Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên |
1) Khái niệm về văn hóa
Khái
niệm văn hóa là một vấn đề phức tạp. Theo các số liệu thống kê về định nghĩa
văn hoá, hiện có ý kiến cho là có hơn một trăm định nghĩa văn hoá, thậm chí có
số liệu cho rằng có khoảng hơn 200 định nghĩa về văn hoá, theo UNESCO thì đã có
đến 256 định nghĩa về văn hoá. Hội nghị
quốc tế về văn hóa ở Mêhicô (1982) để bắt đầu thập kỷ văn hoá UNESCO, đã thống
nhất đưa ra một khái niệm về văn hoá như sau:
“Trong
ý nghĩa rộng nhất, văn hóa là tổng thể những nét riêng biệt về tinh thần và vật
chất, trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm
người trong xã hội. Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống,
những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và
tín ngưỡng”.
Năm
2002, UNESCO
đã đưa ra định nghĩa về văn hóa
như sau: “Văn hóa nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc cảm của một xã hội
hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống
giá trị, truyền thống và
đức tin.”
Theo
quan niệm của chúng tôi, văn hoá là những sản phẩm vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo ra, mang theo những đặc điểm, dấu ấn đại diện cho một dân
tộc, làm cho dân tộc này khác với các dân tộc khác.
2) Mối quan hệ giữa văn hóa và
ngôn ngữ
Ngôn
ngữ là công cụ của giao tiếp, đựơc xem như một yếu tố hay bộ phận hữu cơ của
văn hoá, là công cụ chuyển tải văn hoá quan trọng nhất. Edward Sapir nói rằng: “Phía sau ngôn ngữ luôn ẩn chứa một nền văn
hoá, ngôn ngữ luôn tồn tại không thể tách rời khỏi văn hoá. Cái được gọi là văn
hoá chính là sự tổng hoà các tập quán và tín ngưỡng xã hội được lưu truyền lại”
W.
Humboldt, nhà văn hoá Đức cũng đã nhận định: “Ngôn ngữ là linh hồn của một dân tộc, nhìn vào đó ta có thể thấy nó
phản ánh rõ hơn hết tâm hồn và tính cách con người và những đặc trưng văn hoá
cơ bản của nền văn hoá đó” [dẫn theo La Thường Bồi - 2004, 69p].
Ngôn
ngữ và văn hóa gắn bó chặt chẽ với nhau, nhưng thông thường sự tồn tại của nền
văn hoá được quyết định bởi ngôn ngữ, nhưng chính ngôn ngữ lại là nhân tố độc
lập của nền văn hoá dân tộc, là một thành tố của nền văn hoá tinh thần, ngôn
ngữ giữ vị trí đặc biệt trong nó.
3)
Dấu ấn văn hóa trong lời nói khoa trương của Mạc Ngôn
Ngôn ngữ ngoài chức năng giao tiếp và là
công cụ của tư duy, nó còn là phương tiện để lưu giữ những giá trị văn hóa – lịch
sử và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Lối nói khoa trương là một thủ
pháp tu từ của một ngôn ngữ nên cũng không nằm ngoài qui luật đó. Chẳng hạn,
trong “Trâu thiến”, Mạc Ngôn viết:
(48) 当时可没想到是食物中毒,自打盘古开天地,三皇五帝到如今,我们那儿还没听说食物还能中毒。《蛙》
(Nói
một cách thực lòng, lúc ấy mọi người không hề nghĩ đến khái niệm
ngộ độc thức ăn. Từ khi Bàn Cổ khai thiên lập địa, trải qua Tam Hoàng
Ngũ Đế cho đến nay, đây là lần đầu tiên chúng tôi mới biết là ăn
uống có thể bị ngộ độc.)
(Ếch)
Ở
đây, tác giả đã sử dụng các nhân vật trong truyền thuyết và trong lịch sử để
khoa trương. Theo truyền thuyết, Bàn Cổ được thai nghén trong vòng 18.000 năm
và là người khai thiên lập địa, sáng tạo ra thế giới. Còn Tam Hoàng Ngũ Đế đều
là những nhân vật có thật trong lịch sử Trung Hoa. Thực ra, đoạn văn đã sử dụng
khoa trương để nhấn mạnh ý, từ thuở cha sinh mẹ đẻ tới giờ chúng tôi mới biết
là ăn uống có thể bị ngộ độc.
Một ví dụ khác trong tiểu
thuyết “Ếch”:
(49)
但她在王肝眼里是天下第一美人,说文雅点,这叫 情人眼里出西施;说粗俗点,这叫王八瞅绿豆,看对眼了。《蛙》
(Nhưng
trong mắt Vương Can, “Tiểu sư tử” lại là đệ nhất mĩ nhân trên thế gian
này, nói văn vẻ một tí thì “trong mắt người đang yêu, em bỗng hóa Tây
Thi”.)
(Ếch)
Ở
đây, tác giả đã so sánh “Tiểu sư tử” với một trong “tứ đại mĩ nhân” trong lịch
sử Trung Hoa.
(50) 真正的大能人在这里呢,陈鼻指指袁腮,说:这人,上知天文,下知地理,五百年前的事他全知道,五百年后的事他知道一半。《蛙》
(Người bản lĩnh chân chính đang
có mặt ở đây – Trần Tị chỉ vào , Viên Tai nói: – Người này trên thông
thiên văn, dưới tường địa lí, chuyện năm trăm năm trước thuộc như đường chỉ trong lòng bàn tay, chuyện năm trăm năm
sau biết một nửa.)
(Ếch)
Câu
nói của Trần Tị khen Viên Tai khiến ta liên tưởng tới nhân vật Khổng Minh trong
“Tam quốc diễn nghĩa” một nhân vật kiệt xuất về các lĩnh vực quân sự, chính trị,
ngoại giao, được cho là trên thông thiên văn, dưới tường địa lí, giữa hiểu lòng
người. Không những thế, đối với những người am hiểu văn hóa Trung Hoa, chỉ
cần nói đến “năm trăm năm” là họ nghĩ ngay đến hình ảnh Tề Thiên Đại Thánh từng
tu luyện năm trăm năm ở Hoa Qủa Sơn Thủy Liêm Động, thông thạo bảy hai phép thần
thông, phò tá Đường Tăng đi lấy kinh trong tiểu thuyết cổ điển “Tây du kí” của
Ngô Thừa Ân.
Dấu
ấn văn hóa còn được thể hiện trong khoa trương của Mạc Ngôn qua những lời thề
thốt. Đó là hình ảnh lão Đổng – bác sĩ thú y trong “Trâu thiến”. Sau khi đánh vật
với con trâu Song Tích mà không thành công, bị mọi người nói khích, lão thề:
(51)
奶奶个熊,今日我不阉了你,把董字倒过来写!《牛》
(Bữa
nay không cắt được dái mày, ông không còn mang họ Đổng nữa!)
(Trâu thiến)
Đối
với người phương Tây, họ không phải là vấn đề quan trọng, mang họ nào là quyền
của mỗi người và nhiều khi hết sức tùy hứng, anh em ruột thịt, thậm chí bố con
có thể mang họ khác nhau. Ngược lại, đối với người Trung Quốc, họ là vấn đề rất
hệ trọng; cho nên, một người nào đó mắc một tội nặng có thể bị khai trừ ra khỏi
họ. Một khi đã phải đưa họ ra để thề thốt thì sự việc đã trở nên hết sức nghiêm
trọng.
Xét
các ví dụ sau:
(52)
老四更牛,嫁给了公社屠宰组组长宋五轮,宋手 里天天攥着几十张肉票,走到哪里都像香香蛋似的。《牛》
(Đứa
thứ tư tuổi trâu, cuối cùng lại chui vào nhà của tay tổ trưởng tổ
giết mổ Tống Ngũ Luân trên huyện, trên tay của gã họ Tống này trên
tay ngày nào cũng có mấy chục tờ tem phiếu mua thịt, đi đến đâu là
chỗ đó có mùi thơm của thịt bay lên.)
(Trâu thiến)
(53) 他大女婿瘦得像一只螳螂。据说前几任炊事员刚到公社食堂时都很瘦, 但不到一年,身体就像用气吹起来一样,胖得走了形。《牛》
(Gã
con rể này gầy như một con bọ ngựa. Nghe nói những người đã từng
làm cấp dưỡng ở nhà ăn công xã đều gầy như bọ ngựa cả, nhưng không
đầy một năm sau, ai ai cũng như được bơm căng không khí, mập đến độ đi
không nổi mà phải lăn).
(Trâu thiến)
Qua
các ví dụ trên ta có thể thấy, tem phiếu phản ánh sinh hoạt của thời bao cấp,
cái thời kì mà tất cả mọi nhu cầu của con người từ cái ăn cái mặc đến mọi nhu cầu
thiết yếu khác như cái kim sợi chỉ đều phải phân phối ở cửa hàng hợp tác xã.
Hình ảnh nhà ăn công xã phản ánh một giai đoạn phát triển đi lên “chủ nghĩa xã
hội” giai đoạn đầu của “chủ nghĩa cộng sản” (một xã hội không tưởng) của nhân
dân Trung Quốc do Mao Trạch Đông khởi xướng. Thời kì này đã khiến người dân
Trung Quốc lâm vào nạn đói và hậu quả của nó là ba bảy phảy bảy triệu người chết
đói, được phản ánh trong cuốn “Mao Trạch Đông – ngàn năm công tội”.
Trong
tiểu thuyết “Ếch” Mạc Ngôn viết:
(54) 她说:你们以为我真喝醉了?没那回事,姑姑我是千杯不醉。《蛙》
(Cô
nói: Chúng bay nghĩ là ta đã say thật rồi à? Không có chuyện đó đâu.
Cô đây nghìn cốc không say!). (Ếch)
Câu
nói của bà cô bắt nguồn từ câu cách ngôn tiếng Hán:
酒逢知己千杯少
说不投机半句多
[Rượu
phùng tri kỉ thiên bôi thiểu
Thoại
bất tri âm bán cú đa]
(Uống
rượu gặp bạn nghìn chén cũng còn ít
Nói
chuyện mà không hợp nhau thì nửa câu cũng bằng thừa).
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Cù Đình Tú (2007), Phong
cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, Nxb Giaó dục.
2. Đào Thản (1990), Lối nói phóng đại trong tiếng
Việt, Tạp chí Ngôn ngữ.
3. Đinh Trọng Lạc
(2005), Phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giaó
dục.
4. Đinh Trọng Lạc, Nguyễn Thái Hòa (2006), Phong
cách học tiếng Việt, Nxb Giaó dục.
5. Hữu Đạt (2001), Phong
cách học tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
NGUỒN TƯ LIỆU TRÍCH DẪN
6. Mạc Ngôn (2001), Báu vật của đời, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí
Minh.
7. Mạc Ngôn (2010), Ếch, Nxb Văn học, Hà Nội.
8. Mạc Ngôn (2004), Truyện, Nxb Văn học, Hà Nội.
NGUYỄN NGỌC KIÊN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét