Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên |
Nguyễn
Ngọc Kiên
2.
Khoa trương ở cấp độ câu
Bổ
ngữ trình độ trong tiếng Hán là loại bổ ngữ nói lên mức độ đạt
được của hành vi, động tác hoặc cảm giác, trạng thái . Ví dụ:
(33)
我们指指点点地议论着那头棕色的疯骡。它瘦骨伶仃,眼睛上方有两个深得可放进一枚鸡卵的凹陷。《蛙》
(Chúng
tôi vẫn không ngừng bàn tán về con la điên có bộ lông màu tro ấy. Nó
hơi gầy, để lộ cả xương sườn ra ngoài, bên cạnh hai mắt có hai hốc
lõm rất sâu đến nỗi có thể nhét cả
một quả trứng gà vào đấy.) (Ếch)
Ở
đây, “可放进一枚鸡卵” (có thể nhét cả một quả
trứng gà vào) là bổ ngữ trình độ và nó còn làm định ngữ cho “凹陷” (hốc mắt).
Trên thực tế, bổ ngữ trình độ không phải là loại bổ ngữ chuyên dụng để
biểu thị khoa trương; tuy nhiên, trong lối nói khoa trương có sự tham gia
của bổ ngữ trình độ hiệu quả sẽ tăng lên rõ rệt. Trong câu thuộc loại
này vị ngữ (có vị trí đứng trước bổ ngữ) thường do các động từ biểu
thị tình cảm, cảm giác, hoạt động tâm lý, trạng thái tâm lý hoặc
tính từ đảm nhiệm. Dưới đây là những trường hợp cụ thể.
+ Vị
ngữ trong câu là động từ
Ví
dụ:
(34) 杜大爷背靠着铁门,浑身哆嗦,哆嗦得很厉害,哆嗦得铁门都哆嗦。 《牛》
(Ông
Đỗ vẫn ngồi im, dựa lưng vào cổng sắt, toàn thân đang run, không phải
run nhẹ mà run lên bần bật, run đến nỗi cái cổng bằng sắt cũng run theo.) (Trâu thiến)
+
Vị ngữ trong câu là tính từ
Ví
dụ:
(35)
在黑屋子里关了不知道几天几夜,把我们挪到一 个独立小院里,院子里有一棵紫丁香,那个香啊,熏得我头晕。《牛》
(…trước sân có một cây tử đinh hương, hoa của nó thơm
đến độ cô muốn ngất xỉu.) (Trâu thiến)
Trong các ví dụ trên, vị ngữ
trong câu đều do các tính từ 熏 (nồng) và 香(thơm) đảm nhiệm.
Căn cứ vào ngữ liệu,
có thể chia bổ ngữ trình độ biểu thị khoa trương trong văn Mạc Ngôn thành
mấy loại sau:
(a) Sau 得là một ngữ
động từ hoặc cụm chủ vị
(36) 我们都是七八岁孩子,怎么还可能吃奶?即便我们还吃奶,但我们的母亲, 都饿得半死,
乳房紧贴在肋骨上, 哪里有奶 可吃?《蛙》
(Chúng tôi đều là những đứa trẻ
từ bảy đến tám tuổi, lẽ nào còn bú mẹ? Cho dù chúng tôi còn muốn
bú đi chăng nữa, thì mẹ chúng tôi đang đói đến độ dở sống dở chết, vú dính vào xương, lấy đâu ra sữa
để chúng tôi bú.) (Ếch)
(37) 那时候,马桑镇的鱼市有三里长,槐花开放时,正是鳞刀鱼上市的季节,街两边白晃晃的,耀得人不敢睁眼。《蛙》
(Ngày ấy, chợ cá ở thị trấn Mã Tang
dài đến hai cây số. Đúng mùa hoa hòe nở là cá hố biển tràn ngập
chợ, hai bên đường trắng loa lóa, sáng lóa đến độ người đi đường không dám mở mắt.) (Ếch)
Trong
ví dụ trên, 半死 (dở chết), 乳房紧贴在肋骨上(vú dính vào xương), 人不敢睁眼 (người không dám mở mắt) là ngữ động từ và kết cấu chủ vị làm bổ ngữ
trình độ trong câu.
(b)
Sau 得là
một ngữ cố định / thành ngữ
Trong
loại này, bổ ngữ do các ngữ cố định hoặc các thành ngữ đảm nhiệm. Ví dụ:
(38) 王肝更好王肝更好,地道一个农
民,却长了一个小资产阶级的脑袋,被那满脸粉刺的小狮子迷得魂不附体,基本上也是神经病。(莫言《蛙》)
(Dù sao Vương Can cũng là một nông
dân nhưng đầu óc lại mang đầu óc của giai cấp tiểu tư sản, bị cô
“Tiểu sư tử” có cái mặt đầy mụn làm cho thất điên bát đảo, hồn không nhập xác, về cơ bản là bệnh
thần kinh.) (Ếch)
Trong
ví dụ trên, các từ ngữ 魂不附体 (hồn không nhập xác) là thành ngữ làm bổ ngữ.
2.2.
Sử dụng cấu trúc cường điệu (nhấn mạnh) “连
… 也 / 都 …” (ngay cả… cũng…) biểu thị khoa
trương
Trong tiếng Hán, người
ta thường dùng cấu trúc “连…也/都...”
để nhấn mạnh một hành vi, động tác hoặc một đối tượng nào đó. Bộ
phận đặt giữa “连…也/都...” có thể là danh
từ (ngữ danh từ), động từ (ngữ động từ) hoặc đại từ tạo thành
đoản ngữ giới tân. Chức năng của 连 (ngay cả) là ngầm đưa ra tiêu điểm so sánh của chủ
đề. Tân ngữ của连 (ngay cả), tức là tiêu điểm so sánh, nêu một ví dụ nổi
bật, chẳng hạn như tốt nhất, xấu nhất, to nhất, nhỏ nhất, cần thiết
nhất…, sau đó nói rõ một tình huống hoặc một kết luận thông thường.
Hay nói cách khác là đưa ra một tình huống cực đoan nhất để nói rõ
một sự thực, một lí lẽ, một tình huống. Cái ý ngầm so sánh của
cấu trúc này là: đối tượng được nhấn mạnh mà còn như vậy thì
những cái khác đừng nói làm gì.
(1) Thành
phần sau 连 là chủ ngữ:
Trong câu, khi cần nhấn
mạnh chủ ngữ, 连 (ngay cả) đặt trước chủ ngữ. Ví dụ:
(39)
那时候我正处在爱热闹的青春前期,连村子里的狗都讨厌我。《牛》
(Thời ấy tôi còn là một
đứa trẻ, chỉ thích xem những trò vui, thích tham gia vào những chuyện
ồn ào, ngay cả chó trong thôn cũng
chẳng ưa gì tôi.) (Trâu thiến)
(40) 我的声音细得像蚊子嗡嗡一样,连我自己都听不清楚。 《美人冰雪》
(Tiếng tôi nhỏ đến mức như tiếng muỗi
vo ve, ngay cả đến tôi cũng nghe không
rõ.) (Mĩ nhân băng tuyết)
Trong
(40) và (41), 连 (ngay cả) nhấn
mạnh 村子里的狗 (chó trong thôn) và 我自己 (bản thân tôi)
là chủ ngữ trong câu.
(2) Thành phần sau 连 là tân ngữ:
Trong
trường hợp nhấn mạnh tân ngữ, 连được đặt sau
chủ ngữ, trước động từ vị ngữ. Ví dụ:
(41) 于是大喇叭里不停地广播,让各村的 贫下中农提高警惕,防止阶级敌人的破坏活动。各个村就把所有的“四类分子”关到一起看守起来,连大小便都有武装民兵跟随。 《牛》
(Loa
phóng thanh trong trong toàn bộ công xã mở hết công suất suốt ngày đêm chỉ phát đi một nội dung duy
nhất là yêu cầu bần hạ trung nông khắp các thôn trong toàn công xã
phải đề cao âm mưu chống phá cách mạng của kẻ địch, yêu cầu các thôn
phải quản thúc thật chặt bốn thành phần phản động trong thôn mình, ngay cả chuyện đi đái đi ỉa cũng phải
có dân dân quân đi kèm.) (Trâu thiến)
(42) 我知道陈鼻这样说是出于对我的嫉妒,他生在我们 村长在我们村,连条苏联狗都没见着,如何知道苏联飞行员比中国飞行员技术好呢? 《牛》
(Tôi biết nó nói như vậy là vì
nó đang đố kị với tôi. Nó sinh trong thôn, lớn lên trong thôn, ngay cả một con chó Liên Xô cũng chưa
gặp thì làm thế nào mà biết được kĩ thuật của phi công Liên Xô
hơn phi công Trung Quốc?) (Trâu thiến)
(43)
麻叔说:“看刚才那个吹劲儿,好像连老虎都能骟了,弄了半天连个小公牛都治不了!” 《牛》
(Nghe những lời ông nói, tôi đã cứ
tưởng ngay cả hổ ông cũng thiến
được, thế mà ngay cả một con
trâu bé tẹo này mà ông cũng bó tay.!) (Trâu thiến)
Trong
các ví dụ trên “大小便” (đại
tiểu tiện), “条苏联狗” (con chó Liên
Xô), “老虎”
(con hổ) là các tân ngữ trong câu và
đều đứng sau 连
.
(3)
Mấy điểm cần chú ý
-
Trong cấu trúc này ta có thể dùng 就是 để thay thế cho 连 với ý nghĩa 即使 (dù/ dù rằng/ dù… có đi chăng nữa), 哪怕 (dù là/ dẫu là/ dù cho), biểu thị giả thiết hoặc nhượng bộ.
就是có
thể kết hợp với 别说đứng trước và phó từ 也đứng sau để tạo thành cấu trúc:
“别说… 就是 …也…” (đừng nói… mà
/ ngay cả… cũng… )
Mạc
Ngôn cũng sử dụng nhiều cấu trúc này để biểu thị khoa trương. Ví dụ:
(44)
我说,你 回来得晚了,这会儿,别说六个牛蛋子,就是六十个牛蛋子也进了队长的肚子了! 《牛》
(Tôi
bảo, mày về đây thì đã muộn, đừng
nói sáu hòn dái mà sáu mươi hòn dái cũng đã chui tọt vào bụng của
đội trưởng Quản rồi.) (Trâu thiến)
(45)
您老人家也不想想,麻叔像只饿狼,老董同志像只猛虎,别说六只牛蛋子,就是六十只牛蛋子,也不够他们吃的。 《牛》
(Sao
ông không nghĩ mà xem, chú Mặt Rỗ của tôi có khác nào một con sói
đói, lão đồng chí Đổng cũng chẳng khác nào một con hổ dữ, đừng nói sáu hòn dái mà ngay cả sáu
mươi hòn dái cũng chưa chắc đã lấp đầy cái bụng không đáy của họ
đâu.) (Trâu thiến)
(46)
别说是一头牛,就是一头大象、一只老虎,我今日也要做了它。”
(Đừng nói là một con
trâu, mà ngay cả một con voi, con
hổ, bữa nay tôi cũng phải xử lí nó.) (Trâu thiến)
Trong
(46), “它”
là đồng vị ngữ của “一头大象 / 一只老虎” (một con voi/
một con hổ) và làm tân ngữ trong câu.
Trong
nhiều trường hợp, 连 có thể lược bỏ nhưng không thể lược bỏ phó từ都/ 也. Ví dụ:
(47)
“退回20年去,别说它娘的几只臊乎乎的牛蛋子,(连) 成盘的肥猪肉摆在我的面前,我也不会馋!” 《牛》
(Lùi lại hai mươi năm trước, đừng nói là mấy hòn dái trâu tanh
tưởi mà ngay cả một mâm thịt lợn
thơm lừng đặt ở trước mặt, tao cũng không thèm liếc mắt.) (Trâu thiến)
(48) 袁腮你这张嘴呦,王胆细声细气地说,(连) 死人也能让你说得跳迪斯科。 《牛》
(Cậu câm bớt cái miệng đi! Nghe
cái miệng cậu nói thì người ở
dưới mồ cũng bật dậy mà nhảy disco thôi!) (Trâu thiến)
Trong
các ví dụ trên, 连 đã bị lược bỏ.
2.3. Sử dụng câu phức điều kiện (条件复句) biểu
thị khoa trương
Câu
phức điều kiện không phải là loại câu chuyên biệt để biểu thị khoa trương.
Nhưng trong lối nói khoa trương có thể sử dụng câu phức điều kiện như một
phương thức biểu đạt hữu hiệu. Trong loại câu này, phân câu phụ biểu thị điều
kiện, phân câu chính biểu thị kết quả.
Biểu thức: 只要 … ,就… (chỉ cần ….thì…..)
Trong
loại câu này, 只要 (chỉ cần) chỉ ra điều kiện cần và đủ, chỉ có điều kiện
như vậy thì mới có kết quả hoặc hậu quả nêu trong câu chính; trong phân câu
chính thường có sự tham gia của phó từ 就 (thì). Ý nghĩa khoa trương
của câu nằm ở cả hai vế. Ví dụ:
(49) 我的心被人用刀子戳伤过,只要一干活,心上的疤痕就会崩 裂,那样我就会七窍流血而死。《蛙》
(Tim tôi đã bị người ta dùng dao
đâm xuyên qua, chỉ cần làm một việc nhẹ, vết thương trong tim sẽ vỡ
ra, thế là tôi sẽ hộc máu mà chết)
(Ếch)
(50) 我立刻想起奶奶说过的话,她说,人只要感到骨头缝里发冷就 隔着阴曹地府不远了。《牛》
(Tôi
thường nghĩ đến những lời bà tôi thường nói rằng, ai mà cảm thấy
những khớp xương của mình lạnh cóng là người ấy chỉ còn cách cổng
vào âm tào địa phủ một vài bước chân nữa mà thôi.) (Trâu thiến)
(51) 他十条狗命也不值小珍子一条命,只要小珍子平安无事,要我身上的肉我也割。《枯河》
(Mười
cái mạng chó của nó cũng không đáng giá bằng một mạng của cô nhà, chỉ cần cô nhà bình an vô sự thì nếu có cần thịt trên người tôi cũng
cắt.) (Sông cạn)
Lưu
ý: Một số trường hợp只要 trong phân câu phụ có thể lược bỏ. Ví dụ:
(52)
你一笑,我就感到头晕目眩,恨 不得跪在地上,抱住你的双腿,仰望你的笑脸。。。《蛙》
(Chỉ
cần em cười là tôi đã cảm thấy đầu óc mình choáng váng, tiếc là
không được quì xuống đất để ôm lấy chân em, ngước lên và nhìn khuôn
mặt đang cười của em.) (Ếch)
Trong
câu phức giả thiết nói chung, phân câu phụ nêu ra một giả thiết, phân câu chính
nói rõ trong tình huống như thế này thì kết quả mới xuất hiện. Trong khẩu ngữ
thường có các từ nối.
Biểu thức: 要(是)…,(就)… (nếu … thì…)
如 果… ,(就)… (nếu… thì…)
Ví
dụ:
(53) 从那一刻起,直到现在,直至永远,我这颗心,就全部属于你了。你如果想吃我的心,我就会毫不犹豫 地扒给你。《蛙》
(Từ đó cho đến bây giờ và có lẽ
là vĩnh viễn, trái tim tôi đã hoàn toàn thuộc về em. Nếu như em muốn nhai muốn nuốt nó,
tôi sẵn sàng móc nó ra mà không
có chút do dự nào.) (Ếch)
(54) 最亲爱的,如果我为你吐血而死,你如果能开恩,到我坟头前看一眼,我 就心满意足了。 《蛙》
(Em yêu, nếu tôi vì em hộc máu
chết thì em có thể khai ân đến phần mộ tôi nhìn thoáng qua thôi. Như
thế là tôi đã toại nguyện lắm rồi.)
(Ếch)
(55) 五十岁女人的脖子如果不像一截臃肿的大肠便像一段腐朽的枯木。《丰乳肥臀》
(Nói đàn bà năm mươi tuổi cái cổ nếu
không bùng nhùng như một khúc dồi thì cũng khô như một củi mục.) (Báu
vật của đời)
Cần
lưu ý là, nếu sau “要是” là động từ “是” thì một chữ “是” phải được lược bỏ theo qui luật tiết kiệm của ngôn
ngữ. Ví dụ:
(56)
麻婶道:“鸡蛋?我要是母鸡,就给你们现下几个。” 《牛》
(Trứng à? Nếu tôi là gà
mái , tôi sẽ cố rặn ra cho ông mấy quả ngay bây giờ – Thím Quản cong
cớn.) (Trâu thiến)
Trong vế phụ, từ nối “要是”/ “如 果” (nếu/ nếu
như) có thể lược bỏ. Ví dụ:
(57)
无论如何, 你娘不能再生了, 再生她的*就拖到地上了。《蛙》
(Cho dù thế nào thì mẹ cháu cũng
không thể sinh nở được nữa, sinh nữa thì e là tử cung của bà ấy sẽ tòi
ra ngoài luôn đấy.) (Ếch)
Trong
nhiều trường hợp, vế chính cũng có thể lược bỏ từ nối 就 (thì) và thay bằng động từ năng nguyện. Ví dụ:
(58)
我要娶她做老婆, 弄不好会被她打死。《牛》
(Tôi
mà cưới cô ta làm vợ, nếu làm không tốt vai trò của người chồng
chắc là tôi bị cô ta đánh chết.) (Trâu thiến)
Nói
chung, trong loại câu phức giả thiết biểu thị khoa trương, hai vế được nói tới
là hai việc tương quan, nếu thừa nhận sự việc nói tới ở vế trước là xảy ra thì
cũng thừa nhận sự việc nói ở vế sau sẽ xảy ra. Như vậy, ý nghĩa khoa trương nằm
ở vế chính hoặc cả hai vế. Ví dụ:
(59) 计划 生育不搞不行,如果放开了生,一年就是三千万,十年就是三个亿,再过五十年,地球都要被中国人给压偏啦。 《蛙》
(Sinh đẻ có kế hoạch không thể không
thực hiện, cứ đẻ thoái mái mỗi năm tăng ba mươi triệu nhân khẩu, mười
năm là ba trăm triệu, cứ thế năm mươi năm nữa trái đất này bị người
Trung Quốc đè cho biến dạng méo mó mất thôi.) (Ếch)
(60) 胎儿的性别, 怎么 能转换呢?我如果有这神通, 早就得了诺贝尔医学奖了是不是?《蛙》
(Giới tính của thai nhi làm sao có thể
thay đổi được? Nếu ta có phép thần thông như vậy e rằng ta đã nhận
giải Nobel y học từ lâu rồi!) (Ếch)
Trong trường hợp mệnh đề phụ
đã được đề cập tới, có thể dùng “否则” (bằng không /
nếu không thì) để thay thế cho mệnh đề phụ biểu thị ý nghĩa nếu không như vậy thì. Ví dụ:
(61) 中队长说,也幸亏了他这本日记,才让你姑姑得到了解脱, 否则,她就是跳进黄河也洗不清楚了。《蛙》)
(Trung đội trưởng nói: - May mà có
cuốn nhật kí này nên cô của cháu mới được giải cứu. Nếu không cô ấy
có nhảy xuống Hoàng Hà cũng không tẩy hết được vết nhơ!) (Ếch)
Nhân
cách hóa là một biện pháp tu từ lấy vật bao gồm vật thể, động vật, tư tưởng hoặc
khái niệm trừu tượng làm cho chúng có diện mạo, cá tính, tính cách, hoặc tình cảm.
Nhân
cách hóa là một biến thể của ẩn dụ, trong đó người ta lấy những
từ ngữ biểu thị thuộc tính, dấu hiệu của con người để biểu thị
thuộc tính, dấu hiệu không phải con người, nhằm làm cho đối tượng
được miêu tả trở nên gần gũi dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người
nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư thái độ của mình. Nhân cách
hoá biểu thị khoa trương của Mạc Ngôn có mấy loại chính sau:
(a) Nhân cách hóa động vật, thực vật
Là
biến động thực vật cũng có tâm tư tình cảm như con người. Ví dụ:
(62) 鱼儿欢快又感动地啄着你的乳头,你的双乳照亮了幽暗的水面。《丰乳肥臀》
(Đàn cá nhỏ vui vẻ và cảm động
đụng vào vú chị. Hai gò vú làm sáng bừng mặt nước.) (Báu vật của đời)
(b) Nhân cách hóa sự vật. Là biến sự vật, những vật vô tri vô giác cũng có tâm
tư tình cảm như con người. Ví dụ:
(63) 老金终于筋疲力尽地被他摆平了, 他不顾一切地把头扎到她的怀里, 深深地把 她的乳头吸进口腔, 那股贪婪的劲头儿, 似乎要把她的整个乳房生吞掉一样。《丰乳肥臀》
(Lão
Kim cuối cùng cũng kiệt sức …, cái vẻ tham lam ấy dường như muốn nuốt chửng cả
bộ ngực của cô.) (Báu vật của đời)
(64) 他看到张牙舞爪的大栏市正像个恶性肿瘤一样迅速扩张着,一栋栋霸道蛮横的建筑物疯狂地吞噬着村庄和耕地。《丰乳肥臀》
(Anh thấy thành phố Đại Lan giơ nanh múa
vuốt, phát triển với tốc độ ung thư ác tính. Những ngôi nhà cao tầng
ngỗ ngược, điên cuồng nuốt chửng thôn xóm và đất trồng trọt.) (Báu vật của đời)
(Còn nữa)
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hữu Đạt (2001), Phong cách học tiếng
Việt hiện đại, NXB ĐH Quốc Gia HN.
2. Đào Thản
(1990), Lối nói phóng đại trong tiếng Việt, Tạp chí Ngôn ngữ.
3. Cù Đình Tú (2007), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt,
NXB Giáo dục.
4. Viện Ngôn ngữ
học (1997), Từ điển tiếng Việt, NXB Đà Nẵng.
NGUỒN TƯ LIỆU
TRÍCH DẪN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét