân tích trên.
Còn câu thơ dưới:
Anh ở vì chưng trả nợ đời
Anh còn sống, chẳng qua vì đời chưa hết nợ.
Trả hết nợ đời rồi, anh cũng đi thôi! ".
Và nhà bình luận kết luận rằng: "Làm ma em vợ" là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp dân tình.
Và nhà bình luận kết luận rằng: "Làm ma em vợ" là tiếng khóc bật ra từ trong nỗi kiếp dân tình.
b- Chìm sâu trong bài thơ, nó
mang ý nghĩa phê phán xã hội, vẫn còn nhiều sự bất nhân. Ngay câu mở đầu:
Em kết liễu, tự giải thoát mình khỏi "kiếp"!
"sống" mà phải tìm cách
tự kết liễu mình để thoát khỏi cảnh sống, thì không biết có kiếp nạn nào
khốn khổ hơn? Suy cho cùng, nó cũng chỉ là một nạn nhân của xã hội mà thôi.
c- Cấu tứ bài thơ súc tích, tình thơ cảm động, sâu sắc nghĩa đời.
"Nghĩa tử là nghĩa tận", nhà thơ đã cầu nguyện cho em:
Anh thắp cho em một nén nhang đời
Và lễ tạ: nam-mô-di-phật!
Ở đoạn
thứ hai, lời thơ mang âm hưởng như những tiếng khóc tang nơi dân dã:
Người sống đưa chân người chết đây
Đầu bạc làm ma mái xanh này
Mẹ, cha... queo quắt còn ham thọ
Em nhởn thanh xuân lại vội quay.
Ý tứ đã được
gạn lọc để hợp với hoàn cảnh, nông nỗi về cái chết của người em.
Xét về
cả nội dung và ngôn ngữ nghệ thuật: "Làm ma em vợ" có chân dung của
một bích phẩm thi ca! Cho dù thời thế có biến đổi, lịch sử có thăng trầm... thì
tình thơ vẫn có khả năng tồn tại trường cửu cùng năm tháng.
Ta hãy đọc
cả đoạn thơ cuối:
Em ơi, chữ "kiếp" trước chữ "người"!
Sống cần cố gắng, chết rồi thôi
Hãy đi, yên nhé! Coi hết nợ,
Anh ở vì chưng trả nợ đời.
Tác giả đã kết hợp cả duy tâm và duy vật biện
chứng để phản ảnh quan niệm, màu sắc tín ngưỡng xã hội trong mối quan hệ cuộc
sống, cá nhân với cộng đồng. Bài thơ chỉ có ba đoạn, mười hai câu, mà ý nghĩa
rất sâu sắc! Nó có thể trở thành một trong những bài khóc tang có giá trị điển
hình.
4/. “NỖI
TRĂN TRỞ NGƯỜI ĐI TÌM VÀNG” -
Tác giả đã sáng tác bài thơ này trong những năm tháng ở nước ngoài vào cuối
thế kỷ XX. Thi phẩm đã được xuất bản lần đầu tiên trong tập "Có một khoảng
trời", Nxb Hà Nội 1990 - Để phản ảnh một bối cảnh xã hội, sự bi hài trong
cuộc sống, nhiều nơi dân tình rơi vào sự đói nghèo, hoạn nạn. Sau đó bài thơ đã
được nhà văn Khánh Hòa bình rất sâu sắc. Trong bài viết này, tôi lược trích bài
bình của nhà văn Khánh Hòa, xin giới thiệu cùng bạn đọc.
LỜI BÌNH:
Vào những thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX,
các đoàn người xuất khẩu lao động ồ ạt đổ ra nước ngoài. Bối cảnh trong
nước hỗn độn. Nền kinh tế xã hội sa sút, đời sống dân tình, nhất là nhiều vùng
quê rơi vào cảnh nghèo khổ đáng báo động. Thế giới thì đảo loạn. Sang thập niên
90, Xô Viết Nga tan vỡ và hàng loạt các nước XHCN Đông Âu bị sụp đổ. Sương mù
chủ nghĩa bao phủ bầu trời, như ở trong bài Trở Về của tập thơ Người Đàn Bà
Trắng, tác giả đã viết:
Đông Âu bão giật xiêu Thành Mác
Bốn bể chân trời lạc khói sương...
Những trăn trở riêng chung của tác giả, trước thực cảnh các đám dân dã đi tha phương kiếm sống:
Tôi sống âm thầm
Bốn bể chân trời lạc khói sương...
Những trăn trở riêng chung của tác giả, trước thực cảnh các đám dân dã đi tha phương kiếm sống:
Tôi sống âm thầm
trong một đoàn người hỗn hợp
Rời quê qua bên kia biển sóng
Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
Những lớp người này phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ, tình cảm quê hương gắn bó rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách, quê người thì thật kinh khủng - đến mức đạo lý sống tưởng chừng không còn chỗ để dung thân. Nhiều khi tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời:
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
Lòng anh luôn bị dày vò, xa xót:
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!
Tiếng thơ từ trong trái tim đau bật ra, mặn đắng hơn cả dòng nước mắt. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả của những kẻ đi xuất khẩu lao động đó, như thế nào:
Rời quê qua bên kia biển sóng
Kẻ tìm vàng - Người vì cảnh nghèo đi
Những lớp người này phần lớn đều thuộc con em các gia đình nghèo khổ, tình cảm quê hương gắn bó rất tha thiết. Song cảnh tượng diễn ra nơi đất khách, quê người thì thật kinh khủng - đến mức đạo lý sống tưởng chừng không còn chỗ để dung thân. Nhiều khi tranh giành, dối lừa nhau làm ăn không kém gì cảnh chợ giời:
Đạo lý có hoá thừa đành giả dại làm ngơ
Đứa mách qué lại vân vi dễ sống...
Lòng anh luôn bị dày vò, xa xót:
Hạt muối xót tháng năm và lòng ai đắng?
Tôi nhận chìm tôi vào những lãng quên!
Tiếng thơ từ trong trái tim đau bật ra, mặn đắng hơn cả dòng nước mắt. Ta hãy nghe xem cái giá phải trả của những kẻ đi xuất khẩu lao động đó, như thế nào:
Ai
mang bán vàng mười giữa phiên chợ đông (1)
-
Câu (1) này: Sử dụng ý thơ của Nguyễn Duy: Còn chút vàng mười mang ra bán
nốt/- "vàng mười" ở đây, chính là thứ vàng của lương tâm -
Nghèo cực quá, thì đến cả tâm hồn cũng phải mang mà bán cho quỉ sứ! Nền tảng xã
hội quá thấp, cá nhân làm sao có thể giữ cho mình trong sạch được? Huống hồ,
quan hệ cuộc đời còn có cả gia đình và những người thân. Nếu nhà thơ kia,
có lúc còn phải mang cả "một chút vàng mười" còn sót lại
trong mình ra phiên chợ người mà bán, thì hẳn cái thứ vàng kiếm được của đám
người lao động tha phương, giá đổi chua chát hơn nhiều:
Tôi tìm
chắt những bụi vàng như anh lính lê-dương
lọc sàng từng đống rác...(2)
lọc sàng từng đống rác...(2)
-
Câu (2): Phỏng theo tích truyện Bông Hồng Vàng của nhà văn Nga Pau-Tốp-xki -
Có người lính lê-dương làm cận vệ cho một viên tướng Pháp. Trong chuyến sang
chiến trường Đông Dương, viên tướng ấy mang theo một cô con gái nhỏ. Trước khi
bị tử trận, viên tướng còn kịp dặn lại người lính cận vệ của mình: Hãy mang cô
con gái của ông về trao lại cho mẹ nó ở Pa Ri!
Trên đường về Pháp lênh đênh qua đại dương,
bé gái ngây thơ cứ thầm ao ước có một Bông Hồng Vàng. “ Bông hồng vàng “ chính
là biểu tượng, cho ước mơ hạnh phúc của cuộc đời bé gái. Những tháng năm sau
đó, cuộc sống cực khổ đã xô đẩy anh lính trở thành một người quét rác nghèo
hèn, sống trong một túp lều xiêu vẹo dưới gầm cầu ngoại ô Pa Ri. Ngày ngày, khi
quét qua các cửa hiệu kim hoàn, người quét rác lại chắt vét lấy những nắm cấn
rác có dính chút bụi vàng mang về nơi mình ở. Năm này qua năm khác, dần dà anh
ta cũng tích được một ít vàng, đủ để nhờ người thợ kim hoàn làm cho cô bé gái
một bông hồng vàng nhỏ. Cô bé ấy giờ đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp ở Pa Ri.
Trớ trêu, bông hồng vàng chưa kịp gửi đi cho
cô gái, thì người quét rác đã chết trong đói nghèo và tủi nhục. Xác anh nằm
trên một manh chiếu mục, đầu vẫn gối lên bông hồng vàng nhỏ, sau đó bị người
thợ kim hoàn đến lấy đi mất… không đến được tay cô gái.
Vậy là, thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán, cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được:
Vậy là, thứ vàng mười lương tâm mà nhà thơ kia đã phải mang ra chợ người để bán, cũng như vàng của kẻ quét rác lăn lộn kiếm từ trong rác bẩn cuộc đời, với loại vàng mà đám người lao động làm thuê ở nước ngoài kiếm được:
Dầu kẻ bán - Người tìm vàng có khác
Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
Nó đã phải đổi bằng sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc bàn giá của lương tri, thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, đạo lý bị tha hoá. Dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người ấy. Kịch tính biết bao, khi chính họ lại phải sống với nhau thật bi hài:
Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ...
Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân sinh đông đảo nhất xã hội. Cuối cùng tác giả lý giải về mục đích, mà những nỗi đời trớ trêu ấy đã phải chịu đựng:
Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật
Đánh một đoá hồng vàng, tôi trao đứa con thơ
Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
Một chút nữa với bạn bè thân hữu...
Nhưng giá vàng tính cũng như nhau.
Nó đã phải đổi bằng sự tủi cực và nhục nhã. Đem cả ba thứ vàng đó đặt lên chiếc bàn giá của lương tri, thì chúng đều phải trả cái giá đổi như nhau mà thôi. Nó phục lại một bối cảnh xã hội đầy mâu thuẫn, đạo lý bị tha hoá. Dung lượng thơ có sức chứa tính thời đại rất lớn. Nỗi đau và tình thương yêu giằng xé trong lòng những con người ấy. Kịch tính biết bao, khi chính họ lại phải sống với nhau thật bi hài:
Giả dại ở đời thường mà khôn lại trong mơ...
Bài thơ tuy là tự sự bản thân, nhưng đã trở thành đại diện cho một lớp dân sinh đông đảo nhất xã hội. Cuối cùng tác giả lý giải về mục đích, mà những nỗi đời trớ trêu ấy đã phải chịu đựng:
Nhưng tôi đã có một thỏi vàng, thứ vàng rất thật
Đánh một đoá hồng vàng, tôi trao đứa con thơ
Người vợ quê hương mỏi mắt đợi chờ
Một chút nữa với bạn bè thân hữu...
Chỉ với
hơn hai mươi câu thơ: Nỗi Trăn Trở Người Đi Tìm Vàng phục lại cả một "một
tấn đời"! Bài thơ có ý nghĩa nhân văn sâu sắc và tính điển hình thời đại.
Trong một giai đoạn có nhiều biến động phức tạp xẩy ra, cả trong nước và trên
thế giới.
BÙI VĂN DONG
Nguyên GV Trường ĐH Quốc gia
NR: 35 phố chợ Gia Lâm, Hà Nội
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét