NNC Trần Mỹ Giống |
Đào Toàn Bân quê Kinh Bắc, định cư tại Cổ Lễ, Tây Chân (nay
là thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định), đỗ Nhị giáp Tiến sĩ thời
Trần, nổi tiếng là nhà giáo có tài, từng được Chu Văn An khen là "Đại sư
vô nhị"...
Một số bài viết nghiên cứu về Thái học
sinh Đào Toàn Bân đăng báo và in trong sách có nói đến giai thoại đối đáp của
ông với vua Trần đã dịch hai câu đối rất khác nhau.
Đại lược giai thoại như sau:
Trong buổi đăng khoa năm 1374, biết Đào
Toàn Bân có ba học trò đều đỗ đại khoa là Trạng nguyên Đào Sư Tích (con trai
Đào Toàn Bân), Bảng nhãn Lê Hiến Giản, Thái học sinh Lê Hiến Tứ, vua Trần Duệ
Tông khen ông là “Phụ giáo tử đăng khoa” (Cha dạy con đỗ đạt) và ra vế đối:
Viên ngoại ba tiêu vô phu quân tứ thời
hữu tuyết.
Đào Toàn Bân xin đối lại là:
Mộc tại nguyệt thiên vô thổ bồi bát
nguyệt giai xuân.
Do
câu đối là truyền khẩu từ đời xưa, chỉ có phiên âm mà không có chữ Hán nên mỗi
người hiểu một cách khác nhau. Chẳng hạn, Tiến sĩ Nguyễn Xuân Năm trong cuốn “Nam Định đậm đà bản sắc dân tộc” (Sở Văn hóa
Thông tin Nam
Định xuất bản năm 2000, trang 186) dịch hai câu đối này như sau:
Cây chuối ngoài vườn, người quân tử ngồi bên
cửa sổ cũng thấy vui vui;
Cây
dưới trăng không lấp đất vào gốc thì từ tháng tám không được tốt tươi.
Nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang lại dịch hai
câu đối này là:
Cây
chuối ngoài vườn không có chồng bốn mùa có tuyết,
Cây
ở trời trăng không đất đắp bồi tháng tám đều xuân.
Cụ Lê Xuân Quang khi còn sống có gửi cho
tôi bản thảo bài viết về câu đối dịch của Tiến sĩ Nguyễn Xuân Năm với tiêu đề
“Câu đối dịch của một kỹ sư nông nghiệp” (sau bài viết này được đăng trên Tuần
tin Thể thao văn hóa). Cụ chê tác giả không biết chữ Hán nhưng cứ dịch bừa.
Không biết Tiến sĩ Nguyễn Xuân Năm có đọc bài của cụ Lê Xuân Quang không, nhưng
trong cuốn “Nam Định đậm đà bản sắc dân tộc” (Sở Văn hóa Thông tin Nam Định tái
bản năm 2007, trang 204) tác giả đã sửa câu đối dịch lại là:
Chuối ở ngoài vườn, không có chồng vợ bốn mùa (quanh năm) luôn nhuận sắc;
Chuối ở ngoài vườn, không có chồng vợ bốn mùa (quanh năm) luôn nhuận sắc;
Cây trên mặt trăng không được đất bồi
tháng tám (tiết thu) vẫn sắc xuân.
Như vậy, hai chữ “Phu quân” trong vế đối “Viên
ngoại ba tiêu vô phu quân tứ thời hữu tuyết” được nhà nghiên cứu Lê
Xuân Quang dịch là người “chồng” (Tiếng vợ gọi chồng là “phu quân”), Tiến sĩ
Nguyễn Xuân Năm dịch là “người quân tử ngồi bên cửa sổ” sau sửa lại là “(không
có) chồng vợ”.
Chúng tôi không phê bình các tác giả
dịch, chỉ với tư cách chủ blog trả lời bạn đọc, “điếc không sợ súng”, góp thêm
một cách hiểu về hai câu đối này:
Theo chúng tôi, hai chữ này trong câu đối
có lẽ là chữ 膚 phu: có nghĩa là lớp da bọc
bên ngoài, dịch thoáng là áo mặc
(đối với người), vỏ bọc (đối với thực
vật) và chữ 均 quân: có nghĩa là đều, bằng,
đồng đẳng. Với hai chữ này, vế đối được viết và hiểu là:
園外芭蕉無膚均四時有雪
Viên ngoại ba tiêu vô phu quân tứ thời
hữu tuyết.
Tạm dịch :
Cây
chuối ngoài vườn không vỏ bọc, (như) bốn mùa đều có tuyết.
Còn chữ “bồi” ở vế đối sau là chữ 陪 bồi: có nghĩa là giúp thêm. Vế đối sẽ được viết và hiểu là:
Còn chữ “bồi” ở vế đối sau là chữ 陪 bồi: có nghĩa là giúp thêm. Vế đối sẽ được viết và hiểu là:
木在月天無土陪八月皆春
Mộc tại nguyệt thiên vô thổ bồi bát
nguyệt giai xuân.
Tạm dịch :
Cây
ở trời trăng không có đất, (nhưng) tháng tám cũng đều xuân.
Trong bài “Câu đối hay câu đá?” bản thảo
gửi tặng chủ blog TMG, nhà nghiên cứu Lê Xuân Quang phân tích khá sâu sắc trên
cơ sở luật đối, chỉ ra những cái không đối của câu đối này và kết luận đây
không thể là câu đối của vua Trần và Tiến sĩ Đào Toàn Bân - những người nổi
tiếng về văn học.
Dịch giả Dương Văn Vượng cho tôi xem một
cuốn sách chữ Hán của dòng họ Đỗ ở La Ngạn (Yên Đồng, Ý Yên), trong đó có viết
về một giai thoại đối đáp giữa Hoàng giáp Phạm Văn Nghị với Hoàng giáp Đỗ Huy
Liêu. Câu đối của hai ông như sau:
園外芭蕉無淫欲而四時有孕
月中丹桂非栽培而八節皆春
月中丹桂非栽培而八節皆春
Viên ngoại ba tiêu vô dâm dục nhi tứ thời
hữu dựng,
Nguyệt trung đan quế phi tài bồi nhi bát
tiết giai xuân.
Tạm dịch :
Cây
chuối tiêu ở ngoài vườn không có lòng dâm mà bốn mùa có chửa;
Cây
quế đỏ trong cung trăng không được trồng trỉa mà tám tiết đều xuân.
Hai câu đối này rất gần với hai câu đối
của vua Trần và Đại sư Đào Toàn Bân, nhưng chỉnh hơn về luật đối, hay và có
lôgíc hơn về ý nghĩa. Không biết có phải câu đối sau do được tiếp thu tinh hoa
của câu đối trước mà hay hơn, hay do người đời sau nhầm lẫn về tác giả của các
câu đối này, hoặc do câu đối được truyền khẩu mà tam sao thất bản chăng? Dẫu
sao, đây cũng là những di sản quý của lớp người đi trước làm giàu cho kho tàng
văn hoá dân tộc, rất đáng được trân trọng và nghiên cứu. Hy vọng các nhà nghiên
cứu quan tâm góp phần làm sáng tỏ vấn đề trên.
TRẦN
MỸ GIỐNG
di sản ni rất quí
Trả lờiXóanhưng cũng phức tạp ghê
ai nói cũng có lí
càng đọc càng u mê