Trần Mỹ Giống (áo sẫm màu), Trịnh Thị Nga (ôm hoa) |
Khiếu Năng Tĩnh (1835 - 1920) quê xã Chân Mỹ,
huyện Đại An nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện ý Yên, tỉnh Nam Định.
Xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, Khiếu Năng Tĩnh rất chăm chỉ học
tập và sớm bộc lộ trí thông minh, học giỏi. Khoa Mậu Dần (1878), ông đỗ Cử
nhân. Khoa Canh Thìn niên hiệu Tự Đức 33(1880) ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ
xuất thân. Khoa này ông đỗ Hội nguyên (đỗ đầu kỳ thi Hội). Ông làm quan trải
các chức Đốc học Nam
Định, Đốc học Hà Nội, thăng Quốc tử giám Tế tửu.
Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh là một học giả uyên thâm, nhà văn, nhà giáo nổi
tiếng, tác gia Hán - Nôm tiêu biểu thời cận đại. Sách địa phương chí của ông
hiện còn đến nay là những tài liệu rất có giá trị đối với bạn đọc nói chung và
các nhà dân tộc học, nhà địa phương học, nhà nghiên cứu lịch sử nói riêng
như Đại An bản mạt khảo, Đại An huyện chí, Hà Nội tỉnh chí, Quốc đô cổ
kim chí, Thăng Long chư thần ký, Tân biên Nam Định tỉnh địa dư chí lược, Tiên
phả dịch lục...
Là một nhà giáo nổi tiếng, chắc hẳn Khiếu Năng
Tĩnh có viết sách giáo khoa. Trong bài Ngôn chí ông đã nói rõ việc ông
mở trường dạy học trò con nhà nghèo, có viết sách giáo khoa:
或 将 設 帳 助 貧 家
無 學 安 能 别 正 邪
始 著 化 兒 初 集 韻
再 成 訓 長 一 詩 歌
Hoặc tương thiết trướng trợ bần gia
Vô học an
năng biệt chính tà
Thuỷ trước
“Hoá nhi sơ tập” vận
Tái thành
“Huấn trưởng nhất thi” ca
(Nghĩ nên mở trường dạy học để giúp người nghèo
Nếu không học thì sao phân biệt được lẽ hay điều dở
Lúc đầu viết quyển Hoá nhi sơ tập
Rồi lại chế sách Huấn trưởng nhất thi)
Nhưng rất tiếc là hiện chúng tôi chưa sưu tầm
được tác phẩm nào của ông về lĩnh vực này.
Riêng về thơ, ông có các tập Cố hương
vịnh tập, Cổ thụ cách vịnh. Ngoài ra ông còn Hoài lai thi tập
tuyển thơ của nhiều tác giả khác...
Hầu
hết các tác phẩm của Khiếu Năng Tĩnh tản mát trong dân gian, được nhân dân lưu
truyền khá phổ biến, được trích dẫn trong nhiều tác phẩm của các tác gia đương
thời. Nhà nghiên cứu Hán - Nôm Dương Văn Vượng, nguyên chuyên viên Bảo tàng
tỉnh Nam Định đã nhiều năm sưu tầm, dịch một số tác phẩm của Tiến sĩ Khiếu Năng
Tĩnh, góp phần lưu giữ và phục vụ bạn đọc di sản quý của quan Nghè. Tác giả
Trịnh Thị Nga và Dương Văn Vượng đã thu thập trong các thư tịch, trong dân gian
được hơn trăm bài thơ của Khiếu Năng Tĩnh, tuyển dịch, in 53 bài...
Thơ
Khiếu Năng Tĩnh thể hiện cốt cách nhà giáo, tâm hồn cao đẹp, tấm lòng vì nước
vì dân, những tâm sự vui buồn và tài năng tinh tế của ông. Ba chủ đề tập trung
trong thơ Khiếu Năng Tĩnh là vịnh cảnh thiên nhiên, di tích và nhân vật lịch
sử, thế sự. Âm hưởng thơ ông là tình cảm yêu nước thương dân thiết tha, xót xa
và bất bình trước thời cuộc đảo điên, buồn đau vì tự thấy mình không làm được
nhiều cho dân cho nước.
Sinh thời, ông rất thích tập Cổ thụ cách của
Đông Sơn Lão Phố. Trong cuốn này có vẽ 36 thế cây cảnh, mỗi thế kèm hai câu thơ
tổng vịnh. Khiếu Năng Tĩnh đã làm 36 bài thơ tứ tuyệt bằng chữ Hán, mỗi thế một
bài để thể hiện rõ tính chất của tranh vẽ trong Cổ thụ cách, gọi là Cổ
thụ cách vịnh. Ông gửi gắm vào các bài tứ tuyệt những tình cảm, suy tư, tâm
sự và thể hiện nhân sinh quan của mình.
Cũng như nhiều nhà nho đương thời, Khiếu Năng
Tĩnh mong muốn những người đứng đầu trong bộ máy nhà nước phải là những người
có tài có đức, vua phải sáng, tôi phải hiền. Có như thế mới có thể giành lại và
giữ được nền độc lập tự chủ. Ông khuyên các quân thần:
君 須 知 敬 在 心 中
臣 早 當 思 一 世 恭
Quân tu tri kính tại tâm trung
Thần tảo
đương tư nhất thế cung
(Quân minh thần lương cách)
Vua nên giữ đạo kính tin
Tôi nên sớm nghĩ một niềm cúc cung.
Trong
việc dạy học trò, cũng như trong xử thế ở đời, ông quan niệm mọi việc muốn
thành công thì phải dựa vào chính mình, không thể trông chờ vào người khác.
Muốn giành lại non sông, xây dựng đất nước thì phải tự mình tiến hành, chứ
không thể trông chờ vào nước ngoài. Trong bài Ký Nguyễn đại nhân, một
người bạn là Tổng đốc, ông nói rõ:
今 若 倚 人 尋 活 計
有 梯 他 日 首 安 翹
Kim nhược ỷ
nhân tầm hoạt kế
Hữu thê tha
nhật thủ an kiều
(Nếu cứ tựa người tìm kế sống
Nhờ thang, sao ngẩng nổi đầu lên)
Bản thân Khiếu Năng Tĩnh từng cùng Phạm Thận Duật dự hội nghị các
quan đầu tỉnh bàn việc xây dựng lực lượng chống quân xâm lược. Trong bài Phụng
vãng chư xứ tuyên thiết các đội dân binh, ông kêu gọi khích lệ mọi
người nêu cao tinh thần chiến đấu chống quân xâm lược:
闺 中 婦 女 抱 兒 睡
賊 至 难 安 是 素 懷
况 我 男 人 無 掘 起
守 家 報 國 望 誰 哉
Khuê trung phụ nữ bão nhi thuỵ
Tặc chí nan
an thị tố hoài
Huống ngã nam
nhân vô quật khởi
Thủ gia báo
quốc vọng thuỳ tai
(Người đàn bà chốn khuê phòng bế con kia, khi thấy
giặc xông tới cũng còn chẳng yên tâm. Huống chi ta là đấng nam nhi, còn chờ đợi
ai lại không trỗi dậy giữ nghiệp nhà, đền nợ nước).
Trong xã hội phong
kiến đang suy tàn, quan lại không còn là phụ mẫu của dân, vua cũng không là vua
sáng, đời sống nhân dân ngày càng cơ cực. Ông chán ngán trước cảnh tình đời đen
bạc, có mới nới cũ, quan lại xu nịnh cầu vinh, vua bạc nhược trước bọn thực dân
cướp nước:
求 親 陽 識 非 親 日
前 恥 長 江 洗 不 清
Cầu thân dương thức phi thân nhật,
Tiền sỉ
Trường Giang tẩy bất thanh.
(Khuất kỷ cầu thân cách)
Cầu thân khi chủ không thân
nữa,
Nhục ấy Trường Giang rửa
sạch đâu?
見 新 忘 舊 衰 陽 日
君 不 君 兮 臣 不 臣
Kiến tân vong cựu suy dương nhật,
Quân bất quân
hề, thần bất thần.
(Kiến
tân vọng cựu cách)
Ngày nay thấy mới quên xưa
rõ,
Vua chẳng ra vua, tôi chẳng
tôi.
Sống trong xã hội có nhiều điều nhiễu
nhương, cuộc đời dâu bể, ông vẫn tâm niệm phải giữ vững khí tiết của kẻ trượng
phu và tự hào rằng mình trong sạch:
冬 來 何 物 不 凋 零
田 舍 古 松 獨 秀 青
雨 打 風 撞 心 自 在
丈 夫 不 愧 世 間 评
Đông lai hà vật bất điêu linh?
Điền xá cổ
tùng độc tú thanh
Vũ đả phong
chàng tâm tự tại
Trượng phu
bất quý thế gian bình.
(Tự
tại trượng phu tùng cách)
Mùa đông mọi vật đều xơ xác
Xóm ruộng, thông già cứ tốt
xanh
Mưa dội, gió lay, lòng vẫn
thế
Trượng phu không thẹn với
câu bình.
Quả thật, Khiếu Năng Tĩnh không những không phải hổ
thẹn với đời vì ông đã giữ vững phẩm chất tốt đẹp của một nhà nho yêu nước, mà
còn rất đáng tự hào trước con mắt khâm phục và sự đánh giá của nhân dân.
Trong
cảnh đất nước bị thực dân đô hộ, nhân dân lầm than, quan lại chỉ lo thu vén cho
mình, Khiếu Năng Tĩnh tự thấy mình bất lực nên ông không tha thiết gì với con
đường làm quan:
江 山 萬 里 他 人 帝
風 化 千 秋 異 種 圖
不 料 來 时 生 死 刼
但 知 今 日 冨 豪 鋪
無 才 早 返 田 園 舊
牛 馬 尋 爲 百 姓 辜
Giang sơn vạn lý tha nhân đế
Phong hoá
thiên thu dị chủng đồ
Bất liệu lai
thi sinh tử kiếp
Đãn tri kim
nhật phú hào phô
Vô tài tảo
phản điền viên cựu
Ngưu mã tầm
vi bách tính cô
(Kiếm Hồ thế thuyết)
Giang sơn vạn dặm quân thù chiếm
Phong hoá ngàn thu giống khác lo
Chẳng liệu về sau điều sống chết
Chỉ hay trước mắt sự sang giàu
Vô tài sớm trở về quê cũ
Luống thấy dân mình kiếp ngựa trâu.
Trong bài Ngôn chí, Khiếu Năng Tĩnh đã nói rõ chí nguyện
của ông là muốn đem hết tăng sức lực để dạy học. Theo ông, người ta không học
thì không biết đúng sai (Vô học an năng biệt chính tà), muốn diệt trừ kẻ
bạo tàn (quân xâm lược) thì phải có tài (Trừ bạo phàm tài khởi đắc da).
Ông coi việc dạy học là hành động báo đáp tổ tiên, đền nợ nước. Với cương vị
học quan đứng đầu tỉnh và Tế tửu Quốc Tử giám (Hiệu trưởng Trường Đại học đầu
tiên của nước ta), ông đã đào tạo được nhiều nhân tài cho đất nước.
Khi làm Chủ khảo Trường thi Nghệ An, ông đã phát hiện tài năng
Phan Bội Châu, hết lòng giúp đỡ để Phan Bộ Châu đỗ thủ khoa. Điều đó đã chứng
tỏ Khiếu Năng Tĩnh có con mắt tinh đời và tấm lòng ưu ái đối với những tài năng
của đất nước. Với danh hiệu Giải nguyên, Phan Bội Châu có thêm uy tín, danh
tiếng rất thuận lợi cho hoạt động cứu nước. Các sĩ tử khoa ấy ai nấy đều vui
mừng thừa nhận Phan Bội Châu đỗ Thủ khoa là xứng đáng. Phan Bội Châu đã trở
thành một yếu nhân của phong trào Đông Du, một chí sĩ yêu nước được nhân dân vô
cùng cảm phục cũng một phần có công đóng góp của quan nghè Khiếu Năng Tĩnh.
Cũng
trong khoa thi Hương năm 1900 tại trường thi Nghệ An, có một thí sinh 82 tuổi
là Đoàn Tử Quang, người Hương Sơn, Hà Tĩnh. Đoàn Tử Quang là người rất hiếu
học, từng hai lần đỗ Tú tài. Mặc dù tuổi cao, Đoàn Tử Quang vẫn không ngừng học
tập, thi cử, mong có điều kiện cống hiến được nhiều cho dân cho nước. Cảm phục
tấm gương kiên trì học tập và tài năng thực sự của Đoàn Tử Quang, Chánh chủ
khảo Khiếu Năng Tĩnh đã lấy Đoàn Tử Quang đỗ Cử nhân. Sau khi đỗ Cử nhân, Đoàn
Tử Quang được bổ chức quan, làm tới chức Huấn đạo. Với việc lấy Đoàn Tử
Quang đỗ Cử nhân, Khiếu Năng Tĩnh đã tạo điều kiện cho Đoàn Tử Quang thoả
nguyện cống hiến sức lực, tài năng cho nước. Khiếu Năng Tĩnh được các sĩ phu
đương thời ca ngợi là người biết trọng nhân tài, không bỏ sót nhân tài và có
tấm lòng bao dung nhân ái.
Khi về quê, ông mở trường dạy học tiếp tục sự nghiệp giáo dục mà
mình theo đuổi cả đời. Khác với nhiều nhà nho đương thời mở trường dạy học trò
để thi tú tài, cử nhân, trường của Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh lại nhận dạy con em
nhân dân nghèo học chữ. Ông vui vẻ chấp nhận cảnh "sáng cơm tối
cháo", bỏ tiền mua sách bút tặng học trò để thực hiện chí nguyện của mình.
Quan tâm giáo dục cho đại đa số người nghèo là một tư tưởng tiến bộ của nhà
giáo Khiếu Năng Tĩnh.
Phê
phán lối sống cầu vinh, bán nước của một số quan lại đương thời, mong muốn nước
nhà có nhiều bậc tài đức, ông làm thơ ca ngợi những gương sáng tiền nhân của
quê hương. Trong Cố hương vịnh tập, ông có nhiều bài ca ngợi công thần,
những người có nhiều đóng góp cho quê hương, những người hết lòng vì nhân dân...
Thọ Tung phúc thần là một bài trong loạt bài này của ông. Bài thơ ca
ngợi Tướng quân Bùi Ngọc Oánh, người có nhiều công lao trong kháng chiến chống
Minh và xây dựng quê hương:
亦 爲 開 國 一 功 臣
黎 帝 當 時 是 至 珍
初 爲 家 貧 鄉 不 重
後 成 良 將 敕 封 臣
開 荒 濟 急 猶 存 迹
族 廟 鄉 祠 上 沐 恩
屈 指 黃 花 四 百 讚
香 煙 詩 柷 繼 傳 聞
Diệc vi khai quốc nhất công thần,
Lê đế đương
thời thị chí trân.
Sơ vị gia bần
hương bất trọng,
Hậu thành
lương tướng sắc phong thần.
Khai hoang tế
cấp do tồn tích,
Tộc miếu
hương từ thượng mộc ân
Khuất chỉ
hoàng hoa tứ bách tán
Hương yên thi
chúc kế truyền văn.
Dịch thơ:
Cũng
là khai quốc công thần,
Đương thời Lê đế nhiều lần
ban khen.
Lúc
đầu nghèo, có ai tôn,
Sau thành tướng giỏi ơn
trên phong thần.
Khẩn
hoang còn giúp khó bần,
Họ thờ, làng cúng đội ân tỏ
lời.
Bốn
trăm năm chục năm rồi
Khói nhang cầu vọng nối đời
không quên.
(Dương Văn
Vượng dịch)
Khiếu Năng Tĩnh luôn day dứt tự trách mình không đủ tài cứu nước, tâm
trạng chán cảnh làm quan, muốn lui về quê, nhưng vẫn tin tưởng vào tương lai
tốt đẹp của đất nước. Trong bài Xuân du ông chỉ rõ Thăng Long linh khí"
chưa phải đã mất, "Quốc giám thạch bi" còn đọc rõ, mảnh đất
dấy vương nghiệp c òn nhiều dấu vết trong lòng người. Ông tiên đoán:
近 百 年 來 當 算 定
清 平 回 日 抵 駸 駸
Cận bách niên lai đương toán định
Thanh bình
hồi nhật để xâm xâm.
(Có lẽ trăm năm chừng độ ấy
Thanh bình trở lại mới nghe tăm)
Niềm
tin của Khiếu Năng Tĩnh ngày nay đã thành sự thật. Sau gần trăm năm dưới ách đô
hộ của thực dân Pháp, nhân dân ta đã quét sạch lũ giặc ngoại xâm, giành lại non
sông gấm vóc của mình.
Thơ
Khiếu Năng Tĩnh ít khi dùng điển cố nên dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. Hầu hết
các bài thơ của ông ở thể thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt. Chúng tôi mới
chỉ thấy duy nhất bài Nho Lâm thôn dùng thể lục bát. Do ảnh hưởng của
văn hoá Trung Quốc, việc dùng thể thơ Đường luật trong sáng tác của các nhà nho
thời đại Khiếu Năng Tĩnh sống là tình trạng phổ biến. Với số câu, số chữ quy
định và sự đòi hỏi chặt chẽ về niêm, luật của thể thơ Đường luật, đòi hỏi các
tác giả phải có tài mới tránh được tình trạng gò bó, khuôn sáo. Thơ Khiếu Năng
Tĩnh vừa đảm bảo những quy định nghiêm ngặt của thể loại, vừa diễn tả những suy
tư, tình cảm của mình một cách tự nhiên, giàu hình ảnh, gây được cảm xúc thẩm
mỹ cho người đọc. Phải là người gần gũi, quan sát tinh tế, yêu thiết tha thiên
nhiên đất nước mới có thể viết được những câu thơ giàu hình ảnh đẹp như:
竹 揚 百 手 驱 雲 散
勁 節 还 留 室 外 藩
鳥 问 花 迎 先 後 接
來 年 欲 寄 似 前 年
Trúc dương bách thủ khu vân tán
Kính tiết
hoàn lưu thất ngoại phiên
Điểu vấn hoa
nghinh tiên hậu tiếp
Lai niên dục
ký tự tiền niên
(Hạ từ)
(Trăm tay trúc khua mây tan tác
Khí tiết còn vương dậu phên nhà
Chim hỏi, hoa chào sau trước đón
Chắc rằng năm tới tựa năm qua)
Hoặc như cảnh thôn quê trong bài Mai vịnh:
未 春 白 色 滿 山 頭
布 入 風 中 擊 玉 楼
扇 起 紫 袍 殘 幻 梦
農 家 處 處 速 驱 牛
Vị xuân bạch sắc mãn sơn đầu
Bố nhập phong
trung kích ngọc lâu
Phiến khởi tử
bào tàn ảo mộng
Nông gia xứ
xứ tốc khu ngưu
(Chưa xuân sắc trắng khắp đầu non
Theo gió hương vào tận gác son
Bào tía bỗng nhiên tàn mộng ảo
Lùa trâu vội vã cảnh nông thôn).
Dường như Khiếu Năng Tĩnh làm thơ chỉ để ghi
lại những suy nghĩ, những sự kiện như là nhật ký của mình. Vì vậy, đọc thơ
Khiếu Năng Tĩnh, chúng ta hiểu thêm về cuộc đời, về tư tưởng tình cảm của ông,
càng kính trọng ông với tư cách là một nhân cách cao đẹp, một người thầy lớn,
một danh nhân văn hoá của đất nước.
TMG - TTN
……….
Trần Mỹ Giống – Trịnh Thị Nga, bài tham luận trong Hội thảo khoa học “Tế tửu Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh” tại trung tâm hoạt động VHKH Văn Miếu - Quốc Tử giám, Hà Nội tháng 9 năm 2009.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét