Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016

NHỮNG THÀNH NGỮ CÓ XUẤT XỨ TỪ THƠ CỔ ĐIỂN VÀ ĐIỂN CỐ (Kì 4)


TS Nguyễn Ngọc Kiên

          TS.Nguyễn Ngọc Kiên


          (11) Bãi bể nương dâu

          Thành ngữ “bãi bể nương dâu” nói về những thay đổi lớn trong cuộc đời và trong xã hội. Thành ngữ này bắt nguồn từ thành ngữ tiếng Hán “
滄海桑田” [thương hải tang điền], liên quan tới câu chuyện tiên Phật được lưu truyền rộng rãi trong dân gian. Tương truyền, thời Đông Hán có ông Phương Bình, học giỏi tài cao, thi đỗ đạt và được bổ nhiệm làm quan. Sau một thời gian thi thố với đời, Phương Bình đã bỏ quan đi tu. Sau đó, ông đắc đạo và trở thành Phật. Một lần Phật Phương Bình giáng xuống nhà Thái Kinh (người đời Hậu Hán) cho mời tiên nữ Ma Cô đến. Ma Cô nói với Phương Bình rằng: “接侍以来已见,东海三为桑田” [Tiếp thị dĩ lai dĩ kiến, Đông hải tam vi tang điền]; nghĩa là “Từ khi hầu chuyện với ông, tôi đã thấy bể Đông ba lần biến thành ruộng dâu”.
          Câu chuyện này được lưu truyền rộng rãi trong dân gian và được người đời chắt lọc lấy cái tinh chất để phản ánh sự đổi thay của trời đất và cuộc sống. Trong văn học Trung Quốc, hình ảnh “bãi bể nương dâu” trở thành tứ cho nhiều câu thơ, bài thơ nổi tiếng. Chẳng hạn, trong một bài thơ của Tô Thức đời Tống có câu: “不惊渤澥桑田变” [Bất kinh bột giải tang điền biến]. Nghĩa là: “Không sợ bể Đông biến thành ruộng dâu”. Cũng nhờ câu chuyện trên mà về sau trong tiếng Hán xuất hiện thành ngữ “滄海桑田” [thương hải tang điền].
          Bài hát mở đầu và kết thúc bộ phim “Tây du kí” của đạo diễn Dương Khiết có tên “Ngũ bách niên tang điền thương hải”, nhạc Hứa Cảnh Thanh, lời Diêm Túc có đoạn:


         
五百年桑田滄海,
         
頑石也長滿青苔,
         
長滿青苔。
         
五百年桑田滄海,
         
頑石也長滿青苔,
         
長滿青苔。
         
只一顆心兒未死,
         
向往看逍遙自在,
         
逍遙自在。
         
哪怕是野火焚燒

          [Ngũ bách niên tang điền thương hải,
          Ngoan thạch dã trường mãn thanh đài,
          Trường mãn thanh đài.
          Ngũ bách niên tang điền thương hải,
          Ngoan thạch dã trường mãn thanh đài,
          Trường mãn thanh đài
          Chỉ nhất khoả tâm nhi vị tử,
          Hướng vãng khán tiêu dao tự tại,
          Tiêu dao tự tại.
          Na phạ thị dã hoả phần thiêu
]

          (Dịch thơ:
          Năm trăm năm vật đổi sao dời
          Đá vô tri cũng ngậm ngùi rêu xanh,
          Năm trăm năm! năm trăm năm!
          Ngũ hành Sơn nặng, giam cầm thân ta.
          Bao ngày bão tuyết sương sa
          Chim bay hút bóng, mắt nhoà cánh chim…
          Còn đây rừng rực trái tim,
          Thương về chốn cũ dõi tìm tiêu dao.
          Anh hùng ngang dọc Trời cao,
          Sá chi lửa đốt, sợ nào giá băng.)
                             (Bản dịch Hoàng Tâm)

          Tiếng Việt đã mượn thành ngữ này theo lối mượn ý dịch lời. Về ý nghĩa, “bãi bể nương dâu” cũng nói đến sự đổi thay thế sự với bao nỗi nuối tiếc, ngậm ngùi. Nó thường xuất hiện trong văn học cổ điển. Chẳng hạn, trong bài “Ai tư vãn” của Lê ngọc Hân khóc vua Quang Trung:
          Phút giây bãi bể nương dâu
          Cuộc đời là thế biết hầu nài sao.
Hoặc:
          Khóc vì nỗi thiết tha sự thế
          Ai bày trò bãi bể nương dâu.
                 (Nguyễn Gia Thiều - Cung oán ngâm khúc)

          Trong khi sử dụng, các tác giả thường rút gọn “bãi bể nương dâu” thành “bể dâu” hay “dâu bể”. Dạng thức này sở dĩ tồn tại được vì nó vẫn có khả năng khiến cho người đọc liên tưởng tới điển tích đã nói trên. Trong kiệt tác “Truyện Kiều” Nguyễn Du đã không dưới hai lần dùng thành ngữ này ở dạng rút gọn:
          Trải qua một cuộc bể dâu
          Những điều trông thấy mà đau đớn lòng
                             (Nguyễn Du - Truyện Kiều)
          Cơ trời dâu bể đa đoan
          Một nhà để chị riêng oan một mình
                             (Nguyễn Du - Truyện Kiều)

          Gần nghĩa với “bãi bể nương dâu”, trong tiếng Việt còn có các thành ngữ “sông cạn đá mòn” và “vật đổi sao dời” (Xem thêm phần I của bài viết này). Những thành ngữ này đều nói về sự thay đổi lớn lao của cuộc đời, của sự thế, nhưng không có sắc thái ngậm ngùi, nuối tiếc như “bãi bể nương dâu”. Về phạm vi sử dụng, các thành ngữ “vật đổi sao dời”, “sông cạn đá mòn” thường chỉ nói về sự thay đổi của thiên nhiên, của trời đất trong sự so sánh với cái bất biến của tấm lòng son sắt, chung thủy. Chẳng hạn:
          Dù cho sông cạn đá mòn
          Bắc Nam ta vẫn là con một nhà
                                      (Ca dao)
          Đặc biệt, những thành ngữ này thường dùng trong những lời thề ước, chẳng hạn:
          Dẫu rằng vật đổi sao dời
          Tử sinh cũng giữ lấy lời tử sinh
                             (Nguyễn Du - Truyện Kiều)
          Dù cho sông cạn đá mòn
          Còn non còn nước vẫn còn thề xưa
                             (Tản Đà – Thề non nước)

          (12) Muôn hồng nghìn tía

          Thành ngữ “muôn hồng nghìn tía” (万紫千红) [vạn tử thiên hồng], hình dung trăm hoa đua nở, nhiều màu rực rỡ, tạo nên cảnh sắc lộng lẫy, vô cùng tươi đẹp. Nghĩa bóng: vạn vật phong phú đa sắc màu ; cảnh tượng xã hội phồn vinh, thịnh vượng. Nó có xuất xứ từ bài thơ “春日” [Xuân nhật] của Chu Hy đời Nam Tống. Nguyên văn:

         
勝日尋芳泗水濱,
         
無邊光景一時新。
         
等閒識得東風面,
         
萬紫千紅總是春。

          (Phiên âm:
          Thắng nhật tầm phương Tứ thuỷ tân,
          Vô biên quang cảnh nhất thời tân.
          Đẳng nhàn thức đắc đông phong diện,
          Vạn tử thiên hồng tổng thị xuân
.)

          (Dịch nghĩa:
          Ngày đẹp trời, đi tìm hoa ở bến Tứ. Quang cảnh bao la mỗi lúc một đổi mới. Dễ gì nhìn thấy mặt gió đông. Muôn hồng nghìn tía đều thuộc về mùa xuân cả)

          (Dịch thơ :
          Bến Tứ trời quang dạo gót chân,
          Cảnh nào là cảnh chẳng thanh tân.
          Gió xuân đã để người xem mặt,
          Muôn tía ngàn hồng một sắc xuân.)
                             (Bản dịch của Nam Trân)

          Trong tiếng Việt, “muôn hồng nghìn tía” thường xuất hiện trong các tác phẩm thơ hiện đại với các biến thể “nghìn tía muôn hồng”, “trăm tía nghìn hồng”. Chẳng hạn:
          Tay em ôm ấp bên lòng
          Thân em, nghìn tía muôn hồng cũng thua
                             (Xuân Diệu – Thân em)
          Phố xá thênh thang mùa lễ hội
          Trăm hồng nghìn tía vẽ tranh xuân
          Riêng em yểu điệu màu thiên lý
          Nón múa cho trời bỗng thêm duyên
                   (Mường Mán - Hương sắc tháng Giêng)

          Người viết bài này, trong một lần thăm động Ngườm Ngao ở Trùng Khánh Cao Bằng, đã bị “hút hồn”, choáng ngợp trước vẻ đẹp kỳ bí của hang động, đã cảm tác:
          Thác vàng, bạc giữa đài sen
          Muôn hồng ngàn tía đua chen diệu kì!
                   (Nguyễn Ngọc Kiên – Thơ viết ở Ngườm Ngao)
                                              
          (13) Tan xương nát thịt

          “Tan xương nát thịt” là thành ngữ gốc Hán (粉身碎骨) [phẩn thân toái cốt], nghĩa là nghiền vụn xương, làm nát thân mình. Nghĩa bóng: vì một mục đích nào đó hoặc vì nghĩa cả mà liều hi sinh xương thịt không tiếc thân mình.
          Thành ngữ “粉身碎骨” có xuất xứ từ bài thơ “石灰吟” [Thạch hôi ngâm] của于谦 (Vu Khiêm) đời Minh. Nguyên tác:

         
千錘萬擊出深山,
         
烈火焚燒若等閒。
         
粉身碎骨全不怕,
         
要留清白在人間。

(Phiên âm:
          Thiên chuỳ vạn kích xuất thâm san,
          Liệt hoả phần thiêu nhược đẳng nhàn.
          Phẩn thân toái cốt toàn bất phạ,
          Yếu lưu thanh bạch tại nhân gian.)

          (Đầu đề có bản chép là: “
詠石灰” [Vịnh thạch hôi], nghĩa là Vịnh đá vôi. Câu thứ ba là: 粉身碎骨全不顧 [Phẩn thân toái cốt toàn bất cố]).

(Dịch thơ:
          Đục tận non xanh lấy đá về
          Lửa hồng thiêu đốt có hề chi
          Nát thịt xương tan nào có sợ
          Chỉ mong thanh bạch tiếng còn ghi.)

          Tiếng Việt đã mượn thành ngữ này theo lối mượn ý dịch lời là “tan xương thịt nát thịt”. Ngoài cách hiểu như trên, theo giải thích của Từ điển tiếng Việt, (NXB Đà Nẵng, 2006, tr. 888): “Chết một cách thê thảm. Ví dụ: Dù tan xương nát thịt cũng cam lòng.”

          Thành ngữ này thường được sử dụng trong thơ ca, trong đó các từ có thể hoán đổi vị trí cho nhau. Đầu thế kỉ XX, nhà thơ Phạm Tất Đắc đã viết tập thơ “Chiêu hồn nước” bất hủ, gồm 198 câu song thất lục bát, với lời lẽ thống thiết dấy lên lòng yêu nước của người Việt trước cảnh nước mất nhà tan. Bài thơ đã trở thành tài sản vô giá trong kho tàng văn học cách mạng Việt Nam, trong đó có đoạn:
          Hồn hỡi Hồn, con Hồng cháu Lạc!
          Bấy lâu nay giặc giả chiến tranh,
          Bấy lâu thịt nát xương tan,
          Bấy lâu tím ruột thâm gan vì Hồn.
                   (Phạm Tất Đắc – Chiêu hồn nước)

          Nhà thơ Tố Hữu cũng đã không dưới hai lần sử dụng thành ngữ này trong các tác phẩm của mình. Chẳng hạn:
          Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ
          Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát
          Dù bom đạn xương tan, thịt nát
          Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...
                   (Tố Hữu – Hoan hô chiến sĩ Điện Biên)

          Đứng lên thân cỏ, thân rơm
          Búa liềm không sợ súng gươm bạo tàn!!
          Máu có chảy, xương tan thịt nát
          Bớ công nông! Tiếng hát càng cao
                   (Tố Hữu – Ba mươi năm đời ta có Đảng)

          Trong bài thơ sau của Luân Tâm cũng sử dụng thành ngữ “tan xương nát thịt” ở dạng đảo trật tự từ cho phù hợp để diễn tả ý nghĩa “cho dù có thế nào chăng nữa thì cũng không bao giờ sai lời thề ước”:

          Ra đi? Hay chỉ là trở về
          Thăm lại vườn xưa thăm bờ tre
          Cỏ cây còn nhớ chân lưu lạc
          Thịt nát xương tan chẳng lỗi thề?
                             (Luân Tâm – Hoa tàn)

          (14) “Phiên vân phúc vũ” (
翻云、覆雨)

          Thành ngữ “Phiên vân phúc vũ” (
翻云、覆雨) là dạng rút gọn của “Phiên thủ vi vân, phúc thủ vi vũ” (翻手为云、覆手为雨). Ý nghĩa của thành ngữ này là chỉ sự thay đổi như chong chóng, không biết đâu mà lần. Nghĩa bóng chỉ những người hay thủ đoạn, phản phúc, lèo lái, đảo điên. Nó có xuất xứ từ bài thơ “贫交行” [Bần giao hành] của 杜甫 (Đỗ Phủ). Nguyên tác:

         
翻手为云复手雨,
         
纷纷轻薄何须数。
         
君不见管鲍贫时交,
         
此道今人弃如土。

[Phiên âm:
          Phiên thủ vi vân, phúc thủ vũ,
          Phân phân khinh bạc hà tu sổ ?
          Quân bất kiến Quản Bão bần thì giao,
          Thử đạo kim nhân khi như thổ.]

(Dịch nghĩa:         Nghiêng bàn tay làm mây, úp bàn tay làm mưa. Bọn người khinh bạc cần chi đếm. Bạn chẳng thấy Quản Trọng và Bão Thúc Nha bạn với nhau lúc nghèo. Đạo ấy người đời nay vứt đi như vứt hòn đất)

(Dịch thơ:
          Mây mưa tráo trở bàn tay,
          Những tuồng khinh bạc đời này biết bao.
          Không coi giao nghị Quản Bào,
          Mà nay đạo ấy rẻ sao như bùn.)
                             (Bản dịch của Trần Trọng Kim)

          Câu thơ trong bài sử dụng thủ pháp khoa trương đặc sắc:  
翻手为云复手雨”, sau biến ra thành ngữ: “翻手为云、覆手为雨” nói rút gọn là “翻云、覆” hàm ý là ngửa bàn tay là mây, úp bàn tay là mưa, với ý nghĩa như đã phân tích ở trên.

          Tương tự như “Phiên vân phúc vũ”, tiếng Việt có thành ngữ “sớm nắng chiều mưa”.

          Thành ngữ này có thể tả thực, chẳng hạn khi nói về thời tiết Sài Gòn “sớm nắng chiều mưa, Còn giữa trưa thì chỗ mưa chỗ nắng.”
          Nó thường được dùng để miêu tả tính khí thất thường của con người nhất là phụ nữ và sử dụng nhiều trong các đầu báo. Chẳng hạn: Sol Campbell: sớm nắng chiều mưa, (Việt báo, 31/7/2006); Bạn gái “sớm nắng chiều mưa” (Vnexpress, 17/10/2013).

          Không những thế, “sớm nắng chiều mưa” còn được dùng để biểu thị sự thay đổi, diễn biến thất thường của sự vật. Chẳng hạn: Sớm nắng chiều mưa như… giá dầu, (Thái Nguyên online, 15/01/2009); Giá ớt “sớm nắng chiều mưa” (Tin tức nông nghiệp, 25/4/2014), sau đó được các báo “Công thương điện tử” và “NN thị trường” dẫn lại.
          Thành ngữ “sớm nắng chiều mưa” cũng được sử dụng nhiều trong thơ ca. Chẳng hạn, trong bài thơ sau của Tố Hữu:
          Thù bạn đời nay có khác xưa,
          Nghĩa tình e sớm nắng chiều mưa?
          Chợ trời thật giả đâu chân lý?
          Hàng hoá lương tâm cũng thiếu thừa?
                             (Tố Hữu – Tâm sự)

Hoặc:
          Anh đừng về nữa cánh đồng sim
          Đã chín lịm nhưng người quên không hái
          Em lang thang trong thực tại
          Vơ vẩn trách trời sao sớm nắng chiều mưa.
          Anh đừng về nữa những buổi chiều thưa
          Nắng ngưng chảy bóng mình như mờ ảo
                             (Thuỳ Dương – Anh đừng về)

          Các tác giả cũng thường hay hoán đổi vị trí các từ vì lí do hiệp vần. Chẳng hạn:
          Tình em nắng sớm mưa chiều
          Tâm em còn có bao nhiêu đường tròn
                   (Nguyễn Ngọc Kiên – Tình anh và em)
          Khi để nói về những người hay thủ đoạn, tráo trở, lật lọng, người Việt cũng dùng thành ngữ “trở mặt như trở bàn tay”…

          (Hết)

Nguyễn Ngọc Kiên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét