Nhà văn Trần Tâm - Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, hội viên
Hội văn học nghệ thuật Quảng Ninh, sinh ngày 01-
01-1951 tại Khu H1, Cẩm Bình, Cẩm Phả - Quảng Ninh. Ông từng làm công nhân mỏ
than Đèo Nai.
Tác phẩm của ông gồm có thơ: Màu
cây trên đảo (Nxb Lao Động 1990), Sắc cầu vồng (Nxb
Quảng Ninh 1991), Vầng trăng gửi bạn (Nxb Quảng Ninh 1992), Nói với mùa thu (Nxb
Hội nhà văn 1993), Day dứt (Nxb Văn học 1995), Mưa xanh (Nxb Hội nhà văn 2002),
Hội làng (Nxb Hội nhà văn 2007)... Truyện ngắn: Bây giờ mùa ỏng đang xanh (Nxb
Kim Đồng 1998), Ngày mai sẽ nắng (Nxb Kim Đồng 2002)... Tiểu thuyết: Người kế
nghiệp (Nxb Lao Động 2005), Đất bỏng (4 tập, Nxb Thời Đại 2011)...
Ông đã đoạt nhiều Giải thưởng: Giải B Bộ Lâm nghiệp - Hội nhà văn Việt Nam 1982, Giải C Ủy ban Bảo vệ và CSTE Việt Nam - Hội nhà văn Việt Nam -UNICEF 1991, Giải C Bộ Năng lượng - Hội nhà văn Việt Nam 1999, Giải thưởng Uỷ ban Văn học Dân tộc và miền núi 2000, Giải C Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các hội văn học nghệ thuật 2007, Giải B văn học đề tài công nhân lần thứ bảy (2001- 2010) do Tổng liên đoàn lao động Việt Nam - Hội nhà văn Việt Nam 2010, Bốn lần Giải thưởng văn nghệ Hạ Long do U.B.N.D tỉnh Quảng Ninh trao vào các năm 1985-1990-1995-2005, Giải nhì thơ hay Bắc Thái 1994. Quảng Ninh 2003, Giải thưởng khuyến khích Bộ văn hóa thông tin năm 2008, Giải thưởng khuyến khích Hội chữ thập đỏ - Hội nhà văn Việt nam năm 2008, Giải thưởng loại A về thơ do Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam - Hội nhà văn Việt Nam năm 2012, Giải thưởng loại đặc biệt về tiểu thuyết Đất Bỏng của Tập đoàn Than khoáng sản - Hội nhà văn Việt Nam năm 2012…
Tác phẩm mới ra đời của ông là cuốn:
KHUYỂN ĐẾ : Tập truyện / Trần Tâm. – H.: Văn học, 2017. –
175 tr. ; 20 cm. – Số lượng in: 1.500 bản.
Cuốn sách tập hợp 32 truyện ngắn viết về mảnh đất và con
người, những người ruột thịt trong gia đình và vùng Mỏ quê hương tác giả.
Truyện ngắn của Trần Tâm viết thật giản dị, mà chân thật lạ thường, giọng văn
ấm cúng, tình cảm sâu đậm, tự hào về đất và người quê hương, như mạch nguồn tuôn
chảy từ trong tâm khảm tác giả…Truyện ngắn Trần Tâm có sức hút mạnh đối với bạn
đọc có lẽ một phần ở chính sự chân thật của cốt truyện và tình cảm tâm huyết của
tác giả.
Chân thành cảm ơn nhà văn Trần Tâm tặng sách và xin giới
thiệu với bạn đọc một truyện trong tập sách dưới đây.
ÔNG ĐÀ TOÁC
Dân làng gọi ông là Đà toác. Người ta truyền miệng cả bài vè về ông không biết từ đời khươm mươi niên nào. “Ở làng Cẩm có ông Đà toác - Bốn mùa trưng đôi dày rộng hoác - Thích uống rượu lại hay khuyếch khoác - Đi đến đâu nói cười oang oác - Có bà vợ suốt ngày quang quác - Ăn vặt quen mồm chuyện trò đoang đoác - Ông chửi cho choang choác”.
Họ
nói về ông hay nói về người nào đó rồi vì lý do gì ghép tên ông vào chứ ai chí
bụng làm vè trêu ông. Chúng tôi nghe, biết vậy. Chả đứa nào dám đọc, dám hát.
Kể cả người lớn cũng chỉ thầm thào “Đà toác” sau lưng chứ trước mặt ông... bố
bảo. Họ nể sợ ông. Nghe đâu ông có võ, đánh lại cả mật thám Tây. Ông sống đúng
mực, hay giúp đỡ người. Không bao giờ ông đi giày, suốt mùa chỉ đôi guốc mộc
đóng đế cao su. Vợ ông chết đã lâu. Con ông, các bác các chú ấy lấy vợ, ra ở
riêng cả rồi. Ông thích rượu. Uống vào, ông hay kể chuyện, cười nói oang oang
nên bà con trong xóm ngoài làng cho ông là “toác”.
Ông
kể ngày xưa, quanh khe là đất nhà ông. Tre dày dít. Chim ỉa, phân không rơi
được xuống đất. Cò cốc ăn no về, rũ cách rỉa lông hàng đàn. Cả làng có kéo nhau
ra đếm cũng không hết một phần. Chiều chiều, ông mang giành, nhặt dăm bảy giành
cá. Những con mất đầu, những con còn nguyên do cò vạc cốc nông... ăn thừa hay
đánh rơi. Ông nhặt về, chặt đầu vây, rửa sạch, phơi ra nong nia cho khô, mang
chợ xa bán. Ông sống sung túc, đàng hoàng vì bờ tre ấy.
Bà
tôi cũng biết rặng tre cò cá đó nhưng của cụ Tuần. Ông Đà nghèo chỉ có chục mét
vuông cắm lều và hơn thước đất đến cỏ cũng chê không thèm mọc. Chúng tôi kể lại
với ông. Ông phồng mồm quát: - Bà mày đếch biết!
Ông
nói về khe nước ấy. Những chỗ xoáy, sâu tới vài chục mét. Ném hòn đá xuống chỉ
bọt nổi lên chứ chẳng bao giờ trông thấy đất. Có lần, không hiểu mưa lũ từ đâu,
nước sôi lên ùng ục, cuồn cuộn đổ về. Nghĩ ngợi thế nào, ông quơ vội dậm ra.
Đứng trên bờ đã thấy kinh, ông vục một vục, lơ mơ đểnh đoảng vừa làm vừa chơi
như chúng bay vớt bèo tấm ở vũng về cho ngan vịt vậy. Lúc nhấc lên, ông không
còn tin ở tay mắt mình. Lưng một dậm toàn cua cá. Cua bò lổm ngổm. Cá giẫy đành
đạch. Ông lắc lắc dậm, vừa vác vừa chạy về nhà. Cua cá ở phía sau rơi như mưa rắc...
Ba ngày sau đi làm đồng, ông còn gặp từng đàn kiến khiêng cá chết đi tùng rinh.
Chúng vui, bá vai nhau cười rinh rích.
-
Ông làm sao nghe được tiếng kiến?
-
Đoán ra! Ngay chúng bay tự nhiên được cái gì cũng còn tít mắt lại nữa là...
Ông
hẹn chúng tôi hôm nào đi câu trê. Câu trê phải kiên trì. Nó chưa ăn mồi, đừng
sốt ruột. Không được ngủ gật. Lộn cổ xuống nước chết không kịp mở mắt, không
gọi được ai, không câu được trê. Cái giống trê ấy phải động nước một lúc mới
ra. Đến lúc nó cắn mồi, ầm ầm như bão gió, giật đến sái cả tay. Hồi câu ở Hồ
Sen, ông còn lặn xuống, moi những củ to, dài như củ sắn hai ba năm. Được một
ôm, ông mang về. Rửa sạch nồi cám lợn, cời lửa, đổ nước, cho sen vào bắc lên
bếp rồi mới ung dung vác hai cần câu ra. Móc mồi vào, vừa thả xuống đã giật lên
lia lịa. Trê tham mồi, tha đi loạn xạ. Dây câu quấn chằng vào nhau. Tức mình,
ông bỏ một cần, câu một cần. Cá nhao nhao. Dưới ánh trăng, mặt hồ vàng màu hoa
cúc. Không nhìn rõ chúng, chỉ thấy tăm cá dày đặc và sóng bập bềnh mỗi lúc một
cao. Khi đã chặt giỏ, ông vớ ngay cần câu để không. Cắn đứt phần lưỡi câu cho
vào túi, dùng dây cước xâu vào mang cá. Cá trê trơn rất khó móc mang. Cánh tay
giật cá nhiều bị mỏi đành phải ra về. Nếu câu, chúng bay mới biết. Phải giật
nhanh, gỡ nhanh. Bị giật lên, cá trê nghiến răng cọt kẹt. Chậm tí thôi là nó
cắn đứt cước. Nhất là những con trê già lụ khụ, đầu bạc như phấn viết bảng. Về
nhà, rung đùi ăn sen luộc, ngắm cá giẫy sần sật trong chậu trong thùng, vui
suốt đêm không muốn ngủ. Đêm nào, ông cho chúng mày đi.
-
Ông ơi! Hồ Sen ở đâu?
-
Mất rồi! Người ta lấp hồ, bỏ trũng thành vũng rác. Cỏ cao hơn đầu người. Ở ngay
cuối làng ấy. Nghe đâu sẽ trồng cây, xây nhà gì gì ở đấy. Nào đã thấy đâu, chỉ
lắm muỗi. Quê mình giàu có quá, đẹp đẽ quá mà họ phá không biết tiếc.
-
Thế lấy đâu ra chỗ câu hả ông?
-
Còn khối vũng. Có điều cá cũng ít. Câu ngày, ba con rô ranh. Câu đêm, dăm con
trê hoẻn. Chả bõ bèn gì. Ông cũng ngại.
-
Ông ơi! Làm sao ông moi được một ôm sen. Ở quê ngoại cháu, người ta phải đào
sâu gần ngập đầu người. Đất sét dẻo bám vào thuổng. Vừa gỡ, vừa móc vất vả lắm.
Sen luộc nào có ngon gì. Xậm xà xậm xật - Thằng Hà mới từ quê ra không hết ngạc
nhiên, háo hức nghe. Khi ông Đà ngừng, nó mới thỏ thẻ.
-
Ờ! Sen quê mày khác. Sen ngày xưa cũng khác. Chúng mày cầm chổi quét sân cho
ông. Xong xuôi, ông kể tiếp cho mà nghe.
Chúng
tôi ra sức quét. Ông chê bẩn, cầm chổi quét lại. Rồi ông vào bếp nấu nướng nếu
đến bữa hoặc rút cái áo móc trên đinh hay vắt trên dây, khoác vào người, lững
thững bước ra. Chuyện của ông còn nhiều nhưng lúc ấy, ông không kể nữa.
Có
buổi trưa, ông rủ tôi đi câu rạm. Làng tôi nằm cạnh biển. Thủy triều lên, đưa
nước mặn vào sâu trong khe lạch. Những con rạm sinh sôi, trưởng thành và chết ở
vùng nước ấy. Người quê tôi gọi là nước đàng hai. Nửa mặn nửa ngọt. Thường người
ta đánh lờ, mò bắt rạm. Ông lại đi câu và biết tính rành rẽ từng con nước lên
xuống. Tôi cầm ống bơ đựng đầy xác ngóe vừa đập, vai vác dăm ba cần câu, phơi
phới đi theo. Câu rạm không dùng lưỡi câu. Ông buộc thân ngóe đã lột da vào
từng dây câu lần lượt thả từng cần xuống. Thỉnh thoảng, ông nhấc lên, thấy rạm
bám vào lập tức đưa tay ra bắt. Ông chỉ dùng một cần nhưng thuần thục lắm, bắt
được luôn. Lúc sau, nước biển dâng dần. Có những con rạm bơi nổi trên mặt nước.
Mồi câu quăng tới, ông kéo lên có khi hai ba con. Tôi đoảng, tung lần nào rạm
chạy lần ấy. Lúc về, trông giỏ tôi chỉ khoảng hơn chục con, ông đổ hết chỗ rạm
của ông sang:
-
Mang về rang! Nhớ cho lá lốt. Có mẻ càng tốt.
Cũng
những con ngóe lột da với dây câu buộc như thế, nhiều tối, ông đưa tôi đi câu
rắn khắp khe lạch và ngay trên ruộng nước. Ông nhắc nhắc cần. Tiếng nước “tóc,
tóc”. Lát sau, ông đã kéo được con rắn, giẫy veo véo, mình ngắn nhưng to bằng
bắp tay chúng tôi. Ông gọi rắn ấy là rắn đùng đục.
Tôi
sợ, đi xem vì tò mò, không dám cầm đến rắn rết. Ông cười, đưa ngón tay chọc
chọc vào lưng từng con. Có lần, ông cho ăn thịt rắn. Ông khen nức nở, nào ngon
nhất trần đời, nào hoàng đế có thèm nhỏ rãi cũng chưa chắc được ăn, nào ăn một
miếng, xương cứng như bọc thép. Tôi nhắm mắt, vừa khiếp vừa ăn, thơm thơm nhưng
xác xác thế nào ấy.
Ông
chê đoảng, sau này khó mà làm được việc gì. Hồi còn giặc giã, sợ bị bắt đi
lính, ông theo cán bộ Việt Minh vào ở hang. Nửa đêm tỉnh dậy, không gian nặc
mùi hôi khét. Dưới ánh trăng nhờ nhờ màu sữa loãng, ông thấy con hổ đang rình
mồi. Chưa biết làm thế nào, lưỡi ríu lại, ông quờ được cây xà beng vung lên
đúng lúc hổ lao vào. Mấy ngày sau, mắt
ông mờ mờ hoa cà hoa cải, lờ đờ trước những gương mặt xa lắc xa lơ. Ông sốt li
bì đến nửa tháng, chỉ uống nước rễ cỏ tranh và ăn rau má. Những cây rau má thuở
ấy cũng tốt. Lá to, cọng dài nhìn đến thích mắt, vơ một lúc có hàng ôm. Anh cán
bộ vừa công tác vừa chăm sóc ông. Thế rồi khỏi. Như bây giờ có mục xương, chắc xương
cũng đếch còn mà mục. Tiếc quá, anh ta chết rồi. Mộ anh ở giữa nghĩa trang liệt
sĩ của làng. Chúng bay mang đến đây yến gạo, vài lít rượu rồi cứ việc há mồm
ra, nghe ông kể nốt.
Ông
cười kha kha. Chúng tôi đã nghe nhiều chuyện kể về con hổ thọt hung hãn, thản
nhiên vào làng ngay cả ban ngày kéo trâu, bắt lợn. Nó ở hang Hùm, bị thọt vì
sập bẫy chứ không phải bởi cây xà beng như ông kể.
Ông
qua đời vào buổi chiều thu. Gió heo may đã về đậm đặc. Tiết trời lành lạnh.
Người ta nói về ông bao điều tốt đẹp mà tận lúc ấy, tôi mới nghe. Làng tôi
không nhà nào không có người đưa tiễn ông. Đám tang ông dài nhất trong những
đám tang ở làng mà tôi chứng kiến.
Lớp
chúng tôi lớn lên, tản mát khắp bốn phương trời, mong mỏi làm vinh quang, tốt
đẹp cho bản thân và quê hương. Trong nhiều lí do, không thể thiếu những chuyện
thực thực hư hư do ông kể.
TRẦN TÂM
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét