Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016

KHOA TRƯƠNG TRONG TÁC PHẨM CỦA MẠC NGÔN


Nhà văn Mạc Ngôn

TS. Nguyễn Ngọc Kiên                                                                   

          1. Vài nét khái quát về Mạc Ngôn

          Mạc Ngôn (莫言 nghĩa là không nói) tên thật là Quản Mô Nghiệp (管谟业), sinh tại huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc.
          Ông đã phải nghỉ học tiểu học giữa chừng do Cách mạng văn hoá và phải tham gia lao động nhiều năm ở nông thôn, chăn dê ngoài đồng, luôn bị đói khát và cô đơn. Ông nhập ngũ năm 1976. Đến năm 1984, ông trúng truyển vào khoa văn thuộc Học viện Nghệ thuật Quân Giải phóng và tốt nghiệp năm 1986. Tháng 10 năm 1987 ông chuyển ngành, sang hoạt động trên lĩnh vực báo chí và viết văn chuyên nghiệp. Năm 1981 ông bắt đầu công bố tác phẩm và đến nay, ông đã cho in 10 truyện dài, 20 truyện vừa, hơn 60 truyện ngắn và 5 tuyển tập những bài ký, phóng sự, tùy bút..., tổng cộng trên 200 tác phẩm. Hiện nay, ông là sáng tác viên bậc 1 của Cục chính trị - Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc.
          Năm 2012 Mạc Ngôn đoạt giải Nobel văn chương. Ủy ban Nobel cho biết các tác phẩm của ông Mạc Ngôn được sáng tạo theo phong cách độc đáo, kết hợp chủ nghĩa hiện thực huyền ảo với các câu chuyện dân gian, lịch sử và văn học đương đại.
                              (Theo Bách khoa toàn thư mở Wikipedia)


          2. Khái niệm về khoa trương

          Khoa trương (hyperbole) là một từ có xuất xứ từ tiếng Hi Lạp, được giải thích trong từ điển Oxford: “Lời nói cường điệu nhằm một tác động đặc biệt và không để được hiểu theo đúng nghĩa đen”. Ví dụ: Tôi đã mời hàng triệu người đến dự bữa tiệc.
          Bàn về khoa trương tác giả Đào Thản cho rằng, “Phóng đại (còn gọi: khoa trương, thậm xưng, ngoa ngữ, cường điệu) là dùng từ ngữ hoặc cách diễn đạt để nhân lên gấp nhiều lần những thuộc tính của khách thể hoặc hiện tượng nhằm mục đích làm nổi bật bản chất của đối tượng cần miêu tả, gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ. Khác hẳn với nói điêu, nói khoác về tính chất, động cơ và mục đích, phóng đại không phải là xuyên tạc sự thật để lừa dối. Nó không làm cho người ta tin vào điều nói ra, mà chỉ cốt hướng cho ta hiểu được điều nói lên. [2, tr.2]
          Theo chúng tôi thì, khoa trương hay còn gọi là nói quá, là cường điệu quy mô, tính chất, mức độ của những sự vật, hiện tượng miêu tả. Khoa trương có tác dụng làm nổi bật những ý cần diễn đạt. Tuy nói quá nhưng vẫn phản ánh được và đúng bản chất của sự vật hiện tượng. Khoa trương luôn mang đậm phong cách và dấu ấn của cá nhân hoặc cộng đồng sử dụng ngôn ngữ.
          Chẳng hạn, Mạc Ngôn khi viết về một bữa tiệc đầy tháng của đứa con gái trong truyện “Ếch”:
          (1) 我自己列出一个菜谱,每桌八凉碟、八热盘,最后一盆汤。 袁腮看罢,笑道:兄弟,你这一套不行。你请的是一群农民,个个都是麻袋肚子这点东西,刚够填牙缝的。你听我的,别弄这么多样,只管大块肉、大碗酒地往    上招呼,庄户人赴宴,好的就是这个。你弄得那么精致,一人一筷子就没了,没得吃,干候着?那可就丢了大丑了。《蛙》
          (Tôi là người quyết định thực đơn: Mỗi mâm tám món nguội, tám món nóng và cuối cùng là canh. Viên Tai xem qua thực đơn, nói:
          - Người anh em à, cậu đãi thế này không xong đâu. Khách mời của cậu đều là nông dân, bụng ai cũng chứa được cả bao tải thức ăn. Những món này chỉ vừa đủ dính răng thôi. Cậu hãy nghe tớ, đừng có bày đặt nhiều món làm gì, chỉ cần cục thịt to, chén rượu lớn là được rồi. Cậu bày đặt sang trọng quá nhưng lại ít, mỗi người gắp một đũa là sạch veo, sau đó thì làm sao? Mất mặt lắm.) (Ếch)
          Ở đây, tác giả đã khoa trương các chi tiết “bụng chứa được cả bao tải thức ăn”, “những món này chỉ vừa dính răng”, “mỗi người gắp một đũa là sạch veo”. Những chi tiết trên đều không đúng với thực tế, người nghe cũng không tin là như vậy, nhưng nó lại gây được ấn tượng hết sức mạnh mẽ. Nếu viết: “Những người nông dân ăn rất khỏe, nếu làm ít thức ăn họ chỉ ăn một lát là hết” thì đoạn văn sẽ hết sức bình thường và trở nên nhàm chán, khó lôi cuốn người đọc.
          Hoặc, biết là vô lý nhưng cộng đồng người sử dụng tiếng Hán vẫn chấp nhận lối nói như thế này:
(2) 们说我们双脊的肉和内脏里含着一种沙门菌,这种菌在三千度的高温下还活蹦乱跳放到锅里煮,煮三年也煮不死它。《牛》
          (Họ bảo rằng trong thịt và nội tạng của con (trâu) Song Tích của chúng tôi có chứa một loại vi khuẩn vô cùng độc hại [nguyên văn: vi khuẩn sao – mân], trong nhiệt độ ba nghìn độ C gì đó vẫn còn có thể chạy nhảy tung tăng, bỏ vào nồi đun thì cho dù có đun ba năm cũng không giết được nó.)    (Trâu thiến)
          Thật không có một cơ sở khoa học nào để nói rằng, đun ở nhiệt độ 3000 độ C và trong vòng ba năm mà vi trùng cũng không chết. Nhưng không cần giải thích thì cả người viết người đọc đều tin rằng loại vi trùng này sống rất dai, có đun nước sôi cũng không tiêu diệt được chúng. Đó mới là điều cần nói lên.
          Nói chung, người viết hoàn toàn tán đồng với các quan điểm về khoa trương đã nêu trên. Người viết cũng rất tâm đắc với nhận xét của Đào Thản khi tác giả ví von hình ảnh: “Phóng đại được dùng như một biện pháp cần thiết, không thể thiếu trong nhiều phong cách ngôn ngữ khác nhau, chỉ trừ phong cách ngôn ngữ khoa học. Tuy nhiên trong khoa học lại không thể thiếu các phương tiện và thiết bị phóng đại như kính hiển vi và các khí cụ quang điện khác.” [2, tr.2]
          Tuy nhiên, chúng tôi cho rằng, “phóng đại” của Đào Thản chỉ có nghĩa là làm cho sự vật to ra, như vậy là chưa đủ. Khi nói “khoa trương” thì bản thân nó đã bao hàm cả khoa trương phóng to và khoa trương thu nhỏ. Khoa trương luôn mang trong mình nó hai chức năng: chức năng nhận thức và chức năng biểu cảm hay chức năng thẩm mĩ.

          3. Phân loại khoa trương trong tác phẩm của Mạc Ngôn

          Khoa trương trong các tác phẩm của Mạc Ngôn hết sức đa dạng và phong phú. Do lượng sách của ông rất đồ sộ nên chúng tôi không có điều kiện khảo sát hết các tác phẩm. Việc này đòi hỏi nhiều thời gian và dành cho những công trình lớn như luận văn, luận án, sách chuyên khảo. Trong khuôn khổ một bài báo, chúng tôi chỉ khảo sát hai tiểu thuyết là: “Báu vật của đời”, “Ếch”, một truyện dài: “Trâu thiến”, hai truyện ngắn: “Mĩ nhân băng tuyết” và “Đại phong”. Việc làm này là ngẫu nhiên và chúng tôi có nhận xét, hầu như trong tiếng Trung Quốc có bao nhiêu kiểu khoa trương thì tác phẩm của Mạc Ngôn cũng có bấy nhiêu kiểu. Người đọc rất thích thú khi ông “khoa trương”  tài năng của một bác sĩ sản phụ:
(3)  姑姑感慨地说,那时所有的人都疯了,想想真如一场噩梦,姑姑说,黄秋雅是个伟大的妇科医生,即便是上午被打得头破血 流,下午上了手术台,她还是聚精会神,镇定自若,哪怕窗外搭台子唱大戏,也影响不了她。姑姑说,她那双手真是巧啊,她能在女人肚皮上绣花。《蛙》
          (Nhưng Hoàng Thu Nhã vẫn là một bác sĩ sản phụ vĩ đại, thậm chí buổi sáng bị đánh cho sứt đầu mẻ trán thì buổi chiều bà ấy vẫn đứng trên bàn mổ, bà ta vẫn tập trung tinh thần. Cho dù lúc ấy bên ngoài cửa sổ có bom rơi đạn nổ thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến con dao mổ trên tay bà ta. Đôi tay Hoàng Thu Nhã sao mà linh! Bà ta có thể thêu cả một đóa hoa trên da bụng của sản phụ!)  (Ếch)
          Với nguồn ngữ liệu thu thập được, chúng tôi chủ trương phân loại khoa trương trong tác phẩm của Mạc Ngôn thành các loại như sau:

          3.1. Phân loại khoa trương theo nghĩa
          Trong loại này có hai tiểu loại;
          (1) Khoa trương phóng to
          Là cố ý làm cho sự vật to ra, đem đặc trưng, số lượng, trạng thái, tính chất, đặc trưng của sự vật làm cho nhiều lên, nhanh hơn, cao lên, dài ra, mạnh hơn. Ví dụ:
(4)  偷吃时还不敢咀嚼,娘听到咀嚼粮食的声音像鞭炮一样响。《丰乳肥臀》
          (Khi ăn vụng không dám nhai vì tiếng nhai giòn như pháo tép.) (Báu vật của đời)
(5)  时候的牛,大肉牛,用地瓜、豆饼催得油光水滑,走起来晃晃荡荡,好似一座肉山,一头牛能出一千多斤肉。《牛》
          (Ngày ấy, trâu được mọi người cho ăn khoai lang, ăn bánh đậu nên mập lắm, lông láng mượt, dáng đi lặc lè vì chân đỡ không nổi thân thể quá nặng, con nào con nấy chẳng khác một ngọn núi, mỗi con trâu có khi đến năm trăm kí thịt.) (Trâu thiến)
(6) 计划  生育不搞不行,如果放开了生,一年就是三千万,十年就是三个亿,再过五十年,地球都要被中国人给压偏啦。《蛙》
          (Sinh đẻ có kế hoạch không thể không thực hiện, cứ đẻ thoái mái mỗi năm tăng ba mươi triệu nhân khẩu, mười năm là ba trăm triệu, cứ thế năm mươi năm nữa trái đất này bị người Trung Quốc đè cho biến dạng méo mó mất thôi.)   (Ếch)
(7)  咱两个没有血缘……来吧,干个热火朝天……闯进来……谁敢?让那些婊子养的进来试试……我通通捏死他们……马粮哥马粮哥你他妈的真是人四两屌半斤。《丰乳肥臀》
          (Lại đây nào, ai dám? Bọn đốn mạt thử vào đây xem, tôi thì bóp chết tươi chúng nó! Anh Mã Lương, anh Mã Lương ơi, anh đúng là xấu dây tốt củ, người bốn lạng, c… nửa cân!) (Báu vật của đời)
           (2) Khoa trương thu nhỏ
          Là thu nhỏ sự vật; tức là cố ý đem số lượng, đặc trưng, tác dụng, mức độ của sự vật làm cho nhỏ đi, ít đi, chậm lại, thấp đi, ngắn lại hoặc yếu đi. Ví dụ:
(8)  鲁西和小鲁西也想弄景,但它们的小鸡鸡像一根红辣椒。它们往母牛背上跳,母牛就回头顶它 们。《牛》
          (Lỗ Tây lớn và Lỗ Tây nhỏ rất muốn làm chuyện bậy bạ nhưng chẳng ra làm sao cả vì “cái ấy” của chúng chỉ bằng quả ớt nên vừa nhảy lên lưng bọn trâu cái thì đã bị bọn này quay lại húc cho nhừ tử.) (Trâu thiến)
          (9) 这是老爷车,跑得比老母猪还慢。《丰乳肥臀》
          (Xe này già quá rồi, ì ạch như con lợn nái ấy.) (Báu vật của đời)
          (10) 大堤曲曲弯弯,像条大蛇躺在堤上。《大风》
          (Con đê lớn ngoằn ngoèo, tựa như một con rắn lớn trên mặt đất.) (Đại phong)

          3.2. Phân loại khoa trương theo hình thức
          Có thể chia khoa trương của Mạc Ngôn thành hai loại: khoa trương trực tiếp và khoa trương gián tiếp.
          (1) Khoa trương trực tiếp:
          Là khoa trương mà không sử dụng bất cứ biện pháp tu từ nào, còn được gọi là khoa trương “thuần túy”. Ví dụ:
(11)  当时,我们说他驾机俯冲到我们村东头的西瓜地里,伸手摘了一个西瓜,一抖翅膀又钻上了云端。《蛙》
          (Ngày ấy, bọn tôi kháo với nhau rằng, Vương Tiểu Thích từng lái máy sà xuống ruộng dưa ở đầu thôn chúng tôi, đưa tay ra khỏi buồng lái và hái một quả dưa đang nằm trên đất và sau đó thì vút thẳng lên mây.) (Ếch)
(12)  说碰上难产她们就会把手伸进产道死拉硬拽,她们甚至把胎儿和*一起从产道里拖出来。《蛙》
          (Cô nói, mấy “lão bà bà” này không có một chút kiến thức nào về giải phẫu học, về căn bản là không hiểu một tí gì về kết cấu sinh lí của phụ nữ, gặp phải những ca đẻ khó, họ thọc tay vào trong lỗ đẻ mà khuấy, thậm chí là cùng lúc lôi cả thai nhi và tử cung ra ngoài!) (Ếch)
(13)  正好有农民赶着牛在那耘地,铁饼不偏不倚恰好落在牛角上,把 根牛角齐齐地斩断。《蛙》
          (…Chiếc đĩa rơi đúng sừng một con trâu đang cày và tiện đứt ngọt lịm sừng con trâu.) (Ếch)
          (2) Khoa trương gián tiếp
          Là khoa trương phải sử dụng các biện pháp tu từ khác để thực hiện. Chẳng hạn, các biện pháp tỉ dụ, ẩn dụ, hoán dụ, nhân cách hóa, vật cách hóa v.v...; vì vậy, nó còn được gọi là khoa trương “dung hợp”.
          (a) Sử dụng so sánh tu từ
          Theo các tác giả Đinh Trọng Lạc, Cù Đình Tú thì: “So sánh tu từ là sự đối chiếu về hai sự vật (về tính chất, trạng thái sự việc) A và B cùng có một dấu hiệu chung nào đó giống nhau. A là sự vật chưa biết, nhờ qua B mà người đọc biết A hoặc hiểu thêm về A. So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh, đó là một sự so sánh không đồng loại, không cùng một phạm trù chung, miễn là một nét tương đồng nào đó về mặt nhận thức hay tâm lí”.
Trong loại này có mấy tiểu loại sau:  
          - So sánh có từ so sánh. Ví dụ:
          (14)  他大女婿瘦得一只螳螂。据说前几任炊事员刚到公社食堂时都很瘦, 但不到一年,身体就用气吹起来一样,胖得走了形。《牛》
          (Gã con rể này gầy như một con bọ ngựa. Nghe nói những người đã từng làm cấp dưỡng ở nhà ăn công xã đều gầy như bọ ngựa cả, nhưng không đầy một năm sau, ai ai cũng như được bơm căng không khí, mập đến độ đi không nổi mà phải lăn.) (Trâu thiến)
(15) 姑姑说她  们用擀面杖挤压产妇的肚子。她们还用破布堵住产妇的嘴巴,仿佛孩子会从嘴巴里钻出来一样。《蛙》
          (Cô tôi còn nói, họ thường dùng chày cán bột đè lên bụng sản phụ, lại còn dùng những tấm giẻ rách nhơ bẩn nhét vào miệng sản phụ trông chẳng khác nào họ sơ đứa bé sẽ tòi ra từ miệng của người mẹ vậy.) (Ếch)
(16)  张点说我们走得还不如蛆爬得快。不是我们走不快,是双脊走不快。《牛》
          (Nói không quá rằng, chúng tôi không thể đi nhanh hơn giun bò, không phải chúng tôi không muốn đi nhanh mà là Song Tích không thể đi nhanh.) (Trâu thiến)
          -  So sánh với hệ từ “” (là)
          Trong văn Mạc Ngôn, hệ từ  “(là) có thể được thay thế cho những từ so sánh, và đó là câu biểu thị so sánh thuần túy. Chẳng hạn:
(17) 论从哪个部位看她都不像一个五十多岁的女人,  朵冷藏了半个世纪的花朵。《丰乳肥臀》
          (Dù nhìn ở góc độ nào thì chị ta cũng không giống một phụ nữ ngoài 50. Chị là một bông hoa ướp lạnh suốt một phần hai thế kỉ.) (Báu vật của đời)
(18)  南极最高峰上未被污染的一块雪。雪肌玉肤,冰清玉洁,真正的,不搀假的。《丰乳肥臀》
          (Chị là khối tuyết trên đỉnh núi ở châu Nam cực, không hề vẩn bụi. Trong ngọc trắng ngà, hoa nhường nguyệt thẹn, một cái đẹp đích thực.) (Báu vật của đời)
          Ở đây, (là) vốn là một động từ phán đoán, cho nên khi được sử dụng trong cấu trúc này, cả cấu trúc còn mang sắc thái khẳng định vốn có của động từ. Tuy nhiên, hình thức so sánh tu từ dùng “”  cũng khác với phán đoán logic có công thức “S P” (S là P). Trong các câu trên ta phải hiểu là “chị như một bông hoa ướp lạnh…”, “chị như một khối tuyết trên đỉnh Nam cực…”.
          -  So sánh kết hợp với bài tỉ
          “Bài tỉ” là một biện pháp tu từ sử dụng liên tiếp ba hoặc hơn ba câu hoặc thành phần câu có kết cấu tương đồng hoặc tương tự, ngữ khí nhất thể, ý nghĩa có quan hệ mật thiết. Mục đích là tăng cường khí thế, nâng cao dần về ý nghĩa, làm sâu sắc tình cảm của người nói. Đây là một phép tu từ giàu sức biểu hiện, đặc biệt khi sử dụng để khoa trương. Ví dụ:
          (19) 我的眼前, 只有两只宝葫芦一饱满油滑, 鸽子一样泼丰满, 瓷花瓶一润泽光洁的乳房。《丰乳肥臀》
          (Trước mắt tôi chỉ có hai bầu vú đầy đặn mượt mà như hai quả hồ lô, sinh động như đôi chim bồ câu, bóng đẹp như hai bình hoa sứ.) (Báu vật của đời)
          (b) Sử dụng nhân cách hóa
Nhân cách hóa là một biện pháp tu từ lấy vật bao gồm vật thể, động vật, tư tưởng hoặc khái niệm trừu tượng làm cho chúng có diện mạo, cá tính, tính cách, hoặc tình cảm.
          Nhân cách hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu hiệu không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở nên gần gũi dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư thái độ của mình.
          Có mấy tiểu loại chính sau:
          - Nhân cách hóa động vật. Ví dụ:
          Hình ảnh đàn cá dưới sông qua ngòi bút hóm hỉnh của Mạc Ngôn cũng biết rung động, cũng biết bày tỏ cảm xúc trước vẻ đẹp của tạo hóa:
(20)  鱼儿欢快又感动地啄着你的乳头,你的双乳照亮了幽暗的水面。《丰乳肥臀》
          (Đàn cá nhỏ vui vẻ và cảm động đụng vào vú chị. Hai gò vú làm sáng bừng mặt nước.) (Báu vật của đời)
          - Nhân cách hóa thực vật
          Mạc Ngôn miêu tả cảnh đồng quê vùng đông bắc Cao Mật trước cơn dông bằng thủ pháp nhân cách hóa. Tất cả cây cỏ, sinh vật cũng như người đang chuyển động, đang quẫy đạp:
(21)  堤下的庄稼像接到命令的士兵,一齐倒伏下去。河里的水飞起来红翅膀的鲤鱼像一道道闪电在空中飞。《大风》
          (Hoa màu dưới chân đê như những binh sĩ đang nhận lệnh, nhất tề đổ rạp xuống. Nước sông chồm lên, cá chép vây đỏ bay trong không trung như những luồng điện.)(Đại phong)
          - Nhân cách hóa sự vật
(22) 我想, 他大概把我,把他自己, 车子,  还没有苏醒的田野全忘却吧?
          (Tôi nghĩ, phải chăng ông đã hoàn toàn quên tôi, quên bản thân mình, quên chiếc xe và quên cả cánh đồng vẫn còn đang ngái ngủ này.) (Đại phong)
(23) 老金终于筋疲力尽地被他摆平了,  他不顾一切地把头扎到她的怀里, 深深地把 她的乳头吸进口腔, 那股贪婪的劲头儿, 似乎要把她的整个乳房生吞掉一。《丰乳肥臀》
          (Lão Kim cuối cùng cũng kiệt sức …, cái vẻ tham lam ấy dường như muốn nuốt chửng cả bộ ngực của cô.) (Báu vật của đời)
(24)  杜大爷背靠着铁门,浑身哆嗦,哆嗦得很厉害,哆嗦得铁门都哆嗦。《牛》
           (Ông Đỗ vẫn ngồi im, dựa lưng vào cổng sắt, toàn thân đang run, không phải run nhẹ mà run lên bần bật, run đến nỗi cái cổng bằng sắt cũng run theo.) (Trâu thiến)
           (c) Vật cách hóa
          Vật cách hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta dùng một hình thức di chuyển thuộc tính, dấu hiệu ngược lại với nhân hóa, tức là những thuộc tính, dấu hiệu của con người, nhằm mục đích châm biếm đùa vui và nhiều khi qua đó để thể hiện tình cảm, thái độ sâu kín của mình. Ví dụ:
          (25) 他第三次感到自己在空中飞行。《大风》
          (Lần thứ ba nó cảm thấy mình bay trong không trung.) (Đại phong)
 (26)  她大步流星,扁担颤悠悠,两只水桶上下跳动,好像要飞起来似的。《牛》
          (Nói xong thì cô ấy quảy thùng nước đi mất, bước chân dài ngoằng thoăn thắt. Đôi thùng nước đu đưa như có đôi cánh chực bay lên trời.) (Trâu thiến)
          (d) Sử dụng hoán dụ
          Trần Vọng Đạo trong修辞发凡》“Tu từ học phát phàm” lần đầu tiên đã đưa ra định nghĩa về phép hoán dụ như sau: “Sự vật được nói tới tuy rằng không có điểm tương tự với sự vật khác, giả sử khi giữa chúng còn có quan hệ không thể tách rời, tác giả có thể mượn tên của sự vật có quan hệ đó thay cho sự vật được nói tới. Cách mượn như vậy gọi là phép hoán dụ tu từ”. Nghĩa là, không nói thẳng ra tên người hoặc sự vật mà mượn tên của sự vật có quan hệ mật thiết với nó thực hiên phép thay thế.
          Phép hoán dụ tu từ có nhiều loại khác nhau. Tuy nhiên, hoán dụ khoa trương trong tác phẩm Mạc Ngôn sử dụng tên bộ phận để thay cho toàn thể. Chẳng hạn:
(27)  你休想,王仁美把一面镜子摔在地上,大声喊叫着,孩子是我的,在我的肚子里,谁敢动他一根毫毛,我就吊死在谁家门槛上。《蛙》
          (…con là của tôi, nó nằm trong bụng tôi. Ai dám động đến một sợi lông của nó tôi sẽ treo dây lên xà nhà của người đó thắt cổ chết.) (Ếch)
Ở đây, “sợi lông chân” thay cho “cả cơ thể” là hoán dụ bộ phận thay cho toàn thể. Xét trường hợp sau:
(28)  时候我正处在爱热闹的青春前期,连村子里的狗都讨厌我。《牛》
          (Thời ấy tôi còn là một đứa trẻ, chỉ thích xem những trò vui, thích tham gia vào những chuyện ồn ào, ngay cả chó trong thôn cũng chẳng ưa gì tôi.) (Trâu thiến)
          Theo chúng tôi, trường hợp này cũng là hoán dụ, “chó trong thôn” là bộ phận thay cho “cả thôn” là toàn thể; ý nghĩa của câu là “cả thôn đều ghét tôi”.

          3.3. Phân  loại khoa trương theo mức độ
          Căn cứ vào mức độ khoa trương (đã đến mức phi lí hay chưa đến mức phi lí), khoa trương của Mạc Ngôn có thể thành hai loại:
          (1) Khoa tương ở mức độ thấp
          Là cách nói quá đi so với cái có thật trong thực tế; tuy có thể nhân lên tới hàng trăm hàng nghìn lần, thậm chí hàng vạn lần, nhưng vẫn chưa đến mức phi lí, vẫn có thể chấp nhận được. Sở dĩ như vậy là vì, nghe mãi thành quen tai, cả người nói và người nghe không ai nghĩ rằng mình đang khoa trương. Chẳng hạn, trong khẩu ngữ người ta vẫn hay sử dụng các cụm từ sau để khoa trương: 伟大无穷 (vô cùng vĩ đại), 难极了 (cực kì khó khăn), 百端待 / 日理万机 (trăm công nghìn việc), 佩服得五体投 (phục sát đất). Ví dụ:
          (29) 她的胳膊力大,我几乎是脚不点地地跟着她跑。《牛》
           (Cánh tay cô ta lại khỏe vô cùng, tôi chạy theo cô ta mệt đến đứt hơi, chân không bén đất)  (Trâu thiến)
           (30)
姑从此便与这项神圣的工作结下了不解之缘。《蛙》
          (Từ đó cô tôi có duyên nợ với cái công việc thần thánh này.) (Ếch)
 (31)  姑姑是天才妇产科医生,她干这行儿脑子里有灵感,手上有感觉。见过她接生的女人或被她接生过的女人,都佩服得五体投 。《蛙》
          (Phải thừa nhận cô tôi là một bác sĩ sản phụ thiên tài, khi làm việc này hình như trong đầu cô luôn luôn có linh cảm, tay cô có cảm giác. Những người đàn bà từng chứng kiến cô tôi đỡ đẻ đều bái phục cô sát đất.) (Ếch)
(32) 黄秋雅是个伟大的妇科医生,即便是上午被打得头破血  流,下午上了手术台,她还是聚精会神。《蛙》
           (Nhưng Hoàng Thu Nhã vẫn là một bác sĩ sản phụ vĩ đại, thậm chí buổi sáng bị đánh cho sứt đầu mẻ trán thì buổi chiều bà ấy vẫn đứng trên bàn mổ, bà ta vẫn tập trung tinh thần.) (Ếch)
          Thông thường ta nói: nhân vật thiên tài, nhà văn thiên tài, nhà khoa học vĩ đại, lãnh tụ vĩ đại chứ bình thường không ai nói: bác sĩ sản phụ vĩ đại hay bác sĩ sản phụ thiên tài. Ở đây rõ ràng có dụng ý của tác giả nhằm ca ngợi bàn tay vàng của bác sĩ sản phụ Hoàng Thu Nhã.
           (2)   Khoa trương ở mức độ cao
          Là cách nói nói quá sự thật một cách quá đáng, đến độ phi lí không thể tin được. Trong giao tiếp, người ta hay sử dụng các cụm từ và các thành ngữ khoa trương sau: 不翼而 (không cánh mà bay), 一步登天 (một bước lên giời), 识一丁 (một chữ bẻ đôi cũng không biết), 一天比一世纪长 (một ngày dài hơn thế kỉ),发千钧 (ngàn cân treo sợi tóc), 头六臂 (ba đầu sáu tay). Chẳng hạn:
(33)  同志,我要告诉您,您看到的只是我的外表,其实,我有严重的心脏病。我的心被人用刀子戳伤过,只要一干活,心上的疤痕就会崩 裂,那样我就会七窍流血而死。《蛙》
          (Tim tôi đã bị người ta dùng dao đâm xuyên qua, chỉ cần làm một việc nhẹ, vết thương trong tim sẽ vỡ ra, thế là tôi sẽ hộc máu mà chết) (Ếch)
(34)  五官上下打量着她说:嫂子,要想跟你亲个嘴,必须踏着梯子!《蛙》
           (…muốn hôn vào môi chị e rằng phải bắc một cái thang!) (Ếch)
(35) 在黑屋子里关了不知道几天几夜,把我们挪到一  个独立小院里,院子里有一棵紫丁香,那个香啊,熏得我头晕。《蛙》
          (…trước sân có một cây tử đinh hương, hoa của nó thơm đến độ cô muốn ngất xỉu.) (Ếch)
           (3) Khoa trương ở mức độ tuyệt đối
          Là khoa trương ở mức độ rất cao. Có hai trường hợp sau:
          (a) Khoa trương về điều không thể xảy ra.
          Là khoa trương về những điều trái với thực tế. Ví dụ:
          (36)  王胆说陈家庄有人吃了您给配的药,生了龙凤胎!王仁美说。《蛙》
          (Vương Nhân Mĩ nói: “Vương Đảm nói, người ở Trần gia trang uống thuốc của cô thì có thai rồng thai phượng.) (Ếch)
          (37) 我心里想,这简直太阳从西边升起来了。《牛》
          (Tôi nghĩ bụng: Điều đó có khác nào mặt trời mọc ở đằng tây.) (Trâu thiến)
(38)  老董同志脸涨得青紫,说:麻子,你真是狗眼看人低!老董我今天不阉了它我就头朝下走回公社!《牛》
          (Lão mặt rỗ kia! Đúng là ông đã dùng mắt chó để nhìn người quá thấp. Lão Đổng này bữa nay không thiến được con trâu này thì sẽ đi ngược đầu về công xã cho ông xem.) (Trâu thiến)
          (39) 姐姐说:他要有大出息,圈里那头猪也能变成老虎!《蛙》
          Chị gái nói: nó mà thành vĩ nhân thì e rằng con lợn trong chuồng cũng rùng mình biến thành hổ mất thôi!) (Ếch)
          (b) Khoa trương ở mức độ cực cấp 
          Khái niệm “cực cấp” chúng tôi dùng ở đây là khoa trương được xếp vào mức độ cao nhất. Loại này thường dùng cho những tính từ “thang độ”. Ví dụ:
(40)  说:毛都没扎全的小东西,也想好事儿!我越想越感到冤枉,白送了18块水果糖,还挨了一个窝心拳。全世界再也找不到比我更傻的人了。《牛》
          (Cô ta nói: thằng oắt con lông mọc chưa đủ mà cũng tơ tưởng chuyện ấy rồi sao? Càng nghĩ tôi càng thấy mình oan uổng quá, đã mất toi 18 viên kẹo mà lại nhận được một cú đấm. Thế giới này quả thật không tìm ra người thứ hai ngu ngốc như tôi.)        (Trâu thiến)
(41) 但她在王肝眼里是天下第一美人,说文雅点,这叫  情人眼里出西施;说粗俗点,这叫王八瞅绿豆,看对眼了。《蛙》
          (Nhưng trong mắt Vương Can, “Tiểu sư tử” lại là đệ nhất mĩ nhân trên thế gian này, nói văn vẻ một tí thì “trong mắt người đang yêu, em bỗng hóa Tây Thi”.) (Ếch)
(42)  六姐的乳房精美绝伦,宛如两个倒扣的玻璃钵盂,这样的好宝受了伤,真让我心疼欲绝。《丰乳肥臀》
          (Cặp vú chị Bảy đẹp tuyệt trần, như hai cái âu bằng pha lê úp sấp.) (Báu vật của đời)

          3.4. Phân loại khoa trương theo thời gian
          Căn cứ vào thành phần trong câu có thể chia thành hai tiểu loại sau:
          (a ) Không có sự tham gia của trạng ngữ thời gian
          Người Hán rất thích khoa trương thời gian theo trật tự nghịch, nghĩa là đem sự việc xuất hiện sau nói thành việc xuất hiện trước và ngược lại hoặc đồng thời xuất hiện. Ý nghĩa của câu là “chưa thế này thì đã thế kia” hoặc “vừa mới thế này đã thế kia”. Một trong những câu điển hình là:  李医生给人看病,药方没开,病就好了三分 (Bác sĩ Lí khám cho bệnh nhân, đơn thuốc chưa kê bệnh đã khỏi được ba phần). Tương tự như người Việt nói “chưa ăn đã hết”, “rượu chưa uống đã say”.
          Tuy nhiên, khi khảo sát một số tác phẩm của Mạc Ngôn, chúng tôi chỉ thấy cách nói:
(43)  母亲道:正是正是,只要她的手在病人身上一摸,十分病就去了七分。《蛙》
          (Mẹ nói: “Đúng là như thế, chỉ cần cô con đưa tay sờ vào người bệnh là bệnh mười phần đã giảm đi bảy phần!) (Ếch)
          (2) Có sự tham gia của trạng ngữ thời gian
          Trong câu thuộc loại này có thể có một hoặc hai hành động và thường có sự tham gia của từ ngữ chỉ thời gian. Ví dụ:
(44)  谅你也不敢去,他那把小斧头比风还要快,一下就能把你的狗爪子剁下来广。《牛》
          (Tôi cũng đoán là cậu không dám gặp hắn. Chiếc rìu trong tay hắn còn nhanh hơn cả gió, e rằng chỉ cần vung lên là mấy chiếc móng chó trên tay cậu không cánh mà bay.)        (Trâu thiến)
(45)  说:刚才你还叫我老人家,怎么转眼说我是小孩子了呢?
          (Vừa rồi ông gọi cháu là lão gia, tại sao chỉ chớp mắt lại gọi cháu là đồ oắt con hỉ mũi chưa sạch?)
           
(46)  杜大爷说:队长,要杀要砍随你,但是你不能骂我,我转眼就是奔70岁的人了。《牛》
           (- Đội trưởng! Ông muốn giết muốn xẻo tôi thì tùy, nhưng không được chửi tôi – ông Đỗ tức tối nói – Chỉ cần nhắm mắt rồi mở mắt là tôi đã đủ bảy mươi rồi đấy.)  (Trâu thiến)
          Trong các câu trên转眼 (trong nháy mắt) được dùng để khoa trương; thực tế, 转眼có thể được thay thế bằng những từ ngữ tương ứng khác như: 眨眼间,眨眼工夫, 一瞬间,瞬息,瞬时, 一转眼功夫,转眼间 (nháy mắt), hoặc: 立即 (ngay lập tức) . Ví dụ:
 (47)北风遒劲,遍地白霜,红日初升,人嘴里喷出的团团热气立即便在眉毛和睫毛上结成霜花。《牛》
          (Sương giá bao trùm không gian, mặt trời đỏ mới ló lên ở phía đông, hơi thở vừa thoát khỏi miệng người, ngay lập tức biến thành sương đậu trên lông mày lông mi.) (Trâu thiến)
          Chú thêm: Cách phân chia này chỉ mang  tính tương đối. Có cách nói có thể xếp vào nhiều loại khác nhau.

          Kết luận
          Khoa trương là một thủ pháp nghệ thuật hết sức độc đáo trong các tác phẩm của Mạc Ngôn. Nó luôn tạo sự mới mẻ, kích thích trí tưởng tượng và lôi cuốn người đọc. Thông qua đó, lời ăn tiếng nói của quần chúng vào trang văn của ông hết sức tự nhiên như cuộc đời thực vốn có của nó. Từ đó có thể rút ra mấy đặc điểm sau:
          Khoa trương không phải là miêu tả sự vật đơn thuần mà là biểu thị tình cảm, tức là trong đó có gắn với thái độ, tình cảm của tác giả.
          Khoa trương bất luận là phóng to hay thu nhỏ đều giúp người đọc nhìn rõ đặc tính và bản chất của sự vật, từ đó đạt được những ấn tượng sâu sắc mới mẻ và sự cảm thụ tinh tế.
          Khoa trương trong một hoàn cảnh ngôn ngữ nhất định có thể đạt được hiệu quả châm biếm, hài hước.
                       
                        Nguyễn Ngọc Kiên

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cù Đình Tú (2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giaó dục.
2. Đào Thản (1990), Lối nói phóng đại trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ.
3. Đinh Trọng Lạc (2005), Phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giaó dục.
4. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong cách học tiếng Việt, Nxb   Giaó dục.
5. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

NGUỒN TƯ LIỆU TRÍCH DẪN
6. Mạc Ngôn (2001), Báu vật của đời, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.
7. Mạc Ngôn (2010), Ếch, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Mạc Ngôn (2004), Truyện, Nxb Văn học, Hà Nội.


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét