Nhà văn Trần Quốc Tiến |
Nguyên
An thực hiện
Cuộc
trò chuyện giữa nhà phê bình Nguyên An với nhà văn Trần quốc Tiến ngay tại ngôi
nhà Trần quốc Tiến đang ở - làng Đông xã Nam Vân thành phố Nam Định cuối – 2016 .
Nguyên An: Mới có mấy năm mà lần này
đến thăm anh thấy quê hương anh, gia đình anh đổi mới nhiều quá. Một vùng quê
chiêm trũng bông nổi cho chim bông chìm cho cá, suốt cả chiều dài lịch sử con
người nơi đây sống trong nghèo khổ, đói khát, bệnh tật, chiến tranh... cuộc đời
mỗi con người như căng ra để chịu đựng.
Nhà văn cũng như mọi người, khi dân làng khổ thì gia đình nhà văn cũng khổ, ăn
đói mặc rách suốt ba chục năm ròng, giờ dân làng đổi mới khấm khá lên, trong đó
có gia đình nhà văn đã làm được nhà mới, có phòng văn rộng rãi khang trang, để
từ đây bay lên những tác phẩm về làng quê đậm đà chất hương đồng gió nội... Trước
hết xin chúc mừng gia đình nhà văn và quê hương nhà văn. Thưa nhà văn, Nguyên
An đã đọc các tác phẩm từ truyện ngắn, tiểu luận, và nhất là mảng tiểu thuyết
với những quyển dày tới năm sáu trăm trang mang đậm đà chất quê Đồng bằng Bắc
bộ của anh suốt mấy chục năm rồi. Thú vị lắm. Cảm ơn anh nhiều. Hôm nay Nguyên
An về đây thăm anh và gia đình đồng thời để độc giả biết thêm về nhà văn của
hương đồng gió nội nơi quê hương Nam Định có truyền thống địa linh
nhân kiệt, xin có cuộc phỏng vấn cùng anh.
Trần quốc Tiến là nhà văn của làng quê nước
Việt. Ý này Nguyên An đã dùng để viết về nhà văn lão thành Kim Lân là nhà
văn viết về nông thôn Việt Nam những năm bốn mươi,năm mươi của thế kỷ hai mươi.
Đọc xong bài mình, cụ Kim Lân cười rất vui nói: Anh gọi tôi thế, định danh tôi
thế thì tôi chết cũng yên được rồi... Nhà văn lão thành nói thế với vẻ trầm
ngâm, giọng nhỏ nhẹ. Âý là một chiều cuối năm trời lạnh ở xóm Hạ Hồi năm 1986.
Trần
quốc Tiến là nhà văn bẩm sinh của làng quê nước Việt những năm 1960 – 1970, của
thế kỷ hai mươi và kỳ lạ thay, may mắn thay ông cũng đã là nhà văn của làng quê
nước Việt những năm đầu của thế kỷ hai mốt rồi. Xin bắt đầu cuộc trò chuyện.
Nguyên An: Thưa nhà văn Trần quốc Tiến. Ông từng nói ông
đã tham gia từ phong trào tổ đổi công, rồi hợp tác xã cấp thấp, hợp tác xã cấp cao,
cho đến thời đổi mới suốt chiều dài nửa thế kỷ.Vậy ông làm gì trong thời gian
dài như vậy?
Trần Quốc Tiến:
Tôi vừa làm xã viên vừa làm cán bộ hợp tác xã.Về mặt xã viên tôi đi cày, đi
bừa, nhổ mạ gánh phân, cào cỏ cải tiến hai tiến một lùi, đào đất làm thủy lợi,
làm bèo dâu vân vân... Nghĩa là việc gì cũng làm và làm thạo. Còn về mặt cán bộ
thì tôi là đội phó, thư ký đội sản xuất
đến đội tưởng đội chăn nuôi cá đến phó ban chăn nuôi hợp tác xã... Rồi dạy học
thì làm cán sự vỡ lòng xã lúc tôi mới mười lăm mười sáu tuổi, rồi dạy cấp hai
bổ túc văn hóa, về mặt quân sự thì làm trung đội trưởng dân quân, phân đoàn
trưởng thanh niên, làm phó ban văn hóa xã, là cầu thủ đá bóng chân giầy của
huyện, là diễn viên đội chèo của xã chuyên đóng giả con gái vân vân. Được đưa
vào diện cảm tình Đảng, nhưng mái không thấy kết nạp, tôi xin rút .
Nguyên
An: - Như vậy là về mặt vốn sống ông
có được cả hai thứ, vốn sống của một xã
viên thực thụ và vốn sống của anh cán bộ hợp tác xã sáng xách túi đi tối xách
túi về... Nó vô cùng quý để ông đưa vào những tác phẩm của ông sau này như tiểu
thuyết Ổ RƠM – CỎ - LÃO BÕM... chẳng hạn. Trong một cuộc tâm sự với nhà văn
Nguyễn Khải ở trụ sở Tạp chí văn nghệ quân đội số 4 Lý Nam Đế Hà Nội mùa xuân năm 1994, Nguyễn Khải
có bảo ông thử tóm tắt cái thời hợp tác xã kéo dài ba chục năm trong vòng hơn
chục từ, ông đã trả lời ngay: “Đó là cái thời LÀM ĐIÊU ĂN THẬT LÀ QUAN – LÀM
ĐIÊU ĂN GIẢ LÀ DÂN”. Ông giải thích nhận định của ông thế nào?
Trần Quốc Tiến:
- Là cái thời mà quan cũng làm điêu mà
dân cũng làm điêu, cả hai cùng hỏng chứ không phải chỉ có quan làm hỏng. Quan
thì sáng xách túi đến trụ sở ngồi chơi, uống trà, hút thuốc, hoặc vờ vịt sắn
quần lội ruộng, rồi trưa hoặc tối thì liên hoan... Còn dân thì vác cào cuốc ra
đồng ngồi chơi là chính cho đến khi nghe tiếng kẻng hoặc tiếng trống là vác cày
vác cuốc về... Quan làm điêu nhưng quan có chén nên quan làm điêu mà ăn thật, còn
dân làm điêu nhưng lúa xấu không có thóc chia công điểm nên ăn giả.... Nguyễn Khải còn bảo tôi là nên đề
nghị đưa câu này vào sách ghi nét vì chỉ có mười hai từ mà bao quát được cả đặc
trưng một thời quan liêu bao cấp kéo
dài một phần ba thế kỷ hai mươi...
Nguyên An: - Chắc chắn ông yêu tha
thiết quê hương mình. Nhưng cũng chắc chắn là có những điều nào đó làm ông
không vừa ý, vì nó làm cản trở sự đổi mới của quê hương ông? Chẳng hạn lớp cán
bộ hôm nay so với lớp cán bộ thuộc loại cha anh thì thế nào, liệu có hơn không?
Trần Quốc Tiến:
- Ai cũng tưởng là hơn thế mà không hơn nới lạ. Công bằng mà nói cũng có được
một dạo xuất hiện được một dàn cán bộ trẻ có năng lực có nhiệt tình làm ăn rất
năng nổ, mạnh dạn với cái mới... Nhưng rồi chẳng bao lâu cả một dàn người ấy bị
siêu vi trùng tham nhũng xâm nhập, một đêm họ bị công an về khóa tay bắt đi gần
hết từ bí thư đến chủ tịch, phó bí thư, phó chủ tịch, kế toán, địa chính... Bắt
hết rồi sau đó thì ngồi nhà đá bóc lịch, người bẩy năm người năm năm... Có tài
mà không có đức nên hỏng cả. Lớp sau làm ăn theo kiểu dĩ hòa vi quý, ấy là nói
xã còn cấp thôn xóm thì ôi thôi lương lậu chả là bao nên không có người có khả
năng muốn nhận, một cái nhà văn hóa nhà nước cho làng tôi với hơn ba tỷ đồng lấy từ nguồn đầu
tư cho nông thôn đổi mới, có khuôn viên rất rộng,nhà cửa hiện đại khang trang, địa
thế tuyệt vời hòa hợp với khung cảnh thiên nhiên rất đẹp... thế mà từ lúc cắt
băng khánh thành đến giờ đã nhiều năm trôi qua là để hoang một năm họp đội một lần, sân rêu cỏ
mọc, gà bới chó ỉa... nhà văn hóa thành nhà vô văn hóa...
Lớp
cán bộ ngày trước họ kém về văn hóa nhưng họ làm việc hăng say nhiệt tình theo
kiểu lấy cần cù bù tài năng, còn cán bộ hôm nay có bằng cử nhân tại chức, nhưng
bằng thật mà học giả, lại không chịu rèn luyện thích chơi bời hưởng thụ, nên thật sự kém lớp cha anh... Tôi
đã nói nhiều lần rằng ta phải có trường đào tạo làm người tốt, ở ta có qúa
nhiều trường dạy làm quan mà không có trường dạy làm người tốt cho nên quan
hỏng. Phải có bằng làm người tốt rồi mới cho làm quan dù là quan cấp xã, thì
khi làm quan sẽ là quan tốt. Xã hội ta cái hỏng lúc này là hỏng về mặt con
người, các quan tham nhan nhản là quan hỏng về mặt con người, các cơ chế chính
sách định ra dù về mặt lý thuyết có tốt đến bao nhiêu, nhưng rơi vào tay những
con người không tốt, cái tốt sẽ biến thành cái không tốt và phản tác dụng với
đời sống... Điều đó giải thích vì sao có nhiều chủ trương, chính sách ra đời ở tầm chính phủ, quốc hội thì rất hay
nhưng khi đưa vào đời sống thì bất khả thi, rồi thành vô tác dụng...
Nguyễn văn An: - Trong các tác phẩm của
ông,các nhân vật chính thường là nhân vật tiêu cực, mà là cán bộ đang chức đang
quyền, vì sao lại như vậy?
Trần Quốc Tiến:
- Mỗi nhà văn có một cái tạng riêng khi đề cập đến các vấn đề của con người và
xã hội. Tôi cũng đã nhiều năm tham gia hàng ngũ cán bộ, bạn bè tôi suốt chiều
dài nhiều chục năm cũng đều là cán bộ nhà nước từ thấp đến cao, và hễ ngồi nói
chuyện là chuyện về cán bộ thời nay... nên tôi rất hiểu giới này. Và cái tạng
của tôi là thích viết về những vị ăn như rồng cuốn nói như rồng leo, còn làm
thì như mèo mửa... Với lại vấn đề là cái TÂM viết hoa của tác giả. Tâm hồn nhà
văn trong sáng thì viết về cái đục mà vẫn trong, viết về cái ác mà vẫn thiện...
Nhà văn như con tằm, con ong. Là con tằm nhà văn rút ruột mình, đem tâm hồn
trong sáng soi vào bóng nước thời gian, nhân tình thế thái, chia sẻ đau thương
nhuộm thắm tình người, đem gió mát mưa xuân tưới lên những mảnh đời bất hạnh để
cả nhân gian có thêm nụ cười, bớt đi những dòng nước mắt. Là con ong,nhà văn
cần mẫn hút nhị ở trăm hoa để làm nên mật ngọt cho đời, bằng ngôn ngữ xây nên
những lâu đài, những kỳ quan văn chương sống cùng năm tháng. Tác phẩm là thước
đo độ lớn của nhà văn... Tác phẩm lớn hay nhỏ, hay hay dở không phụ thuộc vào
khen hay chê, mà phụ thuộc vào tài năng người cầm bút, nếu nhà văn là người có
tài lại có tâm có đức thì dù viết kiểu gì tác phẩm của ông ta cũng có giá trị, có
ích cho cuộc sống con người...
Nguyên An: - Ai cũng biết muốn có văn
chương đích thực thì trước hết phải có nhà văn đích thực. Vậy ông quan niệm thế
nào là nhà văn đích thực?
Trần Quốc Tiến:
- Nhà văn đích thực là nhà văn hội tụ được những yếu tố sau đây: Có đủ Tài - Đức
– Trí - Dũng, sống hết mình, không có khát vọng về quyền uy, chức tước, bổng
lộc, giầu sang, lấy văn chương làm sự nghiệp cả đời, chập nhận mọi hy sinh cho
sự nghiệp...
Nguyên An: - Trong các bài tham luận
của ông ở các đại hội nhà văn, ông hay nói đến cụm từ nhân cách nhà văn, có vẻ
như ông rất đề cao khái niệm này?
Trần Quốc Tiến: - Vâng, tôi hết sức đề cao
nhân cách nhà văn, nhà văn chân chính không thể thiếu nhân cách nhà văn. Trong
một nhà văn chân chính phải có hai nhân cách. Một là nhân cách đời thường, anh
phải sống đẹp với những chuẩn mực ngoài đời để được người đời mến phục, hai là
anh phải có thêm một nhân cách nữa là nhân cách người cầm bút, tức là nhân cách
nhà văn. Có được hai điều ấy thì những trang văn anh viết ra mới thật sự có sự
thuyết phục với bạn đọc. Văn là người, đọc văn biết người là ngư vậy.
Nguyễn
văn An: - Những nhân vật chính của
ông thường là nhân vật tiêu cực có bóng dáng ngoài đời, ông viết cái xấu của họ
như thế có bao giơ ông bị họ rầy rà không?
Trần Quốc Tiến:
- Không, ngược lại tôi được họ rất quý trọng, quyển sách nào của tôi cũng được
họ tìm mua có khi là phải mua với giá cao, thường hơn giá bìa nhiều lần, như
quyển Ổ RƠM mua chợ đen là 500 ngàn đồng trong khi giá bìa có 55 ngàn đồng.
Quyển LÃO BÕM có nhân vật chánh thanh tra Hắc Búa chỉ mê tiền và gái đẹp, đi
đâu là bậy đấy, sách vừa ra ông chánh thanh tra thành phố Nam Định là Hoàng Bá
Bẩy tìm mua ngay, rồi đọc say mê suốt mấy ngày đêm, đọc xong ông tìm về nhà tôi
bắt tay tác giả rồi khen hay quá, ông
tặng quà nhà văn và có lời cảm ơn đã viết về ngành thanh tra...
Nguyên An: Ông giải thích xem vì sao ông viết phê bình
các quan ngày nay rất nặng mà lại được các quan đón đọc và quý trọng ông?
Trần Quốc Tiến: - Các quan ngày nay phần đông
là có học, trong con người mỗi một ông quan từ cấp huyện trở lên đều có hai con
người, một đóng vai trò anh công chức, hai đóng vai trò một anh trí thức, vì
phần lớn đã là cử nhân thạc sỹ, tiến sỹ... Lúc làm việc quan thì anh ta đóng
vai trò anh công chức mẫn cán, còn lúc đọc văn chương thì anh trí thức lên
ngôi, nên thích văn thực. Tôi phê quan mà lại được quan quý trọng là vì vậy. Cái
máy vi tính tôi đang đặt trên bàn làm việc là của Chủ tịch Hội nông dân Việt
Nam mang về tận nhà tặng, một cái nữa, là của giám đốc sở lao động thương binh
xã hội đưa về tặng, cái máy in hiện đại là của trưởng ban tổ chức tỉnh ủy
tặng... Tôi chẳng nịnh ai cả, nhưng tôi được quý trọng...
Nguyên
An: - Tôi cho rằng là nhà văn thực
thì phải có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt, ngoài kiến thức đời sống để
làm chất liệu cho tác phẩm thì kiến thức về xã hội về sử học, chính tri, triết
học, cả về kiến thức các khoa học tự nhiên nữa... nhà văn cũng cần có... Anh là
nhà tiểu thuyết anh có thấy như vậy không?
Trần Quốc Tiến:
- Tôi cho rằng điều ấy rất đúng, cho nên suốt mấy chục năm tôi có kế hoạch học
tập. Tôi say mê các loại sách về triết học, sử học, các sách về đời sống con
người dưới các dạng... cũng say mê như các sách văn học. Muốn học tập, nghiên
cứu những thứ đó thì phải có sách, vì vậy khâu đầu tiên là phải tìm sách để
mua, mua được sánh theo kế hoạch rồi thì phải có lịch thời gian để đọc, có điều
tôi thấy vui là tôi ngốn những thứ khô
như triết học, và các sách chính trị... cũng say mê như đọc tiểu thuyết, cho
nên chẳng có gì là khó khăn trong quá trình tiếp nhận... Sau này tôi viết nhiều
bài tiểu luận in báo được bạn đọc yêu thích chính là do tôi cả một thời gian dài
chăm đọc và nghiên cứu sách lý luận, triết học các loại...
Nguyên
An: - Bây giờ xin chuyển sang các vấn đề về bếp núc của nhà tiểu thuyết. Câu
hỏi đầu tiên là các nhà tiểu thuyết khi sáng tác thường có hai cách: Một là có
đề cương dàn dựng chu đáo tỉ mỉ từng phần, từng chương, thậm chí là từng đoạn. Rồi
nhân vật nào cũng có lý lịch toàn phần rất cụ thể đến cả hình dáng, nết na, tính
tình, sở thích vân vân... Cách viết này được đến trên chín chục phần trăm các
nhà văn áp dụng. Còn cách thứ hai là không làm gì cả, chỉ suy nghí thật kỹ
trong đầu rồi cứ viết, viết đến đâu nghĩ đến đó... Ông thuộc loại nào?
Trần Quốc Tiến: - Tôi thuộc loại thứ hai, nghĩa
là loại chỉ có may ra vài phần trăm nhà văn thực hiện khi viết. Tôi không có sổ
riêng ghi dàn truyện,làm phác thảo, thậm chí là quên cả tên nhân vật khi viết
tiếp, lúc ấy tôi phải đọc lại phần đã viết để tìm tên nhân vật. Khi bắt đầu
viết tôi chẳng biết gì cả, rất mù mờ như người đi trong sương sớm, nhưng rồi đi
mỗi bước lại thấy sáng ra như khi mặt trời lên... và điều kỳ diệu cũng xuất
hiện là cùng với ánh sáng mặt trời là mọi thứ cần để viết tiếp cũng hiện ra rõ
mồn một tôi cứ say sưa chộp lấy mà đưa vào bản thảo... Điều tôi không giải
thích được là viết thoáng như vậy mà sau khi viết xong, đọc lại bản thảo không
thấy cần phải sửa chữa, thêm bớt gì đáng kể, rất sạch sẽ, cứ như người đã thuộc
cả truyện từ trước...
Viết
tiểu thuyết là cả một cuộc thám hiểm, nếu biết rõ tất cả trước thì còn đâu cảm
hứng mà đi thám hiểm? Tất cả điều làm cho người viết say mê viết, rồi truyền
cho người đọc say mê đọc là yếu tố bất
ngờ, không lường trước, không biết trước, vì vậy cách viết có dàn dựng tỉ mỉ,
kết cấu của truyện có chặt chẽ nhưng sẽ thiếu đi ngọn lửa làm say mê bạn đọc vì
nó thiếu yếu tố bất ngờ... Cách này thường là của người ít vốn sống với đề tài
mình theo đuổi nên phải chặt chẽ tỉ mỉ...
Nguyên
An: - Thế còn cảm hứng sáng tác,có nhất thiết phải
chờ có cảm hứng rồi mới đến bàn viết?
Trần Quốc Tiến: - Không cần, vì cảm hứng không
bao giờ tự nhiên đến. Tôi viết văn cúng giống như đi cày, thợ cày đến giờ là
dong trâu vác cày ra ruộng, nhà văn cũng vậy, đến giờ là ngồi vào bàn,làm việc
đi, rồi cảm hứng sẽ đến...
Nguyên An:
- Ông có đi học các lớp về nghệ thuật sáng tác nhiều không?
Trần Quốc Tiến: - Không, tôi chưa bao giờ đi
học để được dạy viết văn. Tôi cho rằng viết văn cũng như lấy vợ, mỗi người có
cái rất riêng của mình, tự mình tìm lấy, không ai dạy được ai. Nhà thơ thần
đồng lúc chưa học ai thì làm thơ đúng là thần đồng, đến khi học đủ các thứ ở
những trường cao nhất về văn trong nước đến trường có uy tín cấp quốc tế hàng
chục năm thì ôi thôi cái này vào nhiều quá thì cái kia phải chạy ra, mất đi
tính hồn nhiên của sáng tác thơ, chuyển sang viết phê bình thì lại lấy lại đựợc
chất thần đồng, và khi người ta chưa kịp nhận ra chất thần đồng trong phê bình
của anh thì anh bị đánh tơi tả. Tôi nói như thế không phải là phủ nhận sự học
tập ở nhà trường mà là muốn khẳng định cái riêng, cái độc lập ở mỗi nhà văn, cái
tự tạo cho mình cái bản sắc riêng mới là quan trọng. Tôi nghiên cứu cách viết
của nhiều nhà văn có tài, rồi tự làm ra cách viết riêng của mình không giống
ai...
Nguyên
An: - Bạn đọc có nhận xét rằng văn ông giầu đối thoại mà đối thoại hay, ông
có bí quyết nào trong sử dụng đối thoại cho văn mình?
Trần Quốc Tiến: - Những câu đối thoại hay là
tôi nhặt từ đời sống, viết về nhân vật nào phải am hiểu đầy đủ về nhân vật đó, thì
sẽ có đối thoại hay, đối thoại phải phản ánh được nội tâm người đang đối thoại,
điều này tưởng dễ mà hóa khó vì nó đòi hỏi nhà văn phải có nhiều vốn sống, đỏi
hỏi nhân vật của anh là con người sống động chứ không phải là hình nhân coi
đỗ...
Nguyên
An: - Ông sống ở làng, viết ở làng từ lúc sinh ra, lúc lớn lên cầm bút tập
viết văn, rồi có tác phẩm được cả làng ăn mừng, trở thành nhà văn quốc gia về
làng vinh quy bái tổ... Cho đến giờ có điều gì làm ông thích nhất?
Trần Quốc Tiến:
- Điều tôi thích nhất là khi còn bé, vừa lọt lòng ra đã được cả làng gọi là
cậu, vì tôi con cầu tự Đức Thánh Trần. Âý là sau này tôi nghe người làng nói
lại. Lớn lên một tí, chưa có tác phẩm nào được in, cả làng rồi cả xã ai ai cũng
gọi là nhà văn, gặp ngoài đường ai cũng chào “Chào nhà văn ạ...”. Ai ai cũng
muốn tôi đến nhà chơi, ngày ấy nhà văn nước ta đếm trên đầu ngón tay nên danh
hiệu nhà văn cao giá lắm. Nhà văn đồng nghĩa với giá trị văn hóa. Có anh thợ
cắt tóc ở làng dưới tên Hải vì yêu nhà văn quê hương mà mười lăm năm cứ đều đặn
tháng hai lần anh cắp đồ nghề đến tận nhà cắt tóc cho tôi mà không bao giờ lấy
tiền, cắt tóc cho tôi xong anh ngồi lán lại một lúc nghe vài đoạn văn trong bản thảo tôi mới viết gật gù khen
hay rồi vui vẻ ra về, để rồi hai tuần sau lại cắp đồ nghề đến... Có ông Hựu ở làng trên làm nghề sửa chữa xe đạp, cũng hàng chục năm
ngày nào cũng sửa xe giùm tôi vì cái xe của tôi quá tồi nên ngày nào cũng hỏng
và ngày nào cũng phải giắt đến cho ông sửa chữa mà không bao giờ ông nhận tiền
công, chỉ nghe một đoạn văn là mãn nguyện... Có độc giả ở xã bên đến tìm tôi
mượn tập truyện ngắn Mỹ Nhân Làng Trọng Nghĩa về xem, khi trả sách có kèm theo
cân đường và hộp sữa, ông đặt vào tay tôi và nói: Cảm ơn nhà văn đã cho tôi ăn
bữa đại tiệc, giờ xin trả sách và có tí quả để cảm ơn. Cũng có lần tôi đóng vai
Bao Công thành công. Có một cái ngõ nhỏ là con đường đi của một ngôi nhà của
một gia đình, nhưng ngay cạnh con đường nhỏ ấy là cái ao thả cá của một gia
đình khác, hai ông chủ của hai gia đình ấy đã nhiều lần suýt đánh nhau vì ông
này nhận đoạn đường này là bờ ao của tôi, ông kia bảo đó là cái ngõ nhà tôi để
đi lại, không ai chịu ai, chính quyền can thiệp cũng không ai chịu nhường ai. Mâu
thuẫn ngày một tăng, chuẩn bị đánh nhau to thì vì là cả hai đều quý tôi nên
đồng ý mời tôi đến xử, tôi đến ngay và mời cả hai ông cùng ra đoạn đường tranh
chấp, trước hết tôi vỗ vao ông Gioi, tay chỉ xuống mặt đường và nói: “Đây là
đường ngõ nhà ông...”. Ông này cười thú vị gật đầu, có thế chứ! Tiếp theo tôi
lại vỗ vai ông Các và cũng nói: Đây là bờ ao của ông! Đến lúc này thì cả hai
ông đều ngờ ngợ cái kiểu xử ba phải của tôi, để cho cả hai ông nói ra hết mọi
thắc mắc tôi mới lại vỗ vai từng ông,
trước hết hỏi ông Gioi giả sử cái đoạn đường cong này là ngõ nhà ông thì ông sẽ
thế nào? Ông ta trả lời là tôi sẽ bảo vệ cho tốt để làm đường đi lại... Tôi gật
đầu biểu dương rồi quay ra hỏi ông Các: Còn ông nếu đoạn đường này là bờ ao của
ông thì ông sẽ thế nào? Ông ta cười trả lời là tôi cũng se bảo vệ thật tốt để
giữ cá... Và khi chính từ mồm các ông nói ra được điều ấy các ông mới chợt nhận ra rằng chân lý
là ở sự giả định ấy chứ còn ở đâu... Và từ đấy không còn chuyện tranh chấp, cùng
giữ gìn để cùng tồn tại...
Tôi
được mời làm chủ hôn cho các đám cưới cả làng rồi cả xã, thậm chí cả những xã
xung quanh. Người làng người xã bảo nhau được nhà văn làm chủ hôn cho thì chắc
chắn sống với nhau cả đời hạnh phúc, đặc biệt những đôi do tôi làm mối thì vô
cùng vui, cũng thật bất ngờ là trong suốt mấy chục năm tôi kết duyên và làm chủ
hôn cho có đến mấy chục cặp uyên ương nhưng cho đến giờ họ đã lên ông nên bà, con cháu đầy đàn vẫn sống rất
hạnh phúc. Một hôm mẹ tôi đi đến làng An Lá ở xã bên xem bói xem số gì đó, khi
về mẹ bảo tôi: Hôm nay tao ra chỗ ông
thày Cư, ông ấy là người xem nổi tiếng nhất tỉnh này. Tao chỉ xem cho
tao thế mà ông ấy bảo nhà bà có anh con trai cả năm nay ba tám tuổi, anh ấy đi
đâu có ngồi xuống đất thì người ta cũng bế lên giường cho ngồi... Tôi lặng im
cảm ơn mẹ. Cả làng rồi cả xã chào con là
nhà văn đã nói lên điều ấy đấy như mẹ ơi... Ngày tôi được in quyển sách đầu
tiên đưa về làng sau mười bẩy năm kể từ lúc khởi viết, và mười một năm nằm
duyệt ở Hà Nội, cả làng cả xã cùng vui. Bà con anh em trong xóm ngoài làng cùng
với bạn bè văn chương kéo đến gần như kín hết cái sân rất rộng của nhà tôi ăn khoai lang uống nước vối bờ ao
để chúc mừng, pháo nổ liên hồi từ chiều cho đến nửa đêm, từ đáy lòng, bà con
anh em cùng bạn bè xa gần lần lượt nói lên niềm vui chúc mừng, tôi ngất ngây
hạnh phúc như sống trong mộng. Bà con bạn bè mua sách của tôi, quyển tiểu
thuyết đầu tay ấy có tên là CUỘC VẬT LỘN LÚC RẠNG ĐÔNG, dày 400 trăm trang không
đủ sách bán đành mua chung hai nhà một quyển, bà con gọi là “đánh đụng sách ông
Tiến”. Rồi từ mai cả làng đọc sách của tôi, lúc dưới bóng tre bên cầu bến, lúc
trên bờ ruộng khi ngồi giải lao... Trong buổi cả làng cả xã, cả Hội văn học
nghệ thuật tỉnh chúc mừng sách của tôi, tôi đã súc động đọc bài thơ SÁCH VỀ như sau:
Sách về nước mắt tuôn ra
Bao nhiêu
cay đắng mặn mà là đây
Tôi cầm
quyển sách trên tay
Như cầm tất
cả tháng ngày mồ hôi
Giọt thương
nhớ mẹ cha tôi
Giọt tình
chan chứa tặng người trăm năm
Giọt vui là
của các con
Giọt mừng
gửi bạn vuông tròn anh em...
Khi tối lửa
lúc tắt đèn
Củ khoai
miếng sắn làm nên sách này
Hôm nay bầu bạn giang tay
Anh em quy
tụ tôi say sóng tình
Nửa đời mới
thấy bình minh
Tóc xanh trẻ
lại cho mình yêu ta...
Đông 1990
Rồi
cái ngày được kết nạp vào Hội nhà văn
Việt Nam
mới vui làm sao, hàng tuần lễ từ sáng đến đêm khuya không lúc nào vắng khách
đến chúc mừng. Bà con làng xã đã gọi tôi là nhà văn từ mấy chục năm về trước, từ
cái ngày tôi mới cầm bút tập tọng viết văn chưa có cái gì được in, rồi bây giờ
tôi được Ban chấp hành Hội nhà văn Việt Nam bỏ phiếu bầu là hội viên, nghĩa là
công nhận tôi là nhà văn quốc gia, thật là nằm mơ cũng không dám. Bác trưởng họ
họp họ để chuẩn bị ăn khao và làm lễ tạ ơn TỔ TIÊN, bác gọi tôi sang nhà thờ
rồi căn dặn từng li từng tí phải ăn mặc thế nào, đi đứng ra sao, phát biểu thế
nào ở Hà nội cái ngày dự lễ kết nạp, tôi phải học thuộc tất cả. Từ Hà Nội bỏ
túi ngực cái thẻ hội viên trở về làng, ngay ngày hôm sau cả họ Trần tổ chức lễ
đón mừng rất trọng thể tại nhà thờ họ và ăn liên hoan rất to. Bác trưởng họ là
Trần Hữu Ngô nguyên là đại tá quân đội, chủ nhiệm chính trị Quân y viện 108, trước
các thành viên cả họ ngồi kín sân nhà thờ bác đã mặc bộ quân phục đẹp nhất đeo
quân hàm hai gạch bốn sao, ngực kín mười hái chiếc huân huy chương lấp lánh rồi
trịnh trọng đặt cái thẻ hội viên Hội nhà văn Việt Nam của tôi lên bàn thờ Tổ, rồi dõng dạc đọc tờ quyết định của Ban chấp hành
Hội nhà văn Việt Nam về việc kết nạp hội viên Trần quốc Tiến, tôi được đứng
cạnh trưởng họ cùng toàn thể trai đinh trong họ. Ông đọc xong thì cả họ đứng
lên làm lễ tạ ơn và nghe thơ:
ƠN
TỔ
Cây có gốc
nước có nguồn
Con người
phải có Tổ Tiên để thờ
Trăm năm bia
đá còn mờ
Ngàn năm ơn
Tổ không giờ nào quên
Nhờ vào công
đức Tổ Tiên
Ngày nay con
cháu làm nên vinh đời
Ngẩng cao
chẳng kém chi người
Việc làng
việc nước sáng ngời nghĩa trung
Anh em hòa
thuận một lòng
Gia đình
hạnh phúc vui trong đẹp ngoài
Con con cháu
cháu ngày mai
Đắp nền đạo
đức xây đài vinh quang...
Ấý là ơn Tổ
muôn vàn
Dựng xây cái
gốc cho ngàn cây xanh...
Nghe
xong thơ, cả họ lại đứng lên vái Tổ để tạ ơn lần nữa rồi dự liên hoan từ trưa
cho đến tận đêm. Cuộc đời tôi gian nan cũng nhiều,khổ đau cũng lắm, nhưng được
sống những giờ phút như thế thật không còn gì vui sướng hơn, nó bù đắp toàn bộ
hơn ba chục năm gian nan, phấn đấu để thành nhà văn...
Rồi có những chuyện không ai tin nổi mà
có thật, chẳng hạn chuyện nghe văn sống lại. Ở làng bên có cụ Ngô Văn Dư là cụ
từ coi hương khói cả hai cái chùa làng, và cũng là người rất am hiểu về phong
thủy. Năm ấy cụ đã hơn tám chục tuổi, một buổi sáng cụ bảo Ngô văn Tĩnh là cháu
đích tôn của cụ đến gọi tôi lên cho cụ nhờ tí việc. Tôi với Ngô văn Tĩnh là
bạn, cậu ta học Đại học Bách khoa rồi học viện Nguyễn ái Quốc sau đó là giám
đốc nhà máy đóng tầu Sông Đào, tôi thường đem bản thảo đến nhà Tĩnh đọc và lần
nào cũng thấy cụ ra nằm cái chõng tre ở đầu hè để nghe văn, rồi chẳng hiểu thế
nào mà cụ nói với mọi người rằng tôi là thần đồng văn và được cụ rất quý. Cụ
giải thích rằng thần đồng văn đáng lẽ phải ở làng Địch Lễ của cụ, nhưng hồi cải
cách ruộng đất đào con ngòi sau đền làng tôi đã làm chệch long mạch văn chương
từ làng cụ chảy sang làng tôi, vì thế làng cụ chỉ có nhiều người giỏi võ ví dụ
như các vị Lê đức Thọ, Mai chí Thọ, Đinh đức Thiện làm đến đại tướng thượng
tướng, ủy viên bộ chính trị... Mà không có nhà văn nổi tiếng, và cụ cho rằng
chính tôi đã hứng lấy long mạch của làng cụ chảy sang vì nhà tôi ở ngay đầu
làng giáp gianh đất làng cụ. Khi tôi đến cụ liền nắm tay tôi và nói: Cháu Tiến
ạ, ông sắp quy tiên, trước khi về với tổ tiên ông chỉ có một nguyện vọng là
được nghe một bài văn do cháu viết về ông, cháu viết xong rồi đọc cho ông nghe
lúc còn sống sau đó chép làm hai bản, một bản bỏ quan tài để ông trình với các
cụ dưới ấy còn bản nữa cháu thay mặt họ hàng đọc trước lúc hạ huyệt rồi sau đó đem để vào khám thờ ông ở nhà thờ
lưu lại cho con cháu trên trần... Cháu giúp ông chứ, văn cháu hay lắm... Tôi
gật đầu cung kính đáp lễ vâng ạ. Nhưng rồi do đãng trí nên tôi quên. Cho đến
một ngày tôi vừa đi làm về thì vợ tôi hỏi anh đã viết điếu văn cho cụ Dư chưa, tôi
nói rằng chưa, vợ tôi gắt lên thế thì anh đoảng quá, cụ Dư mất rồi! Tôi nghe vợ
thông báo tin cụ Dư đã mất mà bủn rủn cả chân tay và ân hận vô cùng, nghĩa tử
là nghĩa tận mà tôi lại vô tâm đến thế. Tôi bỏ bữa cơm và lấy giấy bút ra viết
một mạch, khoảng nửa giờ sau thì xong, tôi cầm chạy một mạch đến nhà cụ Dư. Cụ
mất rồi, rất đông con cháu đang vòng trong vòng ngoài khóc cụ. Cụ đã ra đi, màn
đã buông, bát cơm quả trứng đã đặt phía trên đầu cụ... Ông Hỉ con trưởng cụ bảo
tôi rằng hãy đưa bài điếu văn ra đọc cho vong hồn cụ nghe vậy. Tôi làm theo lời
bảo của ông con trưởng liền rút bài điếu văn ra
trước hết có lời tạ lỗi sau đó xin được đọc cho vong hồn cụ nghe. Tôi
đọc được một phần ba bài thì thấy mắt cụ nhấp nháy rồi khi đọc xong thì cụ tỉnh
lại và nói: Hay lắm. Rồi cụ sửa lại tổng
số con cháu cho thật đúng. Trong khi mọi người đang nhốn nháo kinh ngạc
vì cụ nghe văn mà sống lại thì cụ nắm tay tôi nói: Cảm ơn cháu, ông toại nguyện
rồi, xuống âm phủ ông sẽ phù hộ cho cháu trên trần viết văn càng ngày càng
hay... cháu ở lại ông đi... Nói xong cụ ngoẹo đầu sang bên rồi đi hẳn. Bài điếu
văn hiện giờ đang để ở trong khám thờ
tại nhà thờ cụ. Từ bấy đến giờ mấy chục năm đã trôi qua, không ai giải
thích được chuyện cụ Ngô văn Dư nghe văn sống lại. Còn một chuyện nữa cũng
không ai giải thích được. Chuyện thế này: cách đây vài chục năm tại đại hội văn
học nghệ thuật tỉnh, buổi sáng hôm khai mạc tôi đang ngồi nghĩ ngợi lơ mơ, cái
tật của tôi là hễ ngồi họp là đầu óc cứ lơ mơ, thì một ông ngồi cạnh liền vỗ
vai tôi nhắc: Kìa ông Tiến, người ta đang truy điệu ông... Tôi nghe vậy liền
nhìn lên phía trên thì thấy ở đó đạo diễn Lê Huệ chủ tịch Hội đang điều hành,
ông đang dõng dạc nói: Nhà văn Trần quốc Tiến đã qua đời hồi giữa năm để lại
bao tình thân thương cho chúng ta, đề nghị tất cả chúng ta đứng lên giành một
phút mặc niệm nhà văn của làng quê... Phút mặc niệm bắt đầu... Tôi cũng đứng
lên mặc niệm mình. Chiều hôm ấy tôi lên đọc tham luận cả hội trường kinh ngạc
thấy cái lão nhà văn nông dân vừa mới
truy điệu ban sáng mà bây giờ lại đứng trên diễn đàn bàn về Nhân Cách Nhà
Văn... Sau này tôi có hỏi lại anh Lê Huệ chủ tịch hội và anh Trần đắc Trung phó
chủ tịch hội về chuyện vì sao tôi được truy điệu lúc còn sống thì hai anh chỉ
cười bảo rằng cũng không biết nữa...
Nguyên
An: - Xin chúc mừng nhà văn, giờ chỉ được nghe lại cũng đã thấy cảm động.
Con người như ông chắc lúc nào cũng
nhiều bạn bè ở quê hương và khắp nơi... Vậy có nhiều người ngoài đời là nguyên mẫu
nhảy vào trang sách của ông?
Trần Quốc Tiến: - Vâng ngày còn trẻ tôi chơi
rất rộng cả nam và nữ, nhưng không một ai là nguyên mẫu. Con người trong văn
học là con người điển hình, là sự tổng hợp của nhiều con người cộng lại, nó vừa
cụ thể lại vừa trìu tượng, nó giống một trăm người nhưng không giống riêng một
ai, như cô Kiều của cụ Nguyễn Du chẳng hạn, đó là cụ lấy những nét riêng biệt
của bao nhiêu cô Kiều khác nhau, sàng lọc rồi đưa vào làm nên một cô Kiều điển
hình, chính vì thế mà sau này biết bao người đã soi mình trong bóng dáng nàng
Kiều của cụ. Sự xuất hiện “bói Kiều” là từ đấy. Anh Chí Phèo của Nam Cao cũng
vậy. Nam Cao đã nhặt những nét điển hình của hàng trăm anh say rượu, chửi bậy
để đưa vào lão Chí Phèo làng Vũ Đại để rồi làm nên một Chí Phèo hết sức điển
hình sống mãi với thời gian...
Nguyên
An : - Ông đã in một tập truyện ngắn và năm tiểu thuyết dày cỡ năm sáu trăm
trang, hẳn ông phải làm việc nhiều với các biên tập viên nhà xuất bản, tôi cũng
biết bản lĩnh nhà văn ở ông rất cao khi bảo vệ tính toàn vẹn của bản thảo.Vậy
ông thấy trình độ các biên tập viên ở một số nhà xuất bản hiện nay thế nào? Ông
có phải nhượng bộ họ nhiều không? Nhà văn và nhà biên tập có đồng cảm được
không hay toàn là mâu thuẫn khi bàn về những đoạn văn nhảy cảm?
Trần Quốc Tiến
: - Câu hỏi này đã gãi đúng chỗ ngứa của
các nhà văn. Nó thế này, các tác giả kém thì mong được các nhà biên tập đụng
bút vào bản thảo của họ để bớt đi những ngô nghê, vụng về, non kém... mà loại
này giờ đây nhiều vô kể. Còn những nhà văn giỏi thì lại cầu mong Trời Phật phù
hộ để văn họ khỏi bị biên tập viên ở các nhà xuất bản động vào. Tôi từ trước
tới giờ trước khi phải làm việc với biên tập viên thường thắp hương cầu khấn
các đấng linh thiêng sui bẩy thế nào đó để các biên tập viên non kém đừng động
vào văn tôi. Cho đến giờ với riêng tôi thì các biên tập viên, tổng biên tập, giám
đốc... ở nhà xuất bản Hội nhà văn Việt Nam là đội ngũ biên tập tốt nhất, giá
trị của họ là ở chỗ họ vừa là nhà biên tập nhưng đồng thời cũng là nhà văn, nhiều
vị là nhà văn rất giỏi, vì thế mà thông cảm được nỗi lòng của các nhà văn mà họ
cầm quyền biên tập, họ hiểu rằng gạch một đoạn văn tâm đắc của tác giả giỏi thì
chẳng khác nào cầm cật nứa mà cứa vào ruột vào gan tác giả đó, đau lắm, bị cắt
đi những dòng văn tâm huyết, nhiều nhà văn đã khóc, vết đau này nhiều năm sau
chưa thành sẹo... Gần đây tôi có chuyện hết sức bực mình với quyển tiểu
thuyết in năm 2012. Giám đốc thì rất
tốt, rất ủng hộ sự đổi mới, còn cô biên tập thì quá ấu trĩ về nhiều mặt. Cô
này quá non về vốn sống, về tầm nhìn xã
hội, càng non hơn về trình độ thẩm định văn chương... Có lần cô ấy bảo tôi: quyển
này dày tới năm trăm trang, em cắt giúp anh còn ba trăm trang nhé? Tôi rùng
mình tưởng mình nghe án tử. Ông giám đốc rất tốt, ông đọc rất kỹ bản thảo và
đánh giá cao, ông nói rằng mấy năm nhà xuất bản mới gặp được một bản thảo thưc
là văn chương, ông ủng hộ giữ nguyên, nhưng bị cô biên tập ấu trĩ về đổi mới, dù
đã thay biên tập khác, nhưng cô ta vẫn bàn cách giấu tôi để cắt văn của tôi, khi
sách in xong tôi mới phát hiện thì chỉ còn khóc cho những đoạn văn hay bị bộ óc
bã đậu loại bỏ... Đối với tôi thì chỉ
mong biên tập sửa chữa cho tôi nếu tôi sai sót gì về mặt văn phạm, còn nội dung
thì đừng động vào...
Nguyên An : - Được biết có lần nhà thơ
Hữu Thỉnh chủ tịch Hội nhà văn Việt Nam về nói chuyên với các văn nghệ sỹ Nam
Định đã biểu dương nhà văn Trần quốc Tiến là một trong ba nhà văn còn bám trụ ở
thôn quê để sáng tác... Vì sao hàng nghìn nhà văn đã rời quê lên phố mà ông lại
không thế?
Trần Quốc Tiến
: - Đơn giản là tôi không thấy sống ở đâu tốt bằng sống ở quê hương mình, sống
ở thành phố không cho tôi cảm hứng để sáng tác. Muốn hưởng thụ thì lên thành
phố, muốn có văn hay thì sống và viết tại quê có sông trong nước mát, có cánh
đồng thẳng cánh cò bay, có hương lúa thơm thoang thoảng, có tuổi thơ tắm mát
trên sông... Ông cha ta dạy ăn cơm với mắm là ngắm về sau, ăn cơm với rau là
ngắm sau ngắm trước. Tạng tôi là tạng dân quê trăm phần trăm, chỉ có ăn rau
muống, uống nước sông quê, tôi mới còn là tôi, văn tôi thẫm đẫm chất ấy mới là
văn tôi, nếu bỏ quê lên phố sống là tôi trắng tay ngay lập tức, nghĩa là tôi
muốn cứu tôi thì tôi phải bám chặt quê hương, lấy quê hương làm điểm tựa để
thực hiện ước mơ cho sự nghiệp văn chương...
Nguyên
An : - Được biết ông không được cắp sách đến trường,con đường trở thành nhà
văn của ông là con đường hoàn toàn tự học. Nhưng vì lý do nào đó ông lại lấy vợ
rất sớm, lúc mới vừa ngoài hai chục tuổi, rồi thì đẻ liền bốn mặt con hai trai
hai gái. Thời gian thấm thoát trôi đi, bằng lao đông hợp tác xã nông nghiệp
ngày năm lạng thóc, ông cùng vợ nuôi bốn con, đứa cử nhân, đứa thạc sỹ, hai đứa
là đảng viên, cán bộ, đứa là doanh nhân thành đạt... còn ông thì thành nhà văn
nổi tiếng của làng quê với năm quyển tiểu thuyết dày và một tập truyện ngắn đã
in. Ông có phép thần gì vậy?
Trần Quốc Tiến : - Phép thần của tôi là tôi
mang nặng hai tình yêu lớn: Tình yêu gia đình và tình yêu văn chương. Do có hai
tình yêu ấy mà một vai gánh gánh trách nhiệm rất cao đối với gia đình, một vai
gánh văn chương, dù đường dài và mưa trơn lầy lội tôi vẫn bước đều. Ban ngày
tôi đi cày, bừa, nhổ mạ gánh phân... ban đêm tôi mò mẫm đi ngâm rọ cua, ngâm
cành câu, ngâm ống lươn... để thêm tiền nuôi con và có tiền để tôi mua sách về
tự học, ông trông đấy xung quanh nhà toàn sách, có tới hàng nghìn quyển, ấy là
số sách do tiền ngâm ống lươn, ngâm rọ cua... suốt mấy chục năm mua dần tích
lại, học đến đâu mua đến đấy, đọc hết quyển này là mua luôn quyển tiếp... Ngay
bây giờ tôi vẫn tiếp tục mua sách bổ sung cho thư viện gia đình. Còn thì giờ
thì rảnh tay lúc nào là học lúc ấy, một
vài phút cũng tranh thủ học, khi đi làm tôi bao giờ cũng củ một quyển sách
trong người, hễ giải lao người ta chụm đầu hút thuốc lào là tôi rút sách trong
người ra đọc, mà thời hợp tác thì người ta giải lao nhiều lắm, vì vậy tôi cũng
có khá nhiều thời gian để vừa làm vừa học. Tích tiểu thành đại là vậy. Tôi lại
là con người bẩm sinh lạc quan yêu đời nên khổ cùng cực mà không bao giờ thấy
khổ, ngay giờ đây dù được ở nhà cao cửa rộng với cuộc sống tương đối đầy đủ, tôi
vẫn mơ về những ngày đói cơm rách áo, tôi cầu trời khấn Phật cho tôi về với cái
thời gian khổ của tôi...
Nguyên An : - Lạ nhỉ, người ta thì nói
thoát nghèo thoát khổ, còn ông thì mơ sống lại thời gian khổ, mà tôi nghe ông
nói rất thật lòng chứ không sáo rỗng. Tôi muốn nghe ông nói thêm...
Trần Quốc Tiến : - Cái ngày ấy đời sống thì
khổ nhưng cõi lòng lại đầy ắp niềm vui, cái vui tinh thần ấy lớn hơn cái khổ
vật chất, thêm nữa là lòng đầy ắp ước mơ. Vậy còn gì sướng hơn là lúc nào lòng
cũng đầy mơ ước, khát vọng cho ngày mai. Xin ông nghe tâm trạng của tôi lúc
này, thể hiên qua bài thơ Bao Giờ Cho Đến Ngày Xưa:
Bao giờ cho đến ngày xưa
Dưới sông cá
lượn đôi bờ tre xanh
Em ngồi gội
tóc lá chanh
Hương nhu mẹ
hái giắt quanh mái đầu
Mời nhau ăn
một miếng trầu
Cong cong
cánh phượng say câu hát chèo
Hội làng ai
đứng nhìn theo
Để ai
nghiêng nón siêu siêu ngói đình
Nhà anh ngõ
trúc xinh xinh
Chè tươi
khoai luộc đậm tình quê hương
Nhà em có
một chum tương
Nhà anh rau
muống leo tường sang chơi
Bây giờ chốn
cả đâu rồi
Trúc xinh
tôi hát gọi người người ơi...
Ngày
nay còn đâu những bóng dáng như thế nữa hở ông? Bảo sao tôi không nhớ, không
mong ước cái thời mà con người với nhau sống đẹp đến thế?
Nguyên An : - Có lẽ vì thế mà bạn bè gọi ông là cổ tích sót lại?
Trần Quốc Tiến : - Vâng tôi ở nhà quê, ăn cơm quê rau muống chấm
tương, lấy vợ quê, không bồ bịch, không rượu chè, không nhậu nhẹt, chẳng theo
đạo nào mà vẫn đọc kinh, lại sống như người tu hành, hơn chục năm nay tôi ở ẩn,
sống theo tiêu chuẩn cô đơn, lấy gia cư làm miền đất hứa, lấy lời mẹ ru năm xưa
để răn dạy mình...
Nguyên
An : - Vì sao con người năng động như ông, đầy hấp dẫn như ông, ngồi nghe
ông nói chuyện rất cuốn hút, ở tuổi cao ông còn được nhiều em mê, bạn bè thì
mong mỏi mà ông lại cấm cung là thế nào?
Trần Quốc Tiến :- Tôi xin lỗi tất cả, nhưng
thực lòng lúc này tôi thấy ở nhà đọc sách ngâm thơ, viết văn, nghe nhạc và làm
bạn với cái máy vi tính là hấp dẫn tôi nhất, hàng chục năm nay tôi rất ít đi
chơi là vì thế, hai năm nay tôi không đến Hội nhà văn Việt Nam, dù đấy là nơi
tôi yêu thích nhất...
Nguyên An : - Có dư luận là ông rất
kiêu... Ông giải thích điều này như thế nào?
Trần Quốc Tiến : - Không phải là tôi kiêu mà
là tôi yêu ghét rõ ràng. Tôi không biết đóng kịch giả vờ, yêu ai cũng yêu ra
mặt ra lời, mà ghét ai cũng thể hiện ngay trên nét mặt và lời nói, vì thế những
người bị tôi ghét ra mặt bảo tôi kiêu...
Nguyên
An: - Loại người nào bị ông ghét
nhất?
Trần Quốc Tiến : - Thứ nhất là sống đểu, thứ
hai thớ lợ giả dối, thứ ba chẳng ra gì mà lại hay vênh váo ta đây...
Nguyên
An: - Ông có còn bản thảo chưa in không?
Trần Quốc Tiến : - Tôi còn sáu bản thảo chưa
in, gồm ba tiểu thuyết, một tập truyện ngắn, một tập tiểu luận, và một tập
thơ...
Nguyên
An : - Ông có đang viết gì không?
Trần Quốc Tiến : - Tôi đang bắt tay viết một
quyển tiểu thuyết về đề tài gia đình ở
nông thôn hiện nay có tên là GIA ĐÌNH VẠN TUẾ. Lúc này nông thôn ta kinh tế có
đi lên nhưng văn hóa truyền thống tốt đẹp của cha ông để lại thì đang mất dần,
có nguy cơ mất hẳn, các gia đình truyền thống đang bị phá vỡ, tình phụ tử, nghĩa
phu thê là nền tảng gia đình giờ đây đã biến dạng, khi phố chiếm làng thì nhà
tre nứa biến đi và biến theo bao cái đẹp
dưới mái nhà tranh vách đất ấy. Ngày xưa nhà không có cổng cứ tắt ngang tắt dọc
mà đi, suốt ngày qua nhau thăm hỏi, nửa đêm có ai đó bị cảm thì cả làng kéo đến
người đi hái cúc tần về giã trộn với dầu hỏa để đánh cảm, người chạy về nhà bê
bát cháo hành sang, nếu nặng thì người về nhà tháo võng người lấy đòn gióng
trâu rồi cùng ghé vai khiêng lên bệnh viện xa hàng chục cây số. Còn bây giờ thì
ai đau cứ mặc ai, tôi còn mải xem ti vi... Quyển tiểu thuyết của tôi khẳng định
nếu để mất gia đình truyền thống, mất đi tình làng nghĩa xóm sẽ đồng nghĩa với
mất hết, con người sẽ tụt mười bậc về mặt văn hóa làm người...
Nguyên
An :- Nghe nói ông có bài thơ về cái nghiệp văn của ông, ông đọc cho tôi
nghe được không?
Trần Quốc Tiến
:- Được ạ,tôi xin đọc:
NHÀ VĂN
Ta chiêm
nghiệm cuộc sống năm mươi năm
Bằng cả tâm
hồn và trí tuệ
Ta đổi tỷ giọt mồ hôi để có vốn làm người
Ta nhận về
mình ngàn vạn đắng cay
Để biết đâu
là sự thật
Ta chọn chỗ
đứng thấp
Để biết yêu
mùi thơm của cỏ
Mùi nồng cay
của đất
Mùi mồ hôi
chua loét của các phó thường dân
Rồi đêm đêm
ta ngồi viết
Vắt kiệt sức
mình qua từng trang bản thảo
Vắt kiệt đời
mình cho quyển sách sống đến ngày mai...
Nguyên An :- Còn bài Danh thơm nhà văn nữa đọc đi ...
Trần Quốc Tiến : - Danh thơm nhà văn
Không
phải là nằm lầu son gác tía
Ăn
yến vua ban
Được thượng hoàng xoa đầu khen
rằng
Tốt lắm ...
Danh thơm nhà văn
Là
luôn luôn bị lưỡi Rồng quở mắng
Quần thần giận dữ
Quất nổi lươn mông...
Mỗi lời mắng mỗi con lươn
Gom được thật nhiều
Thì nhà văn thành bất tử..
Khi qua đời
Các phó thường dân nhớ ngày cúng giỗ
Âý
là muôn thuở danh thơm...
Nguyên
An : - Bà vợ ông có đọc văn ông không?
Trần Quốc Tiến : - Bà ấy ngốn bằng hết, quyển
nào vừa ra là bà ấy đọc luôn, ít nhất đọc từ hai đến bốn lần, không quyển nào
không đọc, không bài nào không đọc. Bà ấy mê tôi một phần vì tôi đẹp trai, nhưng
cũng vì mê văn tôi nữa. Rồi bà ấy làm một bài thơ tán tôi như thế này...
Nguyên An : - Ông đọc bài thơ ấy đi...
Trần Quốc Tiến : - Bài thơ ấy có tên là:
EM YÊU NHÀ VĂN
Em không mơ
bạc mơ vàng
Cả đời chỉ
thích một chàng nhà văn
Nhà văn biết
nịnh biết chiều
Khi ra bấu
chí khi vào ôm hôn
Nhà văn
trong sáng tâm hồn
Thanh cao
lịch duyệt tiếng thơm để đời...
Em yêu chàng
lắm chàng ơi...
Vì
bài thơ ấy mà bà ấy được một anh chồng là nhà văn...
Nguyên
An : Thế ông có thơ đáp lại không?
Trần Quốc Tiến
: - Có, nhưng mãi sau này khi tôi đã là nhà văn tôi mới có thơ tặng lại...
Nguyên
An : - Ông đọc một đoạn thơ tặng vợ đi...
Trần Quốc Tiến : - Hôm ấy sau khi được kết nạp vào hội nhà văn
Việt Nam
về tôi ôm vợ rồi đọc thơ tặng:
Vẫn là em đấy em ơi
Gian nan em
tặng cuộc đời cho anh
Bây giờ công
toại danh thành
Anh đi gánh
nước cho mình rửa chân...
Nguyên
An : - Thế đã gánh nước cho vợ rửa chân chưa?
Trần Quốc Tiến
: - Gánh rồi...
Nguyên
An : - Cảm ơn nhà văn...
Mùa đông
– 2016
Nguyên An thực hiện
Gà què,chiếm vỉa hè của dân, kg tích sự như chị lao công quét rác
Trả lờiXóaSách vạn cuốn mà vô tích sự,kg bằng chị lao công dọn vỉa hè đó lấn chiếm,kg bao giờ biết đến ai với tích sự....
Trả lờiXóa