Tác giả Nguyễn Ngọc Kiên |
TS. Ngữ văn Nguyễn Ngọc Kiên
Gần
đây thơ Nguyễn Khôi xuất hiện khá nhiều và đều đặn trên các trang báo mạng. Phần lớn thơ anh là những bài thế sự, thời sự,
chính trị mang tính ứng tác về cuộc sống diễn ra quanh ta. Kể ra, đã qua độ tuổi
xưa nay hiếm từ lâu, nay bước vào độ tuổi 80 sức làm việc ấy cũng thật đáng nể.
Nó hứa hẹn những bài thơ mới tươi rói đầy triển vọng. Nhà thơ Lê Mai thẳng thắn
cho rằng: Thơ Nguyễn Khôi không độc đáo. Không lạ. Không sang trọng! Nhưng thơ Nguyễn Khôi cuốn hút rất nhiều người
đọc. Từ nam phụ, lão ấu. Từ những vị ni cô, sư nữ ở chùa tận Bình Dương và Huế
cho đến những phụ nữ có học vấn, học hàm học vị cao ở trường ĐH Quốc Gia. Có
người kín đáo thư từ cho Nguyễn Khôi, có người thì công khai bày tỏ sự ngưỡng mộ
nhà thơ trên facebook.
Nó có sức ma mị.
Điển hình phải kể đến một số bài tiêu biểu, chẳng hạn:
Đâu
có phải bờ sông Lô hoang vắng
Gió dập dờn mây trắng ngút ngàn lau
Sông cứ chảy vờn sau tà áo trắng
Mặc thời gian như nước chảy qua cầu…
Gió dập dờn mây trắng ngút ngàn lau
Sông cứ chảy vờn sau tà áo trắng
Mặc thời gian như nước chảy qua cầu…
(Chiều
phố Vọng)
Hay trong bài “ Gửi em – Pairis Mùa thu
tím”:
Thôi, mai em về Cửu Long giang cuộn
sóng
Nhớ sông Seine... thời khắc chẳng ngừng trôi
khung cửa hẹp
ôi thu, hừng sắc tím
tím cả hồn thơ thả mộng lên trời...
Nhớ sông Seine... thời khắc chẳng ngừng trôi
khung cửa hẹp
ôi thu, hừng sắc tím
tím cả hồn thơ thả mộng lên trời...
(Gửi em – Paris mùa thu tím)
Xưa
nay chỉ thấy các thi sĩ nói về màu tím tình yêu, chứ còn nói “Paris mùa thu tím” thì đúng là chỉ có ở …
Nguyễn Khôi.
Hay
bài “Gửi Tuyên Quang” – một bài thơ hay của Nguyễn Khôi, có những câu thơ xuất
thần, bảng lảng, lay động lòng người:
Từ
thượng nguồn ai trông về cuối bãi
Để ai kia khắc khoải những mong chờ
Thôi, cứ để cho thời gian gió thổi
Gieo vào lòng một chút sóng Sông Lô ...
Để ai kia khắc khoải những mong chờ
Thôi, cứ để cho thời gian gió thổi
Gieo vào lòng một chút sóng Sông Lô ...
Cách
nay hơn một tháng vào cuối năm Bính Thân, “chút sóng sông Lô” ấy đã làm xao động
sóng sông Hồng.
Trong bài tứ tuyệt “Ao làng”, Nguyễn Khôi viết:
Vượt
biển, chơi hồ, trở quá giang
Bỗng dưng lại thấy nhớ ao làng
Cái đêm hè ấy ai ra tắm
Để cả bầu trời phải tắt trăng.
Bỗng dưng lại thấy nhớ ao làng
Cái đêm hè ấy ai ra tắm
Để cả bầu trời phải tắt trăng.
(1995)
Nhiều
người cho rằng đây là bài thơ hay. Nhà ngôn ngữ học hàng đầu Hồ Hải Thụy nói ước gì được về tắm ở cái ao làng ấy lấy một
lần trong đời. Nhà thơ Nguyễn Thanh Kim thì cho rằng chữ “tắt” trong “Để cả bầu
trời phải tắt trăng” không thể thay thế bằng một chữ khác. Chúng tôi lại không
nghĩ thế. Nhà thơ Lê Mai cho rằng chữ “tắt” là tả thực chỉ hành động, dùng ở đây không thật
tinh tế và không được “thơ” lắm! Có kẻ nghịch ngợm, ngỗ ngược cho rằng nó gợi
cho ta liên tưởng tới chu kì của chị em phụ nữ.
Chữ “tắt” hoàn toàn có thể
thay thế bằng động từ khác. Chẳng hạn, ta thử thay bằng “lịm” hay “khuất” :“Để
cả bầu trời lịm ánh trăng” nghe có vẻ ổn hơn. “Lịm” như một ngọn đèn vụt sáng
trước khi tắt, thực tế làm tỏa sáng rực
cả bài thơ. Như vậy nói không thể thay thế là hơi vội vã và hoàn toàn không có cơ sở!
Trong
bài “Đêm Châu Mộc” viết ngày 15/4/1963 cách nay đã hơn 50 năm; tác giả đã nhậy
cảm từ lâu, trong khi mọi người còn “ mê ngủ” , vẫn say mê với bài thơ “ Chào
61 đỉnh cao muôn trượng “ của Tố Hữu , thì Nguyễn Khôi đã viết :
Đêm Mộc Châu lần đầu nghe nai “ tác”
Dân đốt nương núi cháy xém vầng trăng
Mới hay cuộc sống còn đói khát
Đốt cả đất trời kiếm miếng ăn
Dân đốt nương núi cháy xém vầng trăng
Mới hay cuộc sống còn đói khát
Đốt cả đất trời kiếm miếng ăn
Theo
chúng tôi đây cũng là một bài thơ hay của Nguyễn Khôi. Hai câu đầu là tả thực.
Hai câu cuối có sức khái quát lớn. Tuy nhiên, theo chúng tôi, ở nơi mà đã có “dân
đốt nương Núi cháy xém vầng trăng”, tàn phá rừng, hủy hoại môi trường như thế
thì không còn nghe thấy tiếng “nai tác”được nữa. Có chăng chỉ còn nghe tiếng thạch
sùng mà thôi!
Đọc
đến đây người viết bài này nhớ đến giai thoại về bài thơ “Phong kiều dạ bạc” của
Trương Kế” đời đường cách nay đã hơn một ngàn năm:
Trăng tà bóng quạ kêu sương
Lửa chài cây bến còn vương giấc hồ
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.
Dù
sao giai thoại cũng chỉ là giai thoại. Xưa nay người ta đã bàn nhiều về cái sự
vô lý trong những bài thơ hay. Có giả thuyết cho rằng, sự thực thì “nguyệt lạc”
(trăng lặn) đã là lúc về sáng rồi. Tác giả đi nằm lúc nửa đêm cứ
mơ màng cho đến khi chợt tỉnh và bị ảo tưởng về thời gian nên cho là mới
có nửa đêm.
Nhà
thơ Âu Dương Tu đời Tống cho rằng, “Trương Kế vì mê câu văn hay đã làm cho ý
văn không được thông; đó là ngữ bệnh (tì vết trong câu văn) vậy.
Nhưng
chúng ta cũng không nên bới lông tìm vết làm gì”.
Ở
đây Nguyễn Khôi chắc cũng trong cơn ngái ngủ, mê sảng mà nghe thấy tiếng “nai
tác”. Vậy nên ta cũng không nên “chẻ sợi tóc làm tư” mà làm gì miễn là đó là
thơ hay!
Mồng
4 tháng Giêng năm Đinh Dậu
Nguyễn Ngọc Kiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét