TS Nguyễn Ngọc Kiên |
NHÀ THƠ VƯƠNG TRINH BẠCH 王貞白
Vương Trinh Bạch 王貞白 (875-?) tự Hữu Đạo 有道,
người Vĩnh Phong 永豐, đỗ tiến sĩ năm Càn Ninh thứ 2 (986) đời Đường.
涼州行 -王貞白
Phiên âm:
Lương Châu hành – Vương Trinh Bạch
Thuỳ xướng Quan Tây khúc,
Tịch mịch dạ cảnh thâm.
Nhất thanh trường tại nhĩ,
Vạn hận trọng kinh tâm.
Điệu cổ thanh phong khởi,
Khúc chung lương nguyệt trầm.
Khước ưng diên thượng khách,
Vị tất thị tri âm.
Tịch mịch dạ cảnh thâm.
Nhất thanh trường tại nhĩ,
Vạn hận trọng kinh tâm.
Điệu cổ thanh phong khởi,
Khúc chung lương nguyệt trầm.
Khước ưng diên thượng khách,
Vị tất thị tri âm.
Dịch nghĩa:
Bài hát Lương Châu – Vương Trinh Bạch
Ai ca khúc hát Quan Tây
Cảnh đêm mịt mờ hoang vắng
Bên tai không dứt âm thanh
Trong lòng vạn hờn trĩu nặng
Điệu xưa giục gió trong nổi
Khúc dứt khiến trăng lạnh chìm
Dẫu ai làm khách trên tiệc
Chắc gì hiểu tiếng con tim
Cảnh đêm mịt mờ hoang vắng
Bên tai không dứt âm thanh
Trong lòng vạn hờn trĩu nặng
Điệu xưa giục gió trong nổi
Khúc dứt khiến trăng lạnh chìm
Dẫu ai làm khách trên tiệc
Chắc gì hiểu tiếng con tim
Dịch thơ:
Bài hát Lương Châu – Vương Trinh Bạch
Ai hát khúc Quan Tây
Cảnh đêm vắng âm thầm
Tai âm thanh không dứt
Lòng vạn hờn lặng câm
Khúc xưa giục gió nổi
Khúc dứt bóng nguyệt trầm
Ai làm khách trên tiệc
Chắc gì là tri âm.
胡笳曲 •王貞白
Phiên âm:
Hồ già khúc – Vương Trinh
Bạch
Lũng để bi già dẫn,
Lũng đầu minh bắc phong.
Nhất luân sương nguyệt lạc,
Vạn lý tái thiên không.
Thú tốt lệ ưng tận,
Hồ nhi khốc vị chung.
Tranh giao Ban Định Viễn,
Bất niệm Ngọc Quan trung.
Lũng đầu minh bắc phong.
Nhất luân sương nguyệt lạc,
Vạn lý tái thiên không.
Thú tốt lệ ưng tận,
Hồ nhi khốc vị chung.
Tranh giao Ban Định Viễn,
Bất niệm Ngọc Quan trung.
Ban Định Viễn tức Ban Siêu 班超 (32—102), thời Đông Hán đóng giữ
Tây Vực (Tân Cương hiện nay) 30 năm, được phong chức Định Viễn hầu, đến già
dâng sớ xin về trong Ngọc Môn quan, nhưng hai năm sau mới được Hán Hoà Đế cho về.
Dịch nghĩa:
Khúc sáo Hồ già – Vương Trinh Bạch
Dưới đáy Lũng tiếng Hồ già buồn
thổi
Nơi Lũng đầu gió bấc nổi vi vu
Một vầng trăng trong sương lạnh chìm rồi
Trời quan ải vạn dặm dài rỗng tuếch
Lính biên thú nước mắt chừng sắp hết
Trai trẻ Hồ còn khóc mãi không thôi
Lệnh truyền cho Ban Định Viễn than ôi
Trong ải Ngọc đừng nhớ nhung gì cả
Nơi Lũng đầu gió bấc nổi vi vu
Một vầng trăng trong sương lạnh chìm rồi
Trời quan ải vạn dặm dài rỗng tuếch
Lính biên thú nước mắt chừng sắp hết
Trai trẻ Hồ còn khóc mãi không thôi
Lệnh truyền cho Ban Định Viễn than ôi
Trong ải Ngọc đừng nhớ nhung gì cả
Dịch thơ:
Khúc sáo Hồ già – Vương Trinh Bạch
Hồ già buồn đáy Lũng
Đầu Lũng gió mịt mùng
Vầng trăng chìm sương lạnh
Vạn dặm ải thiên không
Lính thú lệ sắp hết
Trai Hồ khóc không ngừng
Lệnh truyền Ban Định Viễn
ẢI Ngọc đừng nhớ nhung.
NHÀ THƠ CAO BIỀN
Cao
Biền 高駢 (821-887) tự Thiên Lý 千里,
tướng đời Hậu Đường, cháu của Nam Bình đô vương Cao Sùng Văn (tướng cấm quân dưới
triều vua Đường Hiến Tông Lý Thuần).
Đầu đời vua Ý Tông, Cao Biền trấn giữ biên cương chống sự xâm lược của giặc Thổ Phồn 吐蕃. Năm Cảm Thông thứ 7 (866), Cao Biền trấn giữ An Nam, làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Năm Càn Phù thứ 2 (875) đời Hy Tông, chuyển sang trấn giữ Tây Xuyên.
Đầu đời vua Ý Tông, Cao Biền trấn giữ biên cương chống sự xâm lược của giặc Thổ Phồn 吐蕃. Năm Cảm Thông thứ 7 (866), Cao Biền trấn giữ An Nam, làm Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Năm Càn Phù thứ 2 (875) đời Hy Tông, chuyển sang trấn giữ Tây Xuyên.
Tái thượng ký gia huynh – Cao Biền
Lệ
ngạc phân trương tín sứ hy,
Kỷ đa hương lệ thấp chinh y.
Già thanh vị đoạn trường tiên đoạn,
Vạn lý Hồ thiên điểu bất phi.
Kỷ đa hương lệ thấp chinh y.
Già thanh vị đoạn trường tiên đoạn,
Vạn lý Hồ thiên điểu bất phi.
Dịch
nghĩa:
Ngoài ải gửi anh trai – Cao Biền
Anh em mình cách xa nhau, tin
tức vắng
Bao nhiêu nước mắt nhớ quê làm ướt áo trận
Tiếng kèn lá chưa dứt hồn đã dứt
Trời Hồ muôn dặm không có bóng chim bay
Bao nhiêu nước mắt nhớ quê làm ướt áo trận
Tiếng kèn lá chưa dứt hồn đã dứt
Trời Hồ muôn dặm không có bóng chim bay
Dịch thơ:
Ngoài ải gửi anh trai – Cao Biền
Anh em mình xa cách bấy
lâu
Nước mắt nhớ quê, áo trận
nhàu
Chưa dứt tiếng kèn hồn đã đoạn
Trời Hồ muôn dặm bóng chim đâu?
Phiên âm:
Đối tuyết – Cao Biền
Lục
xuất phi hoa nhập hộ thì,
Toạ khan thanh trúc biến quỳnh chi.
Như kim hảo thướng cao lâu vọng,
Cái tận nhân gian ác lộ kỳ.
Toạ khan thanh trúc biến quỳnh chi.
Như kim hảo thướng cao lâu vọng,
Cái tận nhân gian ác lộ kỳ.
Dịch
nghĩa:
Trước cảnh tuyết
– Cao Biền
Hoa tuyết sáu cánh bay lất phất
vào trong nhà
Ngồi nhìn cây trúc xanh biến thành quỳnh trắng
Hôm nay thích lên lầu cao mà ngắm cảnh
Ở nhân gian tuyết phủ đầy các hang cùng ngõ ngách.
Ngồi nhìn cây trúc xanh biến thành quỳnh trắng
Hôm nay thích lên lầu cao mà ngắm cảnh
Ở nhân gian tuyết phủ đầy các hang cùng ngõ ngách.
Dịch
thơ:
Trước cảnh tuyết
– Cao Biền
Hoa tuyết bay lất phất vào
nhà
Nhìn xanh cây trúc hóa quỳnh
hoa
Hôm nay thích lên lầu ngắm cảnh
Tuyết đầy ngõ ngách khắp xứ
ta.
Phiên âm:
Khuê oán – Cao Biền
Nhân thế bi hoan bất khả tri,
Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy.
Như kim hữu hiến chinh nam sách,
Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y.
Phu quân sơ phá Hắc Sơn quy.
Như kim hữu hiến chinh nam sách,
Tảo vãn thôi phùng đới hiệu y.
Dịch thơ:
NỖI OÁN PHÒNG KHUÊ – Cao Biền
Vui buồn nhân thế có biết chi
Chàng phá Hắc Sơn mới trở về
Nay lại Nam chinh dâng
kế sách
Sớm hôm cứ giục may chinh y.
Phiên âm:
Phỏng ẩn giả bất ngộ - Cao Biền
Lạc hoa lưu thuỷ nhận Thiên
Thai,
Bán tuý nhàn ngâm độc tự lai.
Trù trướng tiên ông hà xứ khứ,
Mãn đình hồng hạnh bích đào khai.
Bán tuý nhàn ngâm độc tự lai.
Trù trướng tiên ông hà xứ khứ,
Mãn đình hồng hạnh bích đào khai.
Dịch thơ:
Đến thăm người ở ẩn không gặp – Cao Biền
Hoa rơi nước chảy ở Thiên
Thai
Say rượu ngâm thơ đến cùng ai
Buồn bã tiên ông đi đâu vắng
Đầy sân hồng hạnh bích đào khai
Say rượu ngâm thơ đến cùng ai
Buồn bã tiên ông đi đâu vắng
Đầy sân hồng hạnh bích đào khai
Phiên âm:
Phó An Nam
khước ký đài ty – Cao Biền
Tằng khu vạn mã thướng Thiên San,
Phong khứ vân hồi khoảnh khắc gian.
Kim nhật Hải Môn Nam quốc sự,
Mạc giao hoàn tự Phụng Lâm quan.
Phong khứ vân hồi khoảnh khắc gian.
Kim nhật Hải Môn Nam quốc sự,
Mạc giao hoàn tự Phụng Lâm quan.
Bài này được làm trong giai đoạn 864-875 khi tác giả làm Chinh nam
tướng quân. Đài ty là một chức quan nhỏ. An Nam
là vùng đất chỉ nước Việt Nam
trong thời kỳ bắc thuộc.
Dịch
thơ:
Gửi viên đài ty đi An Nam – Cao Biền
Từng ruổi vạn mã tới
Thiên Sơn
Thoáng chốc gió núi gặp mây
ngàn
Hôm nay chuyện Hải Môn Nam quốc
Xin anh đừng nhớ Phụng Lâm
quan
Bản dịch thơ của Vũ Minh Tân
Lên Thiên Sơn anh từng ruổi
ngựa
Thoáng chốc mây gặp gió mây tan
Nay xuôi cửa biển nước Nam
Xin anh nhớ chuyện Phụng Lâm độ nào
Thoáng chốc mây gặp gió mây tan
Nay xuôi cửa biển nước Nam
Xin anh nhớ chuyện Phụng Lâm độ nào
Nguyễn Ngọc Kiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét