Thứ Hai, 5 tháng 3, 2018

THƠ MẠNH GIAO (2) / Nguyễn Ngọc Kiên dịch


Dịch giả Nguyễn Ngọc Kiên


   

Phiên âm:
QUY TÍN NGÂM
Lệ mặc sái vi thư
Tương ký vạn lý thân
Thư khứ hồn diệc khứ
Ngột nhiên không nhất thân.


Dịch nghĩa:
KHÚC NGÂM GỬI  THƯ VỀ
Lệ hoà nước mắt viết thành thư
Gửi đến người thân xa vạn dặm
Thư đi hồn cũng đi theo
Bỗng chốc chỉ còn trơ lại thân này.

Dịch thơ:
KHÚC NGÂM GỬI  THƯ VỀ
 Mực viết thành thư thấm lệ nhòa
Gửi người thân ở vạn dặm xa
Thư đi hồn cũng bay theo nốt
Bỗng chốc chỉ còn trơ lại ta

   

Phiên âm:
TỐNG LIỄU THUẦN
Thanh sơn lâm Hoàng Hà,
Hạ hữu Trường An đạo.
Thế thượng danh lợi nhân,
Tương phùng bất tri lão.

Dịch nghĩa:
TIỄN LIỄU THUẦN
Từ núi xanh vào sông Hoàng Hà,
Để tới kinh đô Trường An.
Những kẻ mưu cầu danh lợi trên cõi đời này,
Thường gặp để tiễn nhau đi, mà không biết mình đã già rồi.

Dịch thơ:
TIỄN LIỄU THUẦN
Vào Hoàng Hà  non xanh vời vợi
Để có đường  đi tới  Trường An
Kẻ cầu danh lợi trần gian
Gặp nhau chẳng biết dung nhan đã già!

        Liễu Thuần là một người bạn của tác giả, còn hàn vi, thường phải tới kinh đô Trường An để ứng thí hoặc vận động làm quan. Bản thân tác giả cũng rất lận đận trên đường công danh, ông thi mãi tới năm 41 tuổi mới đỗ tiến sĩ, lại phải vận động thêm 4 năm nữa mới được một chức nhỏ trong huyện. Bài có ý giễu bạn, nhưng cũng là giễu mình.


Phiên âm:
TỄ NGUYÊN HÀN THỰC KÌ 6
Phương khẩu hoa gian xiết thủ quy,
Tung sơn vị ngã lưu hồng huy.
Khả liên trịch trục thiên vạn xích,
Trụ địa trụ thiên nghi dục phi.

Dịch nghĩa:
 HÀN THỰC Ở TỄ NGUYÊN  KÌ 6
Trong đám hoa ở bến đò Phương thu tay về,
Núi Tung vì ta mà giữ lại những tia nắng hồng.
Thương cho rặng hoa trịch trục kéo dài cả ngàn vạn thước,
Chống chọi với đất trời nghi rằng sắp rụng bay.
  
 Dịch thơ:
 HÀN THỰC Ở TỄ NGUYÊN  6
Ở bến đò Phương tay thu về
Núi Tung giữ lại nắng từng tia
Thương hoa trịch trục ngàn vạn thước
Chống chọi đất trời sắp rụng kia

        Tễ Nguyên nay gồm phần tây bắc tỉnh Hà Nam, bờ bắc sông Hoàng Hà, tiếp giáp tỉnh Sơn Tây.


Phiên âm:
TỄ NGUYÊN HÀN THỰC KÌ 7
Mật phong vị chủ các ma nha,
Giảo tận thôn trung vạn mộc hoa.
Quân gia úng úng kim ưng mãn,
Ngũ sắc đông lung thậm khả khoa.

Dịch nghĩa:
HÀN THỰC Ở TỄ NGUYÊN  KÌ 7
Lũ ong mật vì chủ mà mài răng nhọn,
Vào thôn xóm gom phấn từ vạn hoa làm mật.
Hôm nay nhà ông hũ hũ đều đầy,
Những hũ bằng tre mùa đông sơn năm màu đáng được khoe ra.

Dịch thơ:
HÀN THỰC Ở TỄ NGUYÊN  KÌ 7
Ong  răng mài nhọn cũng vì ta
Vào thôn gom phấn từ muôn hoa
Nhà nay hũ hũ đều đầy cả
Hũ đông ngũ sắc đáng phô ra
  
    

Phiên âm:
KHỨ PHỤ
Quân tâm hạp trung kính,
Nhất phá bất phục toàn.
Thiếp tâm ngẫu trung ty,
Tuy đoạn do khiên liên.

Dịch nghĩa:
NGƯỜI VỢ BỊ RUỒNG BỎ
Lòng chàng như gương trong hộp,
Một khi vỡ là không thể gắn lại được nguyên lành.
Lòng thiếp như tơ trong ngó sen
Dẫu (ngó) đứt lìa vẫn cứ liền với nhau.

Dịch thơ:
NGƯỜI VỢ BỊ RUỒNG BỎ
 Lòng chàng như chiếc gương trong hộp
Đã vỡ rồi sao khớp vẹn nguyên
Lòng thiếp như tơ ngó sen
Dẫu đứt lìa vẫn cứ liền keo sơn!

        Bài thơ nói lên tư tưởng tiến bộ của tác giả, được thể hiện qua lòng đồng tình sâu sắc với nỗi bất hạnh cũng như thái độ trân trọng đối với phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ trong xã hội xưa.
        Tiếp thu hình tượng của bài thơ trên, Nguyễn Du viết: "Tiếc thay chút nghĩa cũ càng, Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng" (Truyện Kiều)

Nguồn:
       
1. Phùng Hoài Ngọc, Thi ca từ Trung Hoa, NXB ĐHQG Thành phố Hồ Chí Minh, 2008
          2. Nguyễn Khắc Phi, Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc qua cái nhìn so sánh, NXB Giáo dục, 2004


Phiên âm:
OÁN THI
Thí thiếp dữ quân lệ,
Lưỡng xứ trích trì thuỷ.
Khán thủ phù dung hoa,
Kim niên vị thuỳ tử.

Dịch nghĩa:
THƠ HỜN
Thiếp cùng chàng hãy thử xem,
Ta ở hai nơi, cùng giỏ nước mắt tương tư xuống nước ao.
Rồi xem hoa sen,
Năm nay sẽ vì nước mắt của ai mà chết.

 Dịch thơ:
THƠ HỜN
Thiếp cùng chàng  hãy xem sao
Hai ta lệ nhỏ xuống ao nước đầy
Rồi xem những đóa sen đây
Lụi tàn vì nước mắt này của ai?


Phiên âm:
LẠC KIỀU VÃN VỌNG
Thiên Tân kiều hạ băng sơ kết,
Lạc Dương mạch thượng nhân hành tuyệt.
Du liễu tiêu sơ lâu các nhàn,
Nguyệt minh trực kiến Tung sơn tuyết.

Dịch nghĩa:
CHIỀU TỐI NGẮM CẢNH TRÊN CẦU LẠC
Nước dưới cầu Thiên Tân đang đóng thành băng,
Trên đường phố Lạc Dương không còn bóng người đi bộ.
Cây du, cây liễu xác xơ, nhà hàng vắng khách,
Trăng sáng, trông thấy tuyết đóng trên núi Tung.

Dịch thơ:
CHIỀU TỐI NGẮM CẢNH TRÊN CẦU LẠC
Cầu Thiên Tân nước dần băng đóng
Đường Lạc Dương vắng bóng người qua
Cây xơ xác, quán  người thưa
Sáng trăng, trông thấy tuyết mờ núi Tung


Phiên âm:
VĂN CHÂM
Đỗ quyên thanh bất ai,
Đoạn viên thanh bất thiết.
Nguyệt hạ thuỳ gia châm,
Nhất thanh trường nhất tuyệt.
Xử thanh bất vị khách,
Khách văn phát tự bạch.
Xử thanh bất vị y,
Dục linh du tử bi.

Dịch nghĩa:
NGHE TIẾNG CHẦY ĐẬP GIẶT ÁO
Tiếng chim cuốc chẳng buồn,
Tiếng vượn hú chốc chốc chẳng thảm thiết.
Tiếng chầy giặt áo nhà ai dưới ánh trăng,
Mỗi tiếng là mỗi đau lòng.
Tiếng chầy chẳng vì khách,
Khách nghe sinh tóc bạc.
Tiếng chầy chẳng vì áo,
Cũng khiến kẻ đi chơi xa buồn bã.
 
Nguồn: Đường thi quan chỉ, Từ Bắc Văn, Tế Nam xuất bản xã, 1995

Dịch thơ:
NGHE TIẾNG CHẦY ĐẬP GIẶT ÁO
Chẳng thấy buồn tiếng kêu chim cuốc
Thảm thiết chi chốc chốc vượn kêu
Chầy ai đập dưới trăng treo
Mỗi tiếng vang vọng trải theo nỗi lòng
Tiếng chầy đừng có mong vì khách
Khách  nghe xong tóc bạc phơ phơ
Tiếng chày chỉ vọng vu vơ
Khiến cho bao kẻ xót xa đượm  buồn!

Nguyễn Ngọc Kiên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét