Có người đã ví Côn Đảo như một giọt mực
rơi trên bản đồ Tổ quốc. Với tôi, địa danh này trong tâm thức từ khi còn đang
ngồi trên ghế nhà trường phổ thông qua tập truyện “Vượt Côn Đảo” của nhà thơ
Phùng Quán. Thế nên, mơ ước một lần được đặt chân đến đây không khi nào nguôi
ngoai trong năm tháng dằng dặc cuộc đời mình. Và điều ấy đã thành hiện thực,
cho dù “Tôi đến chậm dẫu lòng không nấn ná” ( thơ - Phạm Ngọc Cảnh).
Chuyến tàu 09 chở 200 hành khách và
hàng hóa khởi hành lúc 5h chiều tại bến Cát Lở, Vũng Tàu rồi cập Bến Đầm, Côn
Đảo khoảng 6h sáng hôm sau. Đêm đầu tiên bồng bềnh trên sóng nước miên man sâu
lắng nỗi niềm gần xa về hình hài, đất đai, năm tháng và số phận kì lạ đã đặt
lên cái “giọt mực” kia thì mấy ai không thức trắng?
Gần sáng chúng tôi lên boong tàu ngắm
trời biển. Đẹp đến lạ lùng đất nước ơi! Mênh mông thăm thẳm, bao dung vô cùng…
Rồi con tàu rú còi cập bến sang mạn cầu tàu lịch sử 914, xe ô tô đưa chúng tôi
qua hơn 10 km đến trung tâm thị trấn. Côn Đảo là đây, cũng đồi núi, rừng cây
như Tây Bắc, Đông Bắc của mình mà sao lại mang trên người một xứ mệnh rùng rợn:
“Địa ngục trần gian” cả trăm năm? Không ai muốn nghỉ ngơi, chúng tôi tới thăm
ngay hệ thống nhà tù thời Pháp, thời Mỹ. Những Banh I, II, III, chuồng Cọp,
chuồng Bò, trại 5, 6, 7, 8, 9 và các sở tù (cải tạo người tù bằng lao động khổ
sai) đã như những thước phim dấu ấn trong tôi từ lâu nhưng khi “mục sở thị” thì
thêm cô lại, khô lại cảm giác kí ức. Với gần 2% diện tích đảo dành để 113 năm
giam cầm của Pháp, Mỹ mới thấy chưa nơi đâu đất đai bị tội ác đè nặng lên thế
này.
Đặt chân lên Côn Đảo, ngoài vinh dự
được đến chốn lịch sử đau thương mà oai hùng bậc nhất thế gian, với tôi còn có
một thôi thúc riêng cần tìm hiểu để thêm tự hào. Quê tôi thuộc vùng chiêm trũng
Ý Yên, Nam Định, trong đó có một số chiến
sĩ cách mạng, nhân sĩ yêu nước cũng từng bị giam cầm ở nơi này. Đó là cụ Lã
Xuân Oai (1838 - 1891) - người tù Cộng sản đầu tiên tại Côn Đảo. Ông quê ở làng
Thượng Đồng, xã Yên Tiến, đỗ cử nhân rồi phó bảng. Năm 1882 làm Tuần phủ Lạng
Bằng (Lạng Sơn và Cao Bằng) đã giúp nghĩa quân Nguyễn Thiệt Thuật, Tạ Hiện
chống Pháp. Năm 1889 trong cuộc khởi nghĩa tại làng thôn quê hương đã bị giặc
bắt giam, kết án tù 10 năm đầy ra Côn Đảo rồi mất trong ngục ngày 23/10/1891. Ngoài
hoạt động khai khẩn đất hoang ở Nho Quan, Ninh Bình và phong trào yêu nước
kháng Pháp ông còn viết văn, làm thơ. Tập nhật ký gồm 68 bài thơ chữ Hán và hai
bài phú Nôm kể cảnh bị giam cầm và cuộc hành trình tù nhân đã toát lên ý chí
cứng cỏi, tinh thần lạc quan của người trong cuộc. Năm 1982, người con cả của
ông đã tới Côn Đảo mang hài cốt cha về mai táng ở Thượng Đồng.
Tiếp theo, nhà cách mạng Tống Văn Trân
(1905-1935) - sinh ở thôn Tân Cầu cùng xã với Lã Xuân Oai. Tốt nghiệp Cao đẳng
Sư phạm Hà Nội, ông về dạy học ở Nam Định, năm 1926 là thành viên nòng cốt đầu
tiên của Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Cuối năm 1929 ông bị Pháp
bắt giam ở nhà tù Nam
Định rồi Hỏa Lò (Hà Nội). Ngày 15/1/1930 bị kết án tử hình, sau giảm xuống
chung thân đày ra Côn Đảo. Tại Côn Đảo ông tiếp tục hoạt động cùng các đồng chí
đồng cảnh như Tôn Đức Thắng, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Lê Văn Lương… xây dựng
chi bộ Đảng trong tù. Năm 1934 ông vượt ngục thành công, nhưng năm 1935 lại bị
bắt tại Sài Gòn và bị tra tấn cho đến chết tại đây. Trong quá trình tù đày ông
đã sáng tác nhiều bài thơ thể hiện ý chí cách mạng kiên cường.
Người cùng cảnh ngộ khác - nhân sĩ
Nhượng Tống (1904 - 1949) tên thật là Hoàng Phạm Trân, quê làng Đô Hoàng, xã
yên Thành, huyện Ý Yên, Nam Định. Ông sớm được học và thông thạo chữ Hán, Quốc
ngữ cùng tiếng Pháp và có năng khiếu về Báo chí, Văn chương. Năm 1921 thường
xuyên viết cho các báo Khai hóa, Nam Thành, Hồn Cách mạng, Hà Nội tân văn… Năm
1926 thành lập Nam
Đồng thi xã tại Hà Nội - chuyên xuất bản các sách tuyên truyền chủ nghĩa yêu
nước. Năm 1927 ông là thành viên thành lập Việt Nam Quốc dân Đảng của Nguyễn
Thái Học. Bị Pháp bắt năm 1929 và kết án 10 năm tù, đày ra Côn Đảo. Năm 1936
mới được tha, quản thúc tại quê nhà. Nhượng Tống có nhiều công trình sáng tác
được công bố: “Đời trong ngục” - Nxb Văn hóa mới, 1935; “Lan Hữu” – 1940, tiểu
thuyết tình cảm lãng mạn… Ông đã dịch nhiều tác phẩm nổi tiếng như: Ly tao, thơ
Đỗ Phủ, Sử ký Tư Mã Thiên, Hồng Lâu Mộng, Khổng Tử, Kinh thư của Trung Hoa…
Gắn liền mật thiết với hệ thống nhà tù
không kể đến nghĩa trang Hàng Dương. Hàng vạn chiến sĩ cách mạng và đồng bào
yêu nước Việt Nam
qua nhiều thế hệ bị tù đày đã lần lượt hi sinh dưới ách tàn bạo của thực dân,
đế quốc, chủ yếu nằm lại nơi đây. Đến Côn Đảo trong những ngày mưa nên anh em
tranh thủ buổi chiều tạnh ráo tới nghĩa trang dâng hương. Trong không gian 20
ha cao vợi xanh thẳm mênh mông, đường dẫn lên đài tưởng niệm chung và đến từng
các khu A, B1, B2, C, D thảm bê tông nhựa êm ru mà sao những bước chân người
lại nặng trĩu? Những linh hồn bất tử đâu có nề hà lớp anh em, con cháu sớm muộn
đến thăm? Chị Võ Thị Sáu ơi, không thắp được nén nhang lên bàn thờ khu tưởng
niệm (công viên Võ Thị Sáu) ở Đất Đỏ nơi sinh và nơi yên nghỉ chốn này của chị,
chúng tôi như thể chưa làm đủ bổn phận mình. Thế rồi, đầu tối ngỡ mưa vẫn giống
mọi khi nhưng lại quang đãng quá, những vì sao trời và sao trên những nấm mộ
cùng sáng lấp lánh. Tôi và nhà thơ Trần Minh bâng khuâng đến lãng mạn giữa
vuông trời Hàng Dương. Nào ngờ vừa cháy xong tuần hương nữa trên mộ chị Sáu
trận mưa lại đỏng đảnh ập tới. Không kịp ẩn tránh hai người ướt đẫm hơn chuột
lột, nghĩ rằng ngày mai sẽ bị cảm ốm như mọi khi thường gặp. Lạ thay, sớm ngủ
dậy cả hai đều vẫn khỏe khoắn mới lạ. Trần Minh quả quyết rằng do có chị Sáu
phù hộ…
Ngày hôm sau chúng tôi tới những địa
danh khác làm nên một Côn Đảo không chỉ lịch sử mà còn danh thắng tuyệt vời.
Những Hòn Cau, bãi Đầm Trầu, Hòn Tài, Hòn Trác. bãi Ông Đụng, vườn Quốc Gia,
sân bay Cỏ Ống… vừa giàu cảnh sắc vừa giàu truyền thuyết. Đặc biệt với di tích
miếu Bà Phi Yến, ai trong chúng tôi cũng cùng cảm giác thật cảm phục, bùi ngùi.
Câu chuyện của bà đã vượt bổn phận gia dình “Tam tòng, tứ đức”- thường quan
niệm với phụ nữ Việt -đến tầm đại sự quốc gia. Tục truyền khoảng cuối thu năm
1783 bà thứ phi Lê Thị Răm (Tức Phi Yến) không chịu cùng Nguyễn Ánh và hoàng tử
Hội An (hoàng tử Cải) sang cầu cứu ngoại bang Pháp giúp chống lại quân Tây Sơn.
Kết cục Người bị giam cầm, hoàng tử Cải bị Nguyễn Ánh ném xuống biển vì đòi
phải có mẹ cùng đi. Đây cũng chính là điểm xuất phát nên câu hát thời bấy giờ
đặt ra: “Gió đưa cây Cải về trời/ Rau Răm ở lại chịu lời đắng cay”. Khói nhang
chúng tôi dâng lên trên bát hương lớn cứ cuộn tròn từng vòng vần vũ trước tượng
bà - một mĩ nhân mới 25 tuổi đời đã phải kết thúc bằng nỗi trái oan kiếp phận…
Trở lại với quần đảo xinh đẹp có diện
tích 76km2 trong đó Côn Lôn tức Côn Đảo (còn gọi là Phú Hải) có hình
con gấu lưng hướng đất liền, chân nhoài ra biển cả đã chiếm hơn 51km2.
Hơn 40 năm từ ngày giải phóng, quần thể 16 hòn đảo này đã thay da đổi thịt quá
nhiều. Chợ Côn Đảo ngay giữa thị trấn sầm uất sắc màu, hàng hóa với những đặc
sản nổi tiếng: ốc vú nàng, mầm hàu, mứt hạt bàng mà ai từ đất liền ra cũng muốn
mua về làm quà. Là một huyện có chính quyền 1 cấp, thông qua các cơ quan huyện
trực tiếp tới 10 khu dân cư với dân số 7.000 người (tính đến 6/2015). Nhịp điệu
sống dẫu cách xa gần 200km nhưng đầy ắp nhộn nhịp, êm ả cảm nhận như thành phố
Vũng Tàu vậy. Đôi ba ngày ở đây nhưng nét thân thiện, nhiệt tình của người Côn
Đảo đã in đậm chúng tôi. Ví như chỉ đường cho khách lạ cặn kẽ, hàng bán không
nói thách nhiều, nhất là việc dựng xe máy trên vỉa hè hay trước nhà không cần
khóa càng, khóa cổ mà cả đêm vẫn không bị mất mát…
Hẳn là trên khắp hành tinh này đất cũng
như người đều có tên gọi và tên ấy cũng có thể thay đổi bởi những lí do riêng.
Thế nhưng ta khó tìm được nơi nào lại thay đổi nhiều như ở đây. Qua đến 10 lần
chuyển tên gọi và cấp quản lý (kể cả các thời kỳ trước và sau 1975) để từ tháng
10/1991 đến nay mới ổn định danh xưng là huyện Côn Đảo thuộc tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu. Quần thể này cũng đầy ắp nội lực để trở thành địa chỉ du lịch bậc nhất
không những của đất nước mà còn của thế giới khi lịch sử đã đổi vai và vị trí
tiền tiêu canh chừng bờ cõi quan trọng hàng đầu của ta. Với tầm nhìn hội nhập
đã được hoạch định, tin rằng ngày ấy sẽ không xa. Không xa bởi ai cũng biết
những công việc cần bắt tay trước mắt. Cụ thể như cần kíp những đôi tàu cao tốc
hiện đại để tăng tải trọng, hành khách chuyên chở và rút ngắn thời gian đi lại,
rồi vận hành được trong thời tiết xấu, thay cho các tàu số 09, 10 vốn hạn chế
bây giờ. Tiếp nữa, đường hàng không ra đảo đang quá bất cập do không những tần
xuất bay ít mà còn giá vé quá cao đến 3,5 triệu đồng/ người khứ hồi từ TP Hồ
Chí Minh thì lương bình quân CBCNVC 5-6 triệu đồng/ tháng, sao có thể đến đó
được?
Niềm riêng Côn Đảo ơi, đi giữa Người -
quá khứ - hiện tại - tương lai trong tôi cứ ùa về xen lẫn. Chỉ mặc định rằng
những mùa xuân giàu có rồi sẽ mãi nối tiếp về trên “giọt mực” yêu thương này…
Hà Nội, 11. 2016
Đào Vĩnh
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét