Tác giả Nguyễn Kim Trì |
Đã đăng:
CHUYỆN
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT
1-
Tinh thần văn nghệ
Hồi cải cách ruộng đất, trên Thủy Nhai có hai mẹ con bà này, cô con gái
hay có cảm tình với cán bộ
đội cải cách ruộng đất, người ta gọi tắt là Đội. bà mẹ này lo lắm nhưng không
làm gì được, nhất đội nhì giời mà. Một hôm bà mẹ bắt được con gái chùm chín
chùm xanh với đội ở trong buồng. Chùm chín chùm xanh bây giờ gọi là tình yêu.
Tức quá, không làm gì được, bà quát con gái: Mày làm gì đấy? Con vá quần cho
đội. Sao lại phải vá? Chó nó cắn rách. Câu chuyện rồi cũng loang ra cả làng.
Một thời gian sau xuất hiện bài hát nhại lại bài hát trong đám cưới: Tay ngắt
bông hoa hồng, cây với cành cùng cao thấp thoáng, này cô em muôn vàn thân yêu
có sầu nhớ chi trong lòng…Nhại ra: Chó cắn rách quần, đội vào buồng cô em
lấy kim khâu quần…Đội điều tra, có người khai anh Chẩm dưới Xuân Hy dậy. Thế là
anh Chẩm bị bắt giam 6 tháng ở nhà bà Lép, sau đó giải lên giam ở nhà bà cụ Uấn
đội 10 bây giờ. Ông Chẩm có tinh thần văn nghệ cao, biết sáng tác nên phải đi
tù. Sau này ông làm cán bộ Ty văn hóa Hà Nam Ninh. ‘Anh Chẩm’ thanh niên đẹp
trai thông minh, nhanh nhẹn vui tính, đang tự nhiên bắt giam nên trong nhà giam
anh này bày nhiều giai thoại lắm.Trẻ con suốt ngày cứ quanh quẩn bên anh. Tiếc
thật, tôi như đội bắt giam cho vài năm nữa thì có phải có nhiều giai thoại hay
không, hậu thế có khối chuyện mà kể, viết thành sách được.
2- Phản động
Chuyện này của nhà tôi, ông trẻ em ông nội tôi hồi ấy còn
trẻ, dân chơi, ai lại mặc áo tay toang có túi viền vàng, tóc để gọng kính, như
vậy đích thị là phản động rồi, thế là bị đi tù ở nhà bà Lép đội 11 bây giờ 9
tháng. Tù bấy giờ người nhà phải nuôi cơm. Có lần chị em tôi đưa cơm xuống cho
ông là phản động thì sợ quá, không dám đến gần. Thời ấy nghiêm lắm, con gái mà
mặc áo hoa, đi guốc ra đường là tiểu tư sản hay mầm mống của tiểu tư sản cũng
bị tù như chơi.
3- Bù nhìn
Ông Hiểu, cụ còn nay phải hơn trăm tuổi,
người xóm Thọ Xuân. Ngày ấy cụ có tí gồ ở mé đường gieo vừng, cái giống vừng
này chim cu nó hay ăn lắm, moi sạch từng hột, thế là ông Hiểu phải làm cái bù
nhìn, thân bằng cây chuối, đội nón rách, vẽ mặt người, có chân tay giang ra
nghiêm chính, hình thù giống người để dọa chim. Thế là đội cải cách họp, cảnh
cáo vì có âm mưu phản động, làm như vậy nhân dân đi họp đêm tưởng là ma, sợ mà
không dám đi. Ông này suýt bị tù về bù nhìn, phá ngay, chim được bữa. Cũng nói
thêm một tí về đội, họ có quyền to lắm nhưng nhiều khi họ dùng cái quyền đó vào
sự không tốt, cứ xem bài thơ này thì rõ: Đội về đội dựa vào nông (nông đây là
nông dân),đội về đội tặng chống đồng em đeo, chống đồng ưu tiên dân nghèo, cô
nào đội quý được đeo chống đồng, gái ngoan có chống không chồng… xin giải
thích: Chống đồng là trống ếch làm bằng đồng nhưng không phải là trống ếch mà
cũng không phải là trống đồng, thế cơ chứ.
4- Xóa khẩu hiệu
Hồi cải cách ruộng đất lên cao trào thì
không khí rất căng thẳng, bị tù, bị bắn chết như chơi. Bấy giờ cả làng không có
mấy nhà xây có tường gạch, xóm Thọ Xuân có tường gạch nên được quét vôi để kẻ
khẩu hiệu, khẩu hiệu hồi ấy đơn giản lắm, như: Có khổ nói khổ nông dân vùng lên
hay Đả đảo địa chủ phong kiến, Địa chủ hết đời nông dân vạn đại…Bỗng một hôm
tin đồn động trời có phản động lấy cứt xóa khẩu hiệu, ai nghe thấy cũng rụng
rời chân tay, nếu bắt được phản động này thì rũ tù còn là phúc chứ bắn chết như
chơi. Bắn chết bây giờ gọi là tử hình. Đội cải cách họp toàn dân hàng tháng
truy kích địch tìm ra phản động xóa khẩu hiệu. Lúc ấy ai có máu mặt thì sợ quên
ăn quên ngủ, ví như ông nào mà biết gảy đàn an tô hay măng đô lin hay có vẻ ăn
chơi một tí là thuộc diện có máu mặt, đội phải để ý ngay. Phát hiện nhà ai mà
có quyển sách có chữ tây thì phản động rồi, chết là cái chắc. Không khí làng
xóm hết sức nặng nề nhưng mãi cũng không tìm ra phản động, chuyên lâu rồi cũng
qua đi. Mãi sau này yên ắng hết cải cách ruộng đất thì có người tự thú, là ông
Cản, ông này nay sống ở Sè gòng. Thì ra chuyện như vầy: Bà mẹ là bà cụ Uấn cũng
bị giam là đảng phái hay gì đấy, không có ruộng nên không gọi là địa chủ, thích
giam ai không đặt được tội thì gọi là đảng phái cũng được. Cụ Uấn bà trong
kháng chiến cũng có đóng góp, tinh thần cao nên sau này được Nhà nước tặng Bằng
Khen. Việc giam thì tôi biết, đội bắt ngồi ở gốc vối nhà ông Bảo, quay mặt lên
phía bắc để cho gió bấc thổi vào mặt cho rét, bắt dân quân coi, nhưng khi đội
về thì dân quân lại cho bà vào chuồng trấu bếp nhà ông Bảo ngồi, dân quân chỉ
canh đội nếu thấy đội phải báo động ngay cho bà chạy ra gốc vối ngồi quay mặt
lên phía bắc cho gió nó thổi vào mặt kẻo tội bênh đảng phái phản động của dân
quân thì cũng chết. Chỉ giam ban đêm thôi, ban ngày cho về. Ông Cản ở nhà một
mình, đói quá khoai lang sống xơi vào rồi uống nước lã bị té re, đêm khiếp ma
không dám ra ngoài nên ỉa vào lá chóc rồi vứt ra ngoài không may vào chân tường
mà trên có kẻ khẩu hiệu. Thế mà toàn xóm phải họp hàng tháng để truy kích phản
động, phản động cái hòn cứt té re.
CHUYỆN VỀ HỢP TÁC XÃ
1- Thơ
Khi mới đầu góp ruộng thành hợp tác xã
thì mọi người vui lắm, làn gió mới mà, làm được bao nhiêu thóc thì chia nhau
hết theo công điểm. Mỗi xóm 1 hợp tác xã. Các xóm hay tổ chức cuộc vui. Ngày ấy
sông trước chùa còn rộng lắm, gọi là vụng chùa, lại có cầu chùa to, hợp tác xã
Đại Nghĩa tổ chức cuộc vui, có leo cầu ngô, kéo co, thiếu nhi đánh trống ếch.
Leo cầu ngô là lấy một cây tre luồng, một đầu buộc vào dây thừng rồi treo ra
giữa sông còn đầu kia ở trong bờ. Cầu không có vin lắc lư, đầu ngoài sông có
treo nải chuối tây chín, bé tí. Ai leo ra được thì được vài quả là phần thưởng
còn không leo được thì văng tòm xuống nước, mọi người cười vỗ tay. Có nhiều trò
nên cũng có thơ: Xóm một hợp tác tò vui, bà Nhuế mặc váy cầm cờ, ông Ánh đuổi
vịt tật cò xóm xem. Đây là bài thơ phá đám, không hay.
2-
Cày 51
Hồi ấy Đảng ta có mang về xã một chiếc cày kiểu Trung quốc gọi là cày 51. Nó có
lưỡi khùng khèo nên nhiều người dè bỉu, với lại nói đến Trung quốc là nhiều
người không thích vì cái anh Trung quốc hay xâm lấn biển đông. Xã lập cuộc thi
với cày ta. Nhà cụ Đam xóm Hưng Đạo nuôi được con bò cũng mang ra kéo cày thi.
Vì người cày 51 chưa quen nên chậm và không thẳng, kết luận: Thua. Vậy nên chỗ
nào cũng bàn tán và có câu nói: Cày 51 thua bò ông Đam. Câu này nói nhiều
thành ra thành ngữ lúc bấy giờ. Có điều gì không bằng lòng lại mang câu
thành ngữ này ra nói: “cày 51 thua bò ông Đam”. Chuyện này hơi được, không hay
lắm.
3-
Nhà chăn nuôi
Ở
xã nào cũng có nhà chăn nuôi lợn của hợp tác, gọi là trại chăn nuôi. Nhà chăn
nuôi ở sau đền bây giờ, chỗ này có nhiều chuyện vui lắm, đây là nơi tụ tập đủ
mọi thứ, ai đi qua cũng ghé vào nghỉ chân, may ra có hóng hớt được chuyện gì
không, có khi lại còn được bát nước vối uống. Bấy giờ là thời chiến tranh, đàn
ông đi bộ đội cả nên ở nhà các bà cũng buồn. Không biết sao trên tường trại
chăn nuôi có khẩu hiệu viết bằng than: Xã ta đảng địt đảng, xã viên địt xã
viên. Khẩu hiệu không tốt này để lâu lắm mà không ai xóa, chắc ai xóa thì bị
nghi là thành phần này chăng. Rồi lâu lâu sau, ai lại chua xuống dưới 2
chữ: hoan hô.
4-
Cụ Nhiễu
Là một con người điển hình mẫu mực chịu khó, cụ có tuổi nhưng luôn được
tín nhiệm bầu coi kho hợp tác xã ngày mùa. Suốt ngày cụ quét dọn, thu xếp gọn
gàng, luôn chân luôn tay nên việc coi kho cụ có thâm niên liên tục mấy chục
năm, ai cũng quý, tin tưởng. Nửa đêm, đội kiểm tra của hợp tác đi kiểm tra các
kho thóc lúa, đến kho Nam Biên thấy cụ nằm chổng phao câu lên giời ngủ, gỗ kéo
khò khò. Cụ vẫn hay ngủ vậy nên bọn trộm cứ tưởng cụ thức nên chả mất gì bao
giờ. Đội kiểm tra báo động ném đất vào thúng, vào cân thóc cứ làm như có trộm
thật mà cụ chẳng nói gì. Tức quá, lấy hòn đất ném vào đít thì cụ cứ nằm nguyên
chổng hô hô như vây, bảo: Đứa nào muốn lấy gì thì cứ lấy, để yên cho ông ngủ,
mai đã có ban thanh ta nó ta. Mấy ông đoàn kiểm tra nhìn nhau.
5-
Ông Tứ công điều công khoán.
Ông cụ Vũ Tứ ở đội 8, có tay nghề thợ
mộc cao, làm nghề lâu năm, chuyên môn làm cho hợp tác xã. Mỗi lần gọi đi làm,
ông hỏi luôn: Công điều hay công khoán. Thì ông cứ đi làm cái đã. Không, tôi cứ
hỏi, công điều hay công khoán đã. Lúc ấy tinh thần xã hội chủ nghĩa làng ta còn
cao, hỏi như vậy là không được tế nhị lắm nên cứ chế nhạo ông là ‘ông công điều
công khoán’. Công điều thì làm bình thường, chất lượng thế nào cũng được, thù
lao cố định, công khoán thì làm theo sản phẩm làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu nên
người ta tích cực để có công cao. Làm gì cũng nên biết kết quả trước để phấn
đấu, đó là cái gốc của kinh tế thị trường, như sau này ruộng khoán 10, khoán
100 thì kinh tế lên ngay, dân no đủ, không như trước bảo cứ làm đi rồi són cho
tí công nào cũng phải chịu nên chất lượng sản phẩm rất phọt phẹt. Ngày ấy cũng
có ông quan to lắm cũng có tư duy như ông Tứ nhưng lại mang ra lãnh đạo nhân
dân nên bị chê cười, gần đây Nhà nước cũng làm phim mấy chục tập về ông quan
này. Ông Tứ có tư duy kinh tế thị trường trước khi Đảng và Nhà nước ta mở cửa
đón nền kinh tế thị trường như hôm nay là 24 năm 4 ngày.
6- Đéo thốc ngay vào làm cho chúng nó
nữa
Cụ phó Lẹp ở đội 11 có tay nghề thợ mộc
lâu năm, làm việc cẩn thận tỷ mỉ lắm nhưng hơi lâu. Lâu nay cụ không đi
làm cho ai nữa, có người hỏi dạo này cụ không đi làm cho ai nữa à ? Cụ tức bảo:
Ai muốn xấu thì tìm phó Lẹp, ai muốn đẹp thì tìm phó Bôn, việc gì nặng nhọc nó
mượn mình, việc sửa chữa bửn sỉu nó gọi đến tao còn làm mới, gỗ mới dễ làm thì
nó không gọi đến. Đéo thốc ngay vào làm cho nó nữa. Với tính cách ấy bảo sao cụ
không ghét, hóa ra ông Bôn cũng làm thợ mộc, có trình độ cao, biết làm các hàng
kiểu mới, tân thời nên cố kỉnh muốn đóng cái tủ lệch hay cái giường cưới cho
con thì cũng cố mượn được người tân tiến làm cho, không biết thế nào nhưng cũng
thích hơn, còn cụ Lẹp cẩn thận đấy nhưng tư duy tân thời sao bằng ông Bôn được.
Suy cho cùng thì cụ cũng có tuổi nên cũng muốn nghỉ ngơi là chính. Ngày nay
cũng vậy, mua chịu nó lên cầu trạm xá, còn có tiền là nó nhảy tốc lên Hành
Thiện ngay.
LÀNG XUÂN HY TA
Xuân
Hy, tên đẹp lắm đấy. Xuân là mùa xuân, đứng đầu trong năm “tứ thời xuân tại
thủ, ngũ phúc thọ vi tiên”. Hy là sáng, chữ Hán có bộ hỏa ở dưới, chữ Hy còn có
chữ nữa có bộ lễ bên cạnh chữ hỷ, chữ song hỷ mà đám cưới hay dùng, nghĩa là
vui mừng trong hoàn cảnh thiêng liêng. Cứ xem làng ta là làng cổ của vùng đồng
bằng bắc bộ hết sức điển hình, đầy đủ, không thiếu thứ gì. Này nhá: Về lịch sử
thành lập làng có ghi chép rõ ràng, có gốc tích. Đặc biệt quan hệ giữa tân ấp
với cựu quán thì cả nước Nam này không đâu có, xứng đáng được phong ‘Mỹ tục khả
phong’, mà cụ vua nhà Lê cũng đã khen rồi đấy thây, giấy vàng triện ngọc hẳn
hoi: ‘Nghi tuần cổ lệ, thiện tục khả tòng’, đáng cho thiên hạ theo. Nhớ về cội
nguồn biết ơn như vậy là nhất thế giới rồi, khỏi nói nhiều. Cứ xem như nước Mỹ
văn minh vậy, toàn người châu Âu cả, mới có 4 trăm năm mà chả biết gì về cựu
quán với tân ấp như chúng ta. Như cụ vua nhà Nguyễn cũng sáng suốt thật, sắc
phong cho làng ta: ‘Cổ thiện đương tuân’, mà ngày càng tuân thật. Lại xin nói
tiếp: Làng có chùa thờ Phật cầu phúc cầu an, tam quan, nhà Tổ, điện Mẫu nghiêm
chỉnh. Có đình trung ngày xưa hội họp (đình trung nay là nhà khách của chùa),
đình trung là nơi hội họp của các chức việc trong làng ngày xưa, việc làng cũng
ở đây, làm đình trước để có nơi dân làng họp bàn việc làm chùa, có câu: ‘làm đình
trước làm chùa sau’. Có đền thờ đức thành hoàng riêng, không như miền xứ đoài
xứ bắc thờ thần hoàng chung với đình trung. Đức thành hoàng là vua của làng,
chăm lo phù hộ mọi việc cho con dân trong làng, làng nào không có thành hoàng
thì phải trần trụi với ác quỷ vì không có vua thần thánh che chở, đức thành
hoàng càng linh thiêng thì càng có sức mạnh che chở cho con dân của làng. Các
dong đều có miếu thờ thần linh bản địa, tuy nay có bị phá đi ít nhiều nhưng nay
đang khôi phục dần. Làng có đền thờ đức Trần Hưng Đạo riêng ở xóm Hưng Đạo. Đặc
biệt có đền thờ tam thánh gọi là ‘Tam giáo đồng hành’ hay ‘tam giáo đồng
nguyên’ ở xóm Thọ Xuân. Đền thờ tam thánh thì ở Nam Định chỉ có vài chỗ, ở Huế thì
nhiều hơn. Nơi đây còn thờ thần Quan công, tướng võ đại tài, đại trung nghĩa,
thờ đức Khổng tử là nhà bác học, nhà giáo dục, tư tương thời xưa số 1 ở phương
đông, ngoài ra còn thờ các vị thần nhà trời phù hộ về việc học hành, chữa bệnh
mà ở đền Ngọc Sơn – Hà Nội có thờ. Tết giao thừa hàng năm các gia đình có con muốn
học hành tấn tới đỗ đạt đều đến đền Ngọc Sơn cầu xin thần Văn xương đế quân, có
người từ bên Pháp hàng năm đều gửi lễ về để tạ thần Văn xương lúc giao thừa vì
đã phù hộ cho họ và con cháu họ đỗ đạt. Làng Hành Thiện xưa có đền thờ Văn
xương riêng để phù trợ cho việc học hành nhưng nay hợp tác xã đã phá đi không
còn nữa. Đền tam thánh cũng đang thờ đức Văn xương đế quân. Trước đền thờ thành
hoàng còn có Văn chỉ thờ Khổng tử, sau này làm tạm nghĩa trang liệt sỹ nay đã
chuyển đi rồi, tôi muốn phục hồi lại cơ sở này lắm nhưng không biết bắt đầu từ
đâu, có ai để ý đến thì tốt lắm, cho tôi theo với. Làng xưa có nhiều cây cổ thụ
lắm, tôi còn nhớ ngang chùa ra có cây đa ba bồn người ôm không xuể ở mé sông,
gốc đa có quán bán hàng. Đầu xóm Hưng Đạo có cây đa to, trước đình trung có 2
cây bàng cổ, trước đền thành hoàng có cây gạo to ở mé sông, các dong ngõ đều có
bến nước trồng bàng hai bên thì nay đã phá hết cả, khác nhiều rồi. Rất
may còn cây gạo nổi tiếng trước chùa, tuổi gần bằng tuổi của làng, cây này mấy
năm trước bị sâu, suýt chết, cả làng lo lắng phải chữa mất khối tiền nay có
phần phục hồi tốt, cây này mà chết thì ối thằng khốn theo, mất chức mất quyền
mất tiền là cái chắc. Còn một cây đa nữa mà ít người để ý đến đó là cây
đa giữa đồng. Cây đa này được trồng vào đầu những năm 1950 lúc đó chỉ có phong
trào tập thể, phong trào bình công chấm điểm giúp đỡ lẫn nhau sau đó là tổ đổi
công, có Hội nông dân tập thể. Hội nông dân tập thể tổ chức trồng cây đa giữa
đồng để dân làm đồng có chỗ nghỉ chân trú nắng hay ăn cơm đưa đồng. Cơm đưa
đồng là cơm người nhà mang cho người làm ở ngoài đồng đến bữa không phải về nhà
ăn cơm, lúc đông tang thời vụ như cấy gặt hay người đi cày để tranh thủ làm
được nhiều việc. Nó có ý nghĩa lắm nhưng sau đó vào hợp tác xã thì không cần phải
tranh thủ vậy nữa, không ai ngồi ăn cơm trưa dưới gốc đa này nữa nên nó bị bỏ
quên, èo ọt rồi bị bão gẫy, nay thấy mọc lên cái chồi, đó cũng là sức sống của
lịch sử mong nó được ngày càng tốt tươi. Cây đa lịch sử này nó gắn liền với tổ
chức tập thể sơ khai của nông dân mà do đảng và cụ Hồ Chủ tịch chủ trương cũng
không thấy ở làng nào, nơi nào có…Làng mà không có công trình cổ kính, không có
tre, không có người già thì sao gọi là làng được. Làng ta có đủ mọi thứ, nhiều
danh nhân thời cổ thời nay, tướng tá, quan to ngang với tướng tá, đỗ đạt cũng
nhiều đấy. Tôi đi khắp đất nước này rồi, mấy chỗ không có bàn chân tôi nhưng
không thấy có nơi nào đầy đủ như làng Xuân Hy ta, đây là món quà quý giá mà đôi
khi ta không biết nhận, không thấy được mà tự hào, nhâm nhi cái mà ta có người
khác thì không mới thú vị. Đền đài đầy đủ để cầu tài cầu lộc, cầu bầu phù hộ
che chở… đành rằng có người không cần mà bước qua, đáng tiếc. Có lần kiếm được
chén rượu uống say, nằm khểnh nghĩ về làng, sướng quá tự nhiên hét lên: Địt có
làng nào oách bằng làng ông, làng tao oai nhất nước.
ĐÓI RỒI, NGHỈ ĂN CƠM RỒI VIẾT TIẾP...
Vừa
giở ra viết thì có ông bạn hàng xóm cùng đồng hương vào chơi, nhìn
thấy bảo: Ông chỉ viết nhăng
nhít, cười bào: Thôi thì mua vui cũng được một vài trống canh, còn hơn có ông
còn địt được trống canh nào. Ông bạn bảo: Thì ông cứ viết đi. Cười. Ông Hải
bảo: Chú rỗi viết chuyện về làng Xuân Hy đi. Tôi bảo viết ai đọc. Tao đọc, mình
tao đọc cũng được, hà hà, khối chuyện hay đấy, viết hay tao thưởng cho chai
rượu thuốc ngâm rau bà đẻ 10 năm. Thế là tôi viết, hứng lên viết một mạch bằng
máy vi tính, tôi đánh máy chữ tốc ký nhanh như nói, không sửa, cũng không đọc
lại, in ra ai đọc thì tôi cám ơn, cái chính là cố kiếm lấy chai rượu thuốc ngâm
rau bà đẻ 10 năm, ông này có nhiều loại rượu quái gở lắm. Rắn rết giun đỉa rễ
cỏ búp cây …toàn thứ lấy từ Xuân Hy lên, sao vàng hạ thổ, tẩm ướp công phu trên
trăm thứ ngâm một chum cũng thành rượu, không đặt được tên. Uống vào thì chân
tóc cứ dật dật, ngón chân ngón tay nhảy tưng tưng. Tôi bảo phải đặt cho nó cái
tên chứ. Ông Hải bảo: Tao định đặt tên cho nó là X.H.C.N cho nó tây mà tây cũng
chẳng hiểu, hà hà, ngồi uống một mình thì bờ tre gốc dứa ở Xuân Hy hiện lên
hết, uống để chống nhớ nhà mà hà, hà. Tôi bảo bây giờ có ai phải xếp hàng cả
ngày như thời bao cấp nữa đâu mà đặt tên vậy. Ông Hải bảo: Gọi là Xuân Hy có
nhớ hay gì gì cũng được. Ông Hải lại cười hà hà… Đúng là rượu của bố này uống
vào là biết ngay, tôi nghi hay là bố ấy pha trộm rượu khác vào nữa vì tôi phát
hiện thấy có bình ngâm pín hổ ở bên cạnh, cả cụm, dễ đến 3 cân…Tôi viết hơn một
ngày, nếu có ai thưởng tôi viết nữa, phải viết một tháng mới tàm tạm đủ chuyện
về làng Xuân Hy, chai rượu thuốc viết vậy cũng đủ rồi. Chuyện ma làng ta thì
cực hay, nhất lả các ông già ngày xưa kể lại, lắm ma lắm, sờ chỗ nào cũng thấy
ma, tôi xin kể thử một chuyện vừa nghĩ đến xem có được không nhá, chuyện như
vầy: Ở khu đầu cổng giữa xóm Đoàn Kết bây giờ, có nhà ông gì tôi quên tên rồi,
nhà cũng nghèo, mà ngày xưa thì nhà ai mà chả nghèo. Ông chồng đi làm mướn bên
Liên Thủy, tối về bà vợ bảo: Có tí cơm nguội để phần ông ở trong chạn ấy, lấy
mà ăn. Trời tối nhá nhem, lại chả có giăng đèn gì. Lại càng không có đèn điện
nê ông như bây giờ, bật lên tháng tứng là ma nó giật mình chạy hết. Ông này
mang nồi ra vét, cũng là nồi đất để thổi cơm, không có xoong nhôm như bây giờ.
Ông có cái thú vét nhặt từng hột ăn mới thích, cũng là để kéo dài bữa ăn ra cho
oai. Vừa ăn ông vừa lầm bầm: Thao mình không ăn hết đi, bảo để phần chồng mấy
hột cơm mà cứ chồng một miếng vợ lại thò tay vét một miếng. Bà vợ nằm võng bế
con ở ngoài hè bảo: Ơ hay cái ông thổ tả này, tôi nằm ở đây cơ mà. Ông kêu lên,
đéo mẹ nó, ma rồi. Lần nào thò tay vào nồi cũng khùa phải tay ma. Tuy nhiều ma
vậy nhưng toàn ma tốt, ma không chửi nhau với người, không tranh giành kiện
tụng gì với người, ma ăn xong cỗ vẫn còn nguyên, nhiều khi còn phù hộ người,
chơi với ma cũng vui, ma ngày xưa tốt hơn người…
Tháng 6 ta năm 1014
Ký tên người viết: TRÌ
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét