Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016

BÀI TRÀ CA CỦA LƯ ĐỒNG VÀ...


Tác giả Trần Hùng (Trần Kiều Am)



          Trần Hùng


          LƯ ĐỒNG (778-835), còn gọi Lô Đồng có bút hiệu Ngọc Xuyên Tử, người đất Tề Nguyên (nay thuộc tỉnh Hà Nam TQ), có tài liệu ghi quê Tứ Xuyên, tỉnh Giang Tây. Ông học rộng, thơ hay, sống vào đời Đường Hiến Tông (802-821). Ông được nhà vua vời vào triều phong làm Gián Nghị Đại Phu, nhưng không nhận. Ông ẩn cư trong núi Thiếu Thất, dạo chơi sơn thủy, uống trà, làm thơ. Bài TRÀ CA của ông rất nổi tiếng truyền đến ngày nay, phiên âm như sau:


          TRÀ CA

          Bích vân dẫn phong xung bất đoạn,
          Bạch hoa phù quang ngưng uyển diện.
          Nhất uyển hầu vẫn nhuận,
          Lưỡng uyển phá cô muộn.
          Tam uyển sưu khô trường.
          Duy hữu văn tự ngũ thiên quyển.
          Tứ uyển phát khinh hãn,
          Bình sinh bất bình sự,
          Tận hưởng mao khổng tán.
          Ngũ uyển cơ cốt thanh,
          Lục uyển thông tiên linh.
          Thất uyển ngật bất đắc dã,
          Duy giác lưỡng dịch tập tập thanh phong sinh.

          Dịch nghĩa:

          CA NGỢI TRÀ

          Mây xanh theo gió thổi không ngớt,
          Ánh sáng bồng bềnh màu hoa trắng nổi trên mặt chén trà.
          Chén thứ nhất trơn miệng thông họng.
          Chén thứ hai xua tan sự cô đơn phiền muộn.
          Chén thư ba dốc sạch nỗi lòng.
          Chỉ còn trong bụng chữ nghĩa năm nghìn quyển sách.
          Chén thứ tư toát mồ hôi,
          Mọi nỗi bất bình trong đời thoát hết theo lỗ chân lông..
          Chén thư năm xương thịt đều trong sạch.
          Chén thứ sáu thông lên cõi tiên đỉnh trời.
          Chén thứ bảy không nhấp nổi,
          Chỉ thấy lớp lớp gio mát thổi ra từ hai bên nách.


          Đọc bản phiên âm và dịch nghĩa đều thấy trúc trắc, xin mạo muội tạm dịch cho có vẻ vần vè như sau:

          BÀI CA TRÀ

          Gió thổi mây xanh bay tiếp nối,
          Hoa trắng ánh soi mặt tách nổi.
          Một tách môi họng mềm,
          Hai tách tan ưu phiền.
          Ba tách dốc hết nỗi lòng,
          Trong bụng chứa chữ năm nghìn quyển.
          Bốn tách mồ hôi rịn,
          Bất bình muôn sự theo chân lông tan hết.
          Năm tách xương thịt sạch trong.
          Sáu tách thông lên cõi tiên.
          Bảy tách hơn chẳng thể nhấp,
          Chỉ thấy hai nách hiu hiu gió nhẹ vờn.

                        (Trần Hùng dịch)

          Vậy mà gần một nghìn hai trăm năm sau bài TRÀ CA nói trên, ở Việt Nam ta có một nhà thơ cũng viết một bài về trà, sao cấu tứ và cách uống đếm từng chén, giống với bài của Lư Đồng đến thế!

          ĐẦU XUÂN UỐNG TRÀ...

          Nhấp chén trà thứ nhất,
          Da thịt bỗng tỏa hương.
          Đời thực thành cõi mộng,
          Trần gian hóa thiên đường.
          Ta nâng chén thứ hai
          Cho đất trời tinh khiết.
          Tâm ta bừng sáng ra
          Biết thêm điều chưa biết.

          Mai sau đời dẫu tuyệt
          Chắc gì hơn lúc này.
          Nào nhâm nhi chén nữa,
          Hai đứa mình cùng bay.

          Nếu như Lư Đồng kể uống đến bảy chén trà có vẻ nhiều, là vì ý thơ phiêu dật, dồi dào, phóng khoáng; cũng còn vì chén trà ngày xưa chỉ nhỏ như hạt mít, mắt trâu, nên bảy tám chén hẳn chưa nhiều.
          Ngày nay uống trà ấm, chén cũng to hơn, không kể uống trà Liptong hay trà đá bằng cốc. Vả lại, tác giả viết bài uống trà tân thời, nếu cũng đếm thêm mấy chén nữa thì không biết viết gì, vẫn mượn ý người xưa thì giống với bài Trà Ca của Lư Đồng quá, nên dừng lại ở chén thư ba.
          Bài thơ Đầu Xuân Uống Trà... chắc không xa lạ với nhiều bạn. Mỗi khi tết đến xuân về, hoặc bàn về chủ đề trà, bài này thường vẫn được báo chí tán tụng, bình phẩm nhiều, coi như tứ lạ. Vậy xin chép cả hai bài ra đây để làm phép so sánh, còn đánh giá, nhận xét là do lượng cao minh của các bạn. Bằng không cũng là để mua vui.
                                                                 

          TRẦN HÙNG                                                               

          (Trần Kiều Am)
          (8/11-2016)

         
Nguồn: Trà dư tửu hậu, tác giả Phan Tự Tổ, người dịch Dương Thu Ái, Nxb Công An Nhân Dân, H.,2007.
            - Wikipedia: mục từ Lư Đồng (TQ)


         



4 nhận xét:

  1. Nhà thơ Việt Thắng vừa gửi bản dịch tức thì bài thơ Trà ca cho blogTMG. Xin tải lên giới thiệu với bạn đọc:
    TRÀ CA
    Việt Thắng dịch
    Mây bay gió thổi nối nhau
    Nước trà lóng lánh một màu trắng hoa
    Chén đầu trơn miệng điểm qua
    Chén hai cô độc phiền hà đi hoang
    Nỗi lòng dốc sạch xua tan
    Chén ba bụng chứa năm ngàn sách hay
    Chén bốn mồ hôi rịn đầy
    Bất bình sự thế cũng bay ra ngoài
    Chén năm trong sạch hình hài
    Được đà tách sáu hồn bay lên trời
    Chẳng nhấp chén bảy nổi rồi
    Nhẹ vờn gió thổi hai nơi nách mình.
    Sài Gòn 19/12/2016.

    Trả lờiXóa
  2. Tôi có đăng bài của nhà thơ Chu Đình An nói về vụ một nhà thơ thành Nam đạo hai câu thơ đề từ blog của TĐK (Cái còn thì vẫn còn nguyên / Cái tan thì tưởng lâu bền cũng tan). Tôi có đề nghị nhà thơ TĐK cho ý kiến. Nhưng hình như TĐK là người nổi tiếng nên tự cho phép mình được khiếm nhã, coi thường người khác mà không thèm trả lời. Tôi tâm sự với một nhà thơ là bạn gần gũi với TĐK thì được nhà thơ an ủi: "Ông thông cảm đi. TĐK cũng đi đạo ngạn ngữ Đức thì còn mặt mũi nào mà trả lời ông nữa!" Tôi vỡ nhẽ: Có tài thì cũng tài đạo tinh vi....

    Trả lờiXóa
  3. Anh có biết 2 câu thơ này của ai không? nhờ chỉ giáo giùm xin cám ơn.

    Đêm nầy yên ổn ngồi với nguyệt
    Trà pha lá vối tạm rằng ngon

    Trả lờiXóa
  4. https://www.thivien.net/Qu%C3%A1ch-T%E1%BA%A5n/%C4%90%C3%AAm-r%E1%BA%B1m-th%C3%A1ng-n%C4%83m/poem-YD8KNqQQL6JwnzGC7bBcBA

    Trả lờiXóa