Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên |
TS.
Nguyễn Ngọc Kiên
(Tiếp theo và hết)
4.4. Sử dụng so sánh tu từ biểu thị khoa trương
(A)
So sánh tu từ biểu thị khoa trương trong thành ngữ tiếng Việt
Theo các tác giả Đinh Trọng
Lạc, Cù Đình Tú thì: “So sánh tu từ là sự
đối chiếu về hai sự vật (về tính chất, trạng thái sự việc) A và B cùng có một dấu
hiệu chung nào đó giống nhau. A là sự vật chưa biết, nhờ qua B mà người đọc biết
A hoặc hiểu thêm về A. So sánh tu từ còn gọi là so sánh hình ảnh, đó là một sự
so sánh không đồng loại, không cùng một phạm trù chung, miễn là một nét tương đồng
nào đó về mặt nhận thức hay tâm lí”. (Dẫn theo[7, tr. 84])
Tác giả Hoàng Kim Ngọc
[7, tr. 84] lại cho rằng, cả hai quan niệm trên về cơ bản là đúng nhưng chưa đủ
vì chưa chỉ ra được cơ sở của sự so sánh và những hệ quả của sự so sánh ấy.
Chúng tôi đồng ý với ý kiến
của Hoàng Kim Ngọc.
Cách nói khoa trương hay
còn gọi nói ngoa tiện nhất là so sánh, lấy điều gì đã biết để dẫn dụ cho dễ hiểu.
Cách so sánh là gây ấn tượng mạnh cho người nghe và người đọc. Nói cách khác,
đó là những thành ngữ so sánh có từ so sánh.
Loại này bao gồm những
thành ngữ có cấu trúc là một cấu trúc so sánh. Ví dụ: Lạnh như tiền; rách
như tổ đỉa.
Mô hình tổng quát của
thành ngữ so sánh giống như cấu trúc so sánh thông thường khác:
- A ss B: Ở đây A là vế được
so sánh, B là vế đưa ra để so sánh, còn ss là từ so sánh: như,
bằng, tựa, hệt,...
Tuy vậy, sự hiện diện của
thành ngữ so sánh trong tiếng Việt khá đa dạng, không phải lúc nào ba thành phần
trong cấu trúc cũng đầy đủ. Chúng có thể có các kiểu: tội tày đình; gan tày liếp; phúc như Đông Hải, thọ tựa Nam Sơn .
A
ss B: Đây là
dạng đầy đủ của thành ngữ so sánh.
Chẳng hạn: đắt
như tôm tươi; nhẹ tựa lông hồng; lạnh như tiền; nổ như sấm;nhanh như gió
/ chớp /; ngủ như chết; ngáy như sấm;
ngáy như kéo gỗ; chạy như ma đuổi; đẹp
như tiên giáng trần; nhanh như máy; đoán
như thần; nhẹ như bấc; nặng như chì; ngủ như chó con say sữa; dai như đỉa đói
-
A ss B: Ở kiểu
này, thành phần A của thành ngữ không nhất thiết phải có mặt. Nó thể xuất
hiện hoặc không, nhưng người ta vẫn lĩnh hội ý nghĩa của thành ngữ ở dạng toàn
vẹn. Ví dụ: (rẻ) như bèo; (chắc) như
đinh đóng cột; (vui) như mở cờ trong bụng; (to) như bồ tuột cạp; (khinh) như
rác; (khinh) như mẻ; (chậm) như rùa / sên...
- ss B: Trường hợp này, thành
phần A không phải của thành ngữ. Khi đi vào hoạt động trong câu nói,
thành ngữ kiểu này sẽ được nối thêm với A một cách tuỳ nghi, nhưng nhất
thiết phải có. A là của câu nói và nằm ngoài thành ngữ. Ví dụ:
Ăn ở với nhau
Xử sự với nhau Giữ ý giữ tứ với nhau ... |
như chó với mèo
|
Có
thể kể ra một số thành ngữ kiểu này như: như tằm ăn rỗi; như vịt nghe sấm;
như con chó ba tiền; như gà mắc tóc; như đỉa phải vôi; như ngậm hột thị.
Đối
với thành ngữ so sánh tiếng Việt nói chung và thành ngữ so sánh khoa trương nói
riêng, có thể nêu một vài nhận xét về cấu trúc của chúng như sau:
Vế
A (vế được so sánh) không phải bao giờ cũng buộc phải hiện diện trên cấu
trúc hình thức, nhưng nội dung của nó thì vẫn luôn luôn là cái được "nhận
ra". A thường là những từ ngữ biểu thị thuộc tính, đặc trưng hoặc
trạng thái hành động,... nào đó. Rất ít khi chúng ta gặp những khả năng khác.
Từ so sánh trong thành ngữ so
sánh tiếng Việt phổ biến là từ như; còn những từ so sánh khác, chẳng hạn
như tựa, tựa như, như thể, bằng, tày,... Chẳng hạn: gương tày liếp, tội
tày đình, cưới không bằng lại mặt, thọ
tựa Thái Sơn chỉ xuất hiện hết sức ít ỏi.
Vế
B (vế để so sánh) luôn luôn hiện diện, một mặt để thuyết minh, làm rõ
cho A, mặt khác, nhiều khi nó lại chỉ bộ lộ ý nghĩa của mình trong khi kết
hợp với A, thông qua A. Ví dụ: Ý nghĩa "lạnh" của tiền
chỉ bộ lộ trong lạnh như tiền mà thôi. Các thành ngữ nợ như chúa Chổm,
rách như tổ đỉa, say như điếu đổ, say khướt cò bợ,... cũng tương tự như vậy.
Mặt khác, các sự vật, hiện tượng, trạng thái,... được nêu ở B phản ánh khá rõ nét những dấu ấn về đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc Việt. Đối chiếu với thành ngữ so sánh của các ngôn ngữ khác, ta dễ thấy sắc thái dân tộc của mỗi ngôn ngữ được thể hiện một phần ở đó.
Mặt khác, các sự vật, hiện tượng, trạng thái,... được nêu ở B phản ánh khá rõ nét những dấu ấn về đời sống văn hoá vật chất và tinh thần của dân tộc Việt. Đối chiếu với thành ngữ so sánh của các ngôn ngữ khác, ta dễ thấy sắc thái dân tộc của mỗi ngôn ngữ được thể hiện một phần ở đó.
Như trên đã nói, vế B
có cấu trúc không thuần nhất:
B có thể là một từ. Ví dụ: lạnh như tiền, rách như tổ
đỉa, nợ như chúa Chổm; đắng như bồ hòn; rẻ như bèo; khinh như mẻ,...
B có thể là một kết cấu chủ-vị (một mệnh đề). Ví dụ: như
đỉa phải vôi, như chó nhai giẻ rách, lừ đừ như ông từ vào đền, như thầy bói xem
voi, như xẩm sờ vợ,...
4.4.1.
So sánh với những từ ngữ chỉ bộ phận cơ thể con người
Chúng
ta dùng những tên bộ phận cơ thể người để ngoa ngữ, trên thực tế không có như
vậy:
Chẳng hạn: bầm
gan tím ruột ; tức lộn ruột/ tiết ;
tức ứa máu ; tiếc đứt ruột; gan cùng mình; Ruột thắt gan bào; vắt
tim óc;cười bể bụng;làm mửa mật; đổ mồ hôi hột; no vỡ bụng; lo sốt vó; rụng rời chân tay; nghĩ nát óc; nghĩ bể đầu;
cứng họng; nói đến gãy/ đứt lưỡi; coi người bằng nửa con mắt....
Nhưng những cách diễn đạt sau đây đúng với
tình trạng sinh lý của người bệnh: mệt
mờ mắt ; mệt bở hơi tai; lạnh nổi da gà;
run bắn người; mồ hôi vã ra như tắm; trái tim sắt đá; còn da bọc xương; uống
máu người không tanh...
4.4.2.So
sánh với những từ ngữ chỉ động vật
Chẳng
hạn: run như cầy sấy; khỏe như voi; chân
như chân voi; ranh như cáo; nhanh như sóc; giết người như ngóe; ăn như heo; lẩn như chạch; ăn như rồng cuốn,
nói như rồng leo; ghét nhau như chó với mèo; chân to như chân voi; dai như đỉa đói.
(B)
So sánh tu từ biểu thị khoa trương trong thành ngữ tiếng Hán
(1)
Thành ngữ so sánh dạng hiện biểu thị khoa trương trong tiếng Hán
(1.1) Thành ngữ so sánh ngang bằng
Biểu
thức: X + R + Y
Trong loại này, từ ngữ biểu thị so sánh
(R) thường là các từ ngữ: 如 (như), 若 (nhược) hoặc似 (tự) …. Chẳng hạn:
心急如焚 “tâm cấp như phẩn” (ruột
gan như lửa
đốt)
杀人如麻 “sát nhân như ma” (giết người như ngoé)
福寿齐天 “phúc thọ tề thiên” (phúc thọ ngang bằng trời)
(1.2) Thành ngữ so sánh không ngang bằng
Biểu
thức: X+ R + Y
Có
thể thấy, thành ngữ so sánh không ngang bằng trong tiếng Hán thuộc loại thành
ngữ so sánh dạng hiện. Trong loại này, từ ngữ biểu thị so sánh (R) thường là các từ ngữ于
(ư), 比 (tỉ)... Chẳng
hạn:
危于累卵 (trứng
quẩy đầu gậy)
轻于鸿毛 (nhẹ hơn lông hồng)
笑比河清 (tiếng
cười trong hơn nước sông)
Cần lưu ý, 比 “tỉ” xuất
hiện trong 寿比南山 “thọ tỉ Nam
Sơn” là động từ biểu thị ý nghĩa ngang bằng, vì vậy cả
thành ngữ biểu thị so sánh ngang bằng. Khi比 “tỉ” xuất
hiện trong笑比河清 do trong cấu trúc của thành ngữ có “清” “thanh” nên比 “tỉ” là một giới từ trong cấu trúc so sánh không ngang bằng, và do vậy
thành ngữ 笑比河清 “tiếu tỉ hà thanh” (tiếng cười
trong hơn nước sông) biểu thị so sánh
không ngang bằng.
Đó
là những trường hợp đặc biệt; ngoài ra, 于 “ư” và 比 “tỉ” đều biểu thị so sánh hơn. Khi
muốn biểu thị ý nghĩa so sánh kém, thành ngữ tiếng Hán thường dùng hình thức
phủ định不如 “bất như”, 莫如 “mạc như” hay不及 “bất cập” để biểu đạt. Ví dụ:
鸡不及凤 “kê bất cập phượng” (gà đâu bằng
phượng) = như công với quạ.
(2)
Thành ngữ so sánh dạng ẩn biểu thị khoa trương trong tiếng Hán
Thành
ngữ so sánh dạng ẩn là những thành ngữ trong cấu trúc của chúng thiếu vắng từ
ngữ so sánh (R). Hiện tượng này rất phổ biến trong kho thành ngữ tiếng Hán và
đã tạo ra một khối lượng thành ngữ so sánh dạng ẩn chiếm tỉ lệ không nhỏ trong
toàn bộ số lượng thành ngữ so sánh tiếng Hán. Trong thành ngữ so sánh dạng ẩn,
giữa thành tố X và Y không có các từ ngữ biểu thị so sánh song chúng vẫn được
liên kết với nhau rất chặt chẽ qua các phương thức ngữ pháp đặc trưng cho loại
hình ngôn ngữ đơn lập như trật tự từ và hư từ. Những thành ngữ so sánh dạng ẩn
thường hàm ý so sánh ví von. trong đó so sánh ngang bằng chiếm một tỉ lệ áp
đảo. Theo khảo sát của chúng tôi, thành ngữ so sánh dạng ẩn này không biểu thị
hơn kém. Do vậy, ở phần này chúng tôi chỉ khảo sát về mặt cấu trúc của thành
ngữ mà không thuyết minh là so sánh ngang bằng hay không ngang bằng. Thành ngữ
so sánh dạng ẩn biểu thị khoa trương chính là hình ảnh thu nhỏ của thành ngữ
thuộc loại này. Căn cứ vào cấu trúc, chúng có thể chia thành các tiểu loại sau
đây.
(a)
Cấu trúc đơn “ X – Y”
Trong cấu trúc thành ngữ so sánh nói
chung và so sánh biểu thị khoa trương nói riêng thuộc loại này chỉ xuất hiện
hai thành tố: X (chủ thể so sánh) và Y (chuẩn so sánh), chúng tôi gọi đó là cấu
trúc đơn, theo trật tự X – Y. Ý nghĩa so sánh của thành ngữ phải
được căn cứ vào mối quan hệ liên tưởng giữa hai thành tố X và Y. Chẳng
hạn:
刀山火海 “đao sơn hỏa hải” (như
núi dao biển lửa/ nơi nguy hiểm)
车水马 龙 “xa thủy mã long”
(ngựa xe như nước)
杯水车薪 “bôi thủy xa tân” (như cốc nước chữa xe củi)
Ở
đây mặc dù các từ ngữ so sánh không xuất hiện nhưng căn cứ vào ngữ cảnh, ta có
thể hiểu ngầm rằng giữa thành tố X và Y có sự tham gia của các từ so sánh có ý
nghĩa “như”, “bằng” .
Xét về mặt cú pháp, X và Y có quan hệ chủ vị, trong đó X là chủ thể được
trần thuật, còn Y là thành phần trần thuật.
(b)
Cấu trúc kép “X1-Y1-X2-Y2”
Trong
thành ngữ so sánh thuộc loại này bao gồm cấu trúc so sánh dạng ẩn có kết cấu
chủ vị, mỗi yếu tố là các từ đơn âm tiết. Chẳng hạn:
车水马龙 “xa thủy mã long” (xe
nối tiếp nhau như nước chảy, ngựa nối đuôi nhau như một con rồng).
米珠薪桂 “mễ châu tân quế” (gạo
đắt như ngọc, củi đắt như gỗ quế).
名缰利锁 “danh cương lợi toả” (danh là dây cương, lợi là còng xích / bị trói buộc bởi danh lợi, nô lệ của danh
lợi).
Trong
kết cấu của thành ngữ so sánh kép dạng ẩn nói chung và khoa trương nói riêng,
các thành tố X1, X2 và các thành tố Y1, Y2 thường là những từ đẳng nghĩa, từ
cận nghĩa hoặc các từ có quan hệ chặt chẽ với nhau về mặt ngữ nghĩa.
(c)
Cấu trúc đơn “Y – X”
Trong
nhóm thành ngữ so sánh thuộc loại này, về cấu trúc Y (chuẩn so sánh) có vị trí
đứng trước X (chủ thể so sánh). Về ý nghĩa, Y là thành phần tu sức trực tiếp
cho X, tạo nên mối quan hệ cú pháp định danh. Chẳng hạn:
锦绣前程 “cẩm tú tiền trình” (tiền đồ được dệt bằng gấm lụa).
蝇头微利 “dăng đầu vi lợi” (lợi lộc nhỏ bằng đầu ruồi/ lợi bằng móng tay).
金玉良言 “kim ngọc lương ngôn” (lời nói như vàng ngọc).
Tiếng
Hán là một ngôn ngữ đơn lập, đơn tiết, vì vậy trong kết cấu của thành ngữ gồm
bốn âm tiết, X và Y thường là kết cấu song âm tiết để thuận tai, hài hòa về âm
điệu.
(d) Cấu trúc định danh “Y –之– X”
Trong
thành ngữ so sánh thuộc loại này, thành tố Y (chuẩn so sánh) đứng trước, thành
tố X (chủ thể so sánh) đứng phía sau, trợ từ kết cấu之 (chi) đóng vai trò trung
gian liên kết X và Y. Kết cấu này mang tính định danh và được sử dụng nhiều
trong văn ngôn. Trong cấu trúc, X luôn luôn là thành tố có một âm tiết, như vậy
Y còn lại là hai âm tiết. Chẳng hạn:
弹丸之地 “đạn hoàn chi địa” (mảnh đất bé bằng viên đạn).
破竹之势 “phá
trúc chi thế” (thế mạnh như trẻ tre).
Trong
cấu trúc, thành tố Y có thể là:
- đoản ngữ danh từ (NP), chẳng hạn 弹丸 “đạn
hoàn”
-
đoản ngữ động từ (VP), chẳng hạn: 破竹 “phá
trúc”
Trong
thành ngữ so sánh dạng ẩn thuộc loại này, thành tố X thường do danh từ đơn âm
tiết đảm nhiệm, yếu tố Y có kết cấu song âm tiết, trợ từ 之 “chi”
kết nối giữa thành tố X và thành tố Y. Do vậy, ở một khía cạnh nào đó, cấu trúc
này có thể được coi là một dạng đặc biệt của cấu trúc Y – X.
(e) Cấu
trúc kép “Y1 – X1 – Y2 – X2”
Trong
thành ngữ so sánh biểu thị khoa trương thuộc loại này có hai cấu trúc so sánh
quan hệ đẳng lập, mỗi cấu trúc lại là một cấu trúc con so sánh dạng ẩn. Có thể chia thành ba tiểu loại
sau:
+ Kiểu 1: “N - Ad - N – N”
Trong
cấu trúc của các thành ngữ thuộc loại này, các thành tố X và Y đều là các danh
từ đơn tiết; các danh từ đơn tiết này lại tạo thành từng cặp ngữ danh từ biểu
thị ý nghĩa so sánh. Chẳng hạn:
鹤发童颜 “hạc
phát đồng nhan” (mặt hồng hào như hài đồng).
钢筋铁骨 “cương cân thiết cốt” (mình đồng da sắt).
花容月貌 “hoa dung nguyệt mạo” (diện mạo tươi đẹp
như hoa, như trăng).
Trong
cấu trúc của thành ngữ, “Y1 – X1” và “Y2 – X2” là hai kết cấu có quan hệ chính
phụ. Xét về mặt ngữ nghĩa các thành tố có quan hệ như sau:
- X1 và X2 nghĩa có quan hệ tương quan như: 发 - 颜 (phát – nhan), 筋 - 骨 (gân - cốt), 容 - 貌 (dung - mạo).
- Y1 và Y2 có thể là quan hệ tương phản
như: 鹤 - 童 (hạc -
đồng) hoặc tương đồng như钢 - 铁 (cương - thiết), 花 - 月 (hoa - nguyệt).
+ Kiểu 2: “N
– V –N – V”
Trong
thành ngữ so sánh nói chung và so sánh biểu thị khoa trương thuộc loại này,
thành tố X gồm hai động từ đơn tiết, thành tố Y gồm hai danh từ đơn tiết. Các
cặp kết hợp “X1 – Y1” và “X2 – Y2” là các kết cấu chính phụ biểu đạt ý nghĩa so
sánh. Chẳng hạn:
冰消瓦解 “băng tiêu ngoã giải” (tan như băng, vỡ như gạch)
神出鬼没 “thần xuất quỉ mai” (xuất quỉ nhập thần).
蚕食鲸吞 “tàm thực kình thốn” (ăn như tằm ăn, nuốt
như cá kình).
挥汗成雨 “huy hãn thành vũ” (mồ hôi vã ra như tắm)
Về
kết cấu, trong mỗi cặp kết hợp giống như một cặp chủ vị, nhưng về bản chất lại
không phải như vậy, những danh từ không phải là chủ thể của hành động mà chỉ
được sử dụng để thuyết minh cho phương thức của động tác do động từ đảm nhận.
Hay nói rõ hơn, quan hệ của các cặp này là quan hệ chính phụ; cho nên “蚕食鲸吞” ta phải
hiểu là “ăn như tằm ăn, nuốt như
cá kình” chứ không phải là “tằm ăn, cá kình nuốt”.
+ Kiểu 3: “N – Ad –N – Ad”
Trong thành ngữ so sánh biểu thị khoa
trương thuộc loại này, thành tố X1 và X2 đều là hai tính từ đơn tiết đồng
nghĩa; thành tố Y1 và Y2 là hai danh từ đơn tiết, hai danh từ này thường là những
sự vật biểu thị đặc trưng tính chất điển hình của X1 và X2.
Một
số đoản ngữ tiêu biểu thuộc loại này:
海枯石烂 “hải khô thạch lạn” (biển cạn đá mòn)
冰清玉洁 “băng thanh ngọc khiết” (trong
ngọc trắng ngà)
山高水长 “sơn cao thuỷ trường” (cao
như núi, dài như sông).
天长地久 “thiên trường địa cửu” (trường
tồn như trời, vĩnh cửu như đất).
水深火热 “thủy thâm hỏa nhiệt” (nước sôi lửa
bỏng/ cực khổ lầm than)
(3)Thành
ngữ so sánh có chứa từ chỉ động vật trong tiếng Hán
Ví
dụ:
龙盘虎踞 ( rồng ngồi hổ phục)
如虎添翼 (như hổ
thêm cánh)
龙潭虎穴 (đầm rồng
huyệt hổ)
龙飞风舞(rồng bay phượng múa)
鬼哭狼嚎(quỷ khóc sói gào)
(4)Thành ngữ so sánh có chứa từ chỉ bộ phận cơ thể trong tiếng Hán
张牙舞爪 (nhe nanh múa vuốt)
胆大包天
(gan bao cả trời)
刻骨铭心 (khắc cốt ghi tâm)
心如刀割 (lòng như dao cắt)
心正不怕雷打 (lòng ngay thẳng không sợ sấm
đánh)
心坚石也穿 (lòng kiên
trì xuyên thủng cả đá)
4.5.
Sử dụng ẩn dụ biểu thị khoa trương
Theo
tác giả Hữu Đạt [3, tr.302] thì “Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng ra. Người tiếp nhận văn bản khi tiếp cận với phép ẩn dụ phải
dùng năng lực liên tưởng để quy chiếu giữa các yếu tố hiện diện trên văn bản với
các sự vật hiện tượng tồn tại ngoài văn bản. Như vậy, thực chất của phép ẩn dụ
chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật khác dựa trên cơ chế tư duy
và ngôn ngữ dân tộc ”
Như
vậy theo chúng tôi, ẩn dụ là so sánh mà không có từ so sánh.
Chẳng
hạn: chỉ mành treo chuông; ngàn cân
treo sợi tóc. Ở đây ta phải hiểu là (như ) chỉ mành treo chuông;( như) ngàn cân treo sợi tóc.
Theo các tác giả Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến, chúng
là những ngữ cố định định danh. Chúng
tôi vẫn xếp chúng vào mục thành ngữ, vì tính cố định vì nghĩa biểu trưng của
chúng.
Chẳng hạn: mắt ốc nhồi; mắt bồ câu; mắt lươn; mắt phượng,
mày ngài, mũi sư tử; mũi diều hâu; răng bàn cuốc; răng cải mả; nhẩy chân sáo;
khăn mỏ quạ; miệng cá ngão; mặt lưỡi cày; ngón tay chuối mắn; ngón tay búp
măng; chân voi; chân cột đình....
4.6.
Sử dụng thủ pháp nhân cách hóa, vật cách hóa biểu
thị khoa trương
(A)
Trong thành ngữ tiếng Việt
Nhân cách hóa là một biện
pháp tu từ lấy vật bao gồm vật thể, động vật, tư tưởng hoặc khái niệm trừu tượng
làm cho chúng có diện mạo, cá tính, tính cách, hoặc tình cảm.
Nhân cách hóa là một
biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những từ ngữ biểu thị
thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị thuộc tính, dấu
hiệu không phải con người, nhằm làm cho đối tượng được miêu tả trở
nên gần gũi dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng
bày tỏ kín đáo tâm tư thái độ của mình. Có mấy loại sau:
-
Nhân cách hóa động vật
Ví
dụ: Chim sa cá lặn; ma chê quỷ hờn ;
chó chê mèo lắm lông; khỉ ho cò gáy; ai
mà biết được ma ăn cỗ ; chim ca
vượn hát; rồng đến nhà tôm; lươn ngắn
chê chạch dài, thờn bơn méo miệng chê trai lệch mồm.
-
Nhân cách hóa thực vật
Ví dụ: Hoa nhường nguyệt thẹn ; hoa cười ngọc
thốt; lòng vả cũng như lòng sung ; quýt làm cam chịu ; cây ngay không
chịu chết đứng; say hoa đắm nguyệt.
-
Nhân cách hóa sự vật và các hiện tượng tự nhiên
Ví dụ:
Mưa thảm gió sầu; thiên sầu địa thảm; hồn xiêu phách lạc ; trời không dung đất
không tha; bụng làm dạ chịu; bụng bảo dạ; thần hồn nát thần tính.
(B) Trong thành ngữ tiếng
Hán
Các
thành ngữ “闭月羞花” (hoa nhường nguyệt thẹn),
“沉鱼落雁” (chim sa cá lặn) là những thành ngữ ca ngợi vẻ
đẹp của người con gái; ta cũng nói: “月闭花羞” (hoa nhường nguyệt thẹn), “鱼沉雁落” (chim sa cá lặn). Những thành ngữ trên đều
sử dụng nhân cách hóa để biểu thị khoa trương.
Xét
các trường hợp sau: “披星戴月” (mang sao đội
nguyệt), “地老天荒” (đất cỗi trời hoang, chỉ thời
kì hoang sơ quá xa xôi). Ở đây, dùng thủ pháp vật cách hóa để biểu thị khoa
trương, lấy sự vật X nói thành sự vật Y.
Sử dụng
hiện tượng thiên nhiên, trời phật, thần thánh để khoa trương
(A) Trong thành ngữ tiếng Việt
Trong
văn hóa của người Việt, trong các thành ngữ, người ta rất hay sử dụng các hình
tượng Trời, Phật, và các hiện tượng
thiên nhiên để biểu thị khoa trương.
Trong
cuộc sống, người ta thường hay nói đến các hiện tượng thiên nhiên, thần thánh. Tín ngưỡng Viêt Nam có thờ
hiện tượng thiên nhiên, như núi đá, sấm chớp, cây cao, thờ trời thờ đất, thần
thánh, ma quái. Cho nên đề cập đến những gì to lớn, vĩ đại, sự việc gây ngạc nhiên, chúng ta thường đưa ra để so sánh
ví von, khoa trương.
Chẳng hạn : chuyện tày trời, tin sét đánh ngang
tai ; nổ như sấm; quỷ tha ma bắt; lấy
vải thưa che mắt thánh; khác nhau một trời một vực; công ơn trời biển; đòn trời
giáng; trời đánh thánh vật; trời đánh
không chết; dìm xuống đất đen; đến thánh cũng bó tay; ngồi như bụt mọc;
ngây như phỗng đá; ngáy như sấm.
(B) Trong thành ngữ tiếng Hán
Cũng
như người Việt, trong các thành ngữ, người Trung Quốc rất hay sử dụng các hình
tượng Trời, Phật, và các hiện tượng
thiên nhiên để biểu thị khoa trương.
Ví dụ:
天诛地灭 (trời tru đất diệt)
天旋地转 (trời xoay đất chuyển)
天网恢恢 (lưới trời lồng lộng)
天翻地覆 (trời rung đất chuyển)
天高地厚 (trời cao đất dày)
天不怕地不怕 (trời không sợ đất không sợ)
口佛心蛇 (khẩu phật tâm xà)
神通广大 (thần thông quảng đại)
神机妙算 (thần cơ diệu toán)
神差鬼使 (thần sai quỉ khiến)
伸出鬼没 (xuất quỷ nhập thần)
Kết luận
Thành
ngữ là tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa của nó thường
không thể giải thích được một cách đơn giản bằng nghĩa của các từ tạo nên nó.
Nó được hình thành và phát triển nhờ quá trình tích lũy lâu dài trong cuộc sống
của người Việt cũng như người Trung Quốc. Người Việt và người Trung Quốc rất
thích khoa trương. Điều đó có thể thấy trong kho tàng thành ngữ tiếng Việt và
tiếng Hán. Không thể tìm hiểu văn hóa Việt Nam và Trung Quốc mà không nghiên cứu
thành ngữ tiếng Việt và tiếng Hán. Không thể nghiên cứu tiếng Việt và tiếng Hán
mà bỏ qua kho tàng thành ngữ – một vốn
quý trong kho tàng tiếng Việt và tiếng Hán.
(Hết)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến (2006), Cơ sở Ngôn ngữ học và tiếng Việt, NXB Gíao Dục
2. Chu Xuân Diên, Đinh Gia Khánh (1972), Văn học dân gian, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp.
3.Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng
Việt hiện đại, NXB Đại học Quốc Gia HN.
4. Hoàng Văn Hành (2001), Thành ngữ học
tiếng Việt, NXB Khoa học Xã hội.
5. Đinh Trọng Lạc (2005), 99 phương tiện và biện pháp tu
từ tiếng Việt, NXB Giáo dục.
6.
Đinh Trọn g Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong cách học tiếng Việt, NXB
Giáo dục.
7. Hoàng Kim Ngọc (2009), So sánh & ẩn dụ trong ca dao trữ tình,
NXB Khoa học.
8. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ ca
dao dân ca, NXB Văn học.
9. Đào Thản (1990), Lối nói phóng đại trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn
ngữ.
10. Cù Đình
Tú (2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Giáo dục.
11.Viện Ngôn ngữ học (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
12. Nguyễn Như Ý (2002), Từ điển giải
thích thuật ngữ Ngôn ngữ học, NXB Gi áo dục.
NGUỒN TƯ LIỆU
TRÍCH DẪN
1. Vũ Ngọc Phan (2003), Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam, NXB Văn
học.
2. Đào Thản (2005), Ca dao hài hước, NXB Đà Nẵng.
NGUYỄN NGỌC KIÊN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét