Nhà thơ Hải Như và Trần Mỹ Giống |
Hơn ai hết, người lính mong muốn trên đời không còn cảnh
những người vợ chờ chống như nàng Tô Thị. Họ hiểu, trân trọng tư tưởng và góc
nhìn khác thường, chân thực về chiến tranh của nhà thơ Hải Như.
"Nàng
Tô Thị không còn cầu chúc hành tinh"
(Thơ
Hải Như)
Tượng
nàng Tô Thị từ lâu đã trở thành biểu tượng người vợ lính chờ chồng mòn mỏi đến
hóa đá. Ngày 27-7-1991, tượng nàng Tô Thị bị kẻ xấu phá đổ để lấy đá nung vôi.
Dư luận quần chúng bất bình, xôn xao, báo chí thi nhau lên án Sở Văn hóa-Thông
tin tỉnh Lạng Sơn đã thiếu trách nhiệm trong việc quản lý, bảo vệ tượng nàng Tô
Thị.
Mùa
xuân năm 1992, nhà thơ Hải Như cùng phu nhân từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội
và lên thăm Lạng Sơn. Trước sự việc tượng nàng Tô Thị bị phá và dư luận bất
bình, nhà thơ Hải Như đã sáng tác bài thơ "Tô Thị" thể hiện rõ cái
nhìn và quan điểm của mình. Qua bài thơ, ông muốn lý giải rằng dân tộc Việt Nam vốn hiếu
hòa chứ không hề hiếu chiến như lâu nay phương Tây vẫn hiểu không đúng...
Khi
về Hà Nội, nhà thơ Hải Như gửi bài thơ cho nhà viết kịch Tào Mạt. Nhà viết kịch
Tào Mạt đọc xong, chép ngay lại bài thơ và cho rằng cần được công bố bài thơ
này. Nhưng rất tiếc, bài thơ đã không được công bố trên báo chí. Sau này nhà
thơ Hải Như đưa bài thơ vào tập "Nỗi buồn hoa bất tử" NXB Lao Động,
1994).
Tạp
chí Nhà văn số ra tháng 12-2011 và Báo Đà Nẵng tháng 8-2012 đăng bài "Lời
liệt sĩ thành cổ Quảng Trị" của nhà thơ Hải Như. Nhà thơ đã thay lời các
liệt sĩ trong 81 ngày đêm máu lửa bảo vệ thành cổ Quảng Trị (trong đó có con
trai nhà thơ) nói rõ điều mà các liệt sĩ mong muốn là xây dựng một "xã hội
nhân văn", chứ không phải chiến tranh, bởi chiến tranh:
Là
nước mắt - chia ly, là máu đổ
Là
"Nhất tướng công thành vạn cốt khô".
Phải
chấp nhận cuộc chiến tranh không hề mong muốn kéo dài 1/3 thế kỷ là sự bất
hạnh. Vì thế, không nên dùng những mỹ từ nói về nó như "Thời hoa
lửa"... Viết đến đây tôi không thể không nhớ lại những ngày trên đường ra
trận vào năm 1972 đầy gian khổ, bom đạn ác liệt, hy sinh mất mát lớn lao của
đơn vị và đồng đội.
Tôi
may mắn được sống sót trở về, còn hàng vạn đồng đội đã nằm lại chiến trường. Hàng
vạn bà mẹ trở thành bất hạnh. Biết bao người vợ mòn mỏi chờ chồng hóa đá như
nàng Tô Thị. Hơn ai hết, người lính chúng tôi mong muốn trên đời không còn cảnh
những người vợ chờ chống như nàng Tô Thị. Và tôi hiểu, trân trọng tư tưởng và
góc nhìn khác thường, chân thực về chiến tranh của nhà thơ.
Từ
quan điểm tư tưởng và cái nhìn đối với chiến tranh thể hiện ở hai bài thơ vừa
nêu, nhà thơ Hải Như lên án:
Nhưng
con người với con người"
Đêm
đêm trên màn ảnh nhỏ
Vẫn
chĩa súng vào nhau.
Và...
vẫn thản nhiên cười (?)"
(Gấu
trúc Ata).
Ông
coi sự kiện đôi tình nhân Bosko và Admira vượt qua mọi tị hiềm để giữ vững tình
yêu và bị bắn chết vào năm 1993 là "Vết nhơ thế kỷ".
Cái
nhìn ấy, tư tưởng, quan điểm ấy của nhà thơ bắt nguồn từ tình yêu hòa bình,
truyền thống hiếu hòa của dân tộc Việt Nam. Có yêu hòa bình mới căm ghét
chiến tranh. Nhà thơ Hải Như đã thể hiện rõ tình yêu hòa bình và với hai bài thơ
trên, tình yêu hòa bình ở nhà thơ đã vượt lên thành khát vọng hòa bình.
Trần Mỹ Giống
Mời các bạn đọc hai bài thơ của Nhà thơ
Hải Như sau đây:
TÔ THỊ
"Nàng Tô Thị không còn
cầu chúc hành tinh"
Ta không buồn khi mất nàng Tô
Thị
Lòng
sắt son hóa đá đứng chờ chồng
Bởi không muốn ngợi ca hoài
chung thủy
Còn chiến tranh vợ mòn mỏi xa
chồng...
Đào xứ Lạng - Cảm ơn bông nở
muộn
Đón khách thơ. Ta đi với
người tình
Từ nửa nước phía nam lên ải
bắc
Nàng Tô Thị không còn - cầu
chúc hành tinh!
Có phải hai dân tộc đã nhìn
ra quá khứ
Đáng rủa nguyền - xương máu
rải đầy non
Nàng Tô Thị cảm thấy cần vắng
bóng
Cho vĩnh viễn hòn Vọng phu
ta, bạn không còn...
Đừng thi vị đường đầy hoa ra
mặt trận
Mẹ già ta cần ta cạnh bên
người
Suốt đời mẹ đã làm nàng Tô Thị
Chiếc áo trấn thủ chồng, mẹ
ấp ủ tàn hơi.
Biên giới là gì? Lòng người
không biên giới
Cột mốc dựng chia chẳng ngăn
nổi tìm nhau
Hội Lùng tùng mở Đồng Đăng
trai Bằng Tường băng tới
Ta cảm thông hai mảnh đất địa
đầu!
Ta không buồn khi mất nàng Tô
Thị
Chiều Lạng Sơn soi bóng nước
Kỳ Cùng
Ồ em nhỉ - ta theo dòng chảy
ngược
Làm một cuộc du hành. Biên
giới vốn cùng chung...
(Lạng Sơn - Bằng Tường
mùa Xuân 1992)
Rút trong tập "Nỗi
buồn hoa bất tử" của Hải Như, NXB Lao Động, 1994.
LỜI LIỆT SĨ THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ
"Nhĩ lai bất quý sát
nhân công" (*)
(Nguyễn Du)
Cảm ơn các bạn không quên
chúng tôi
Đã ngã xuống trong 81 ngày
đêm chấn giữ Thành cổ.
Hàng năm các bạn vẫn đến thả
đèn hoa trên dòng Thạch Hãn.
Chiến tranh là gì?
Là nước mắt - chia ly, là máu
đổ
Là "Nhất tướng công
thành vạn cốt khô"
Thời của thế hệ chúng tôi
không nên dùng mỹ từ "Thhời hoa lửa"
Bất hạnh cho dân tộc ta - một
dân tộc hiếu hòa.
Phải chấp nhận trận chiến kéo
dài không muốn- phần ba thế kỷ
Chúng tôi mong được các bạn
mỗi lần đến cho biết:
Giấc mơ về một "xã hội
nhân văn" chúng tôi mang theo vào trận đánh
Các bạn hôm nay phấn đấu thực
hiện đến đâu rồi?
(TP. Hồ Chí Minh, tháng
8-2011)
(*) Pháo đài, dịch nghĩa
là: Từ nay việc giết người không còn coi là có công.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét