Tham luận của nhà nghiên cứu
ĐỒNG NGỌC HOA - Chánh VP hội sử học Nam Định
Nhà NC Đồng Ngọc Hoa |
Tham
luận gồm ba phần:
-
Quê hương Nam
Định với đồng chí Lê Đức Thọ
-
Điểm những hoạt động cách mạng của đồng chí Lê Đức Thọ
-
Đồng Chí Lê Đức Thọ với người chiến sĩ
Nam Định có nền
văn hiến lâu đời, là đất địa linh nhân kiệt. Nam Định là nơi nhà Trần khởi
nghiệp và phát tích của các vua Trần, quê hương của Hưng Đạo đại vương Trần
Quốc Tuấn cùng với quân dân Đại Việt ba lần đánh thắng quân Nguyên mông xâm
lược nước ta. Quê hương của nhiều vị trạng nguyên nổi tiếng như: Đào Sư Tích,
Trần Văn Bảo, Vũ Tuấn Chiêu, Nguyễn Hiền, Lương Thế Vinh và nhiều chiến sĩ cách
mạng ưu tú trong đó có Lê Đức Thọ.
Đồng chí lê Đức Thọ tên thật là Phan
Đình Khải, sinh ngày 10-10-1911 tại xã Địch Lễ huyện Mỹ Lộc nay là xã Nam Vân
thành phố Nam Định. Thân mẫu đồng chí là người có công với cách mạng, đã nuôi
dấu nhiều cán bộ việt minh hoạt động trên địa bàn như: Nguyễn Lương Bằng, Hoàng
Quốc Việt, Nguyễn Văn Linh vv... Đồng chí là anh ruột của đồng chí thượng tướng
Đinh Đức Thiện và đại tướng bộ trưởng bộ công an Mai Chí Thọ. Chính mảnh đất
văn hiến lâu đời với địa linh nhân kiệt, truyền thống cách mạng của quê hương
và gia đình đã nâng bước cho đồng chí trở thành một chiến sĩ công sản ưu tú,
một học trò xuất sắc của chủ tịch Hồ chí Minh.
Năm 1858 giặc Pháp bắn quả đại bác đầu tiên
vào cảng Tiên Sa của Đà Nẵng báo hiệu sự xâm lược của chúng vào việt nam. Vua
quan nhà Nguyễn thỏa hiệp cho chúng chiếm Nam bộ, Năm 1873 chúng đánh chiếm Nam
Định, nhiều cuộc khởi nổi dậy nhưng đều bị dìm trong bể máu. Năm 16 tuổi đồng
chí cùng với các đồng chí như Trường Trinh, Lê Đức Cảnh, Nguyễn Cơ Thạch, Nguyễn
Văn Hoan đang học tại các trường Pháp Việt ở thành phố Nam Định đã mãn khóa đấu
tranh đòi làm lễ truy điệu cụ Phan Chu Trinh. Tháng 10/1929 đồng chí được kết
nạp vào Đông Dương cộng sản đảng. tháng 11/1929 đồng chí bị giặc bắt kết án 10
năm tù khổ sai đày đi Côn Đảo. Năm 1936 ra tù đồng chí được giao phụ trách công
tác báo chí công khai của đảng bộ và xây dựng cơ sở bí mật của đảng ở Nam Bộ.
Năm 1939 đồng chí lại bị địch bắt kết án tù 5 năm giam tại các nhà tù Hà nội ,
Hòa Bình, Sơn La. Năm 1944 đồng chí là ủy viên BCH trung ương đảng phụ trách xứ
ủy Bắc Kỳ và là một trong những đồng chí lãnh đạo chủ chốt của cách mạng tháng
tám 1945. Sau cách mạng tháng tám đồng chí được cử phụ trách công tác tổ chức
của Đảng kiêm trưởng ban dân vận trung ương.
Tháng 5/1949 đồng chí được cử vào công tác tại xứ ủy Nam Kỳ. Trong thời
gian đồng chí Lê Duẩn ra Bắc công tác đồng chí là bí thư và trưởng ban tổ
chức trung ương cục miền Nam
và chính ủy quân khu miền tây. Đồng chí đã xây dựng hậu phương vững mạnh, đánh
thắng địch trên khắp các chiến trường. năm 1954 hiệp định Giơ- ne- vơ được ký
kết, đồng chí Lê Đức Thọ đã có đề xuất quan trọng là duy trì lực lương ở lại
miền nam đề phòng địch không thực hiện hiệp định. Tháng 1-1955 đồng chí tập kết
ra bắc làm trưởng ban thống nhất trung ương. Cuối năm 1955 đồng chí được bổ
xung vào bộ chính trị phụ trách công tác sửa sai trong cải cách ruộng đất. Tại
đại hội toàn quốc lần thứ 3 đồng chí được bầu vào BCH trung ương, bộ chính trị
và trưởng ban tổ chức trung ương. Năm 1968 đồng chí được cử vào nam công tác,
giữ chức phó bí thư trung ương cục miền nam nhưng sau đó Bác Hồ lại viết thư đề
nghị bộ chính trị mời đồng chí ra bắc để tham gia phái đoàn đàm phán của chính
phủ VNDCCH tại hội nghị Pa ri. Theo đánh giá của đài các nước phương tây thì
đồng chí là người thương thuyết có bản lĩnh, có tài năng, là người có tiếng nói
rất quyết định trong đoàn đàm phán tại hiệp định Pa- ri. Thắng lợi ở hội nghị Pa- ri có đóng góp quan trọng của đồng chí, những cống
hiến của đồng chí ở hiệp định góp phần làm rạng danh nền ngoại giao Việt Nam trên trường
quốc tế. Hội nghị thành công đồng chí lại từ chối giải thưởng No- bel vì hòa
bình, vì giải thưởng này trao chung cho đồng chí và Henry Kissinger không
phân biệt được người gây chiến tranh với người kiến tạo hòa bình, làm lẫn lộn
giữa kẻ xâm lược và người bị xâm lược.
Tháng 3-1975 đồng chí được bộ chính trị cử vào
miền Nam để phổ biến nghị
quyết của bộ chính trị về việc giải phóng Miền Nam đồng chí làm chính ủy chiến dịch
Hồ Chí Minh. Ngày 30-4-1975 quân ta toàn thắng, ngụy quân ngụy quyền sài Gòn
đầu hàng vô điều kiện. Niềm vui khác thường ở nhiều đơn vị bùng nổ vang trời
dậy đất, nhiều người không giữ được nước mắt khi Sài Gòn được giải phóng, tổ
quốc thống nhất. Tại đại hội 4 đồng chí được bầu lại vào ủy viên BCH trung ương,
bộ chính trị và trưởng ban tổ chức trung ương.
Những
cống hiến lớn lao của đồng chí trong quá trình hoạt động cách mạng đã có những đóng
góp lớn lao trong hai cuộc kháng chiến trường kì của dân tộc, làm rạng danh
truyền thống cách mạng của gia đình và quê hương Nam Định thân yêu.
Đồng chí Lê Đức Thọ là một chiến sĩ cộng sản
kiên cường suốt đời đấu tranh cho độc lập tự do, giải phóng dân tộc và thống
nhất tổ quốc. Hoạt động cách mạng của đồng chí gắn liền với người chiến
sĩ vì chính đồng chí cũng là một chiến si, chiến sĩ cộng sản. ông không phải là
người trực tiếp cầm quân, không phải là nhà thơ chuyên nghiệp nhưng ông lại
viết rất nhiều thơ. Thơ của ông thường có tính thời sự sâu sắc, và chứa chan
tình cảm cách mạng, tha thiết yêu đời với suy nghĩ sâu sắc chân thành của một
nhà hoạt đông chính trị tài năng. Đặc biệt những bài thơ viết về người chiến sĩ
của ông là động lực thúc đẩy bản lĩnh người cầm súng vượt lên khó khăn gian khổ
anh dũng chiến đấu không sợ hy sinh, là bản anh hùng ca của thời đại:
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết
xung phong
Hồ Chí Minh
Dùng cán bút làm đòn xoay
chế độ
Mỗi vần thơ bom đạn phá
cường quyền
Sóng Hồng
Lê
Đức Thọ cũng kế thừa thể hiện nhất quán quan điểm lập trường của người mang trách
nhiệm nghệ sĩ chiến sĩ
Bút sắc đâm bao thằng cướp
nước
Mực hòa với máu viết thành
văn
Bài thương đời chiến sĩ
viết thêm hay
Ông
có nhiều bài thơ như: Xà lim oán, Ý xuân, Em liên lạc, Mưa rơi, Bình Trị Thiên,
Cửu Long, Bụi Trường Sơn, Lời anh dặn… và cả một tuyển tập thơ Lê Đức Thọ.
Nhưng những bài thơ về chiến sĩ là những bài thơ cảm động nhất
Giữa
rừng nấm đất còn tươi
Mồ ai mưa gió ai
người viếng thăm
Anh vui giấc ngủ ngàn năm
Thương anh ngày
tháng hờn căm chất chồng
Anh nằm dưới đó nghe
không
Hôm nay bom đan nổ tung
Sài Thành
Ngày vui Tổ quốc nhớ anh
Chiến công này có công anh
góp phần
Mồ chiến sĩ
Cứ
nghĩ đến bộ đội là ông thương:
Lo cho anh bộ đội
Lầy lội quãng đường dài
Hết tăng rồi lại pháo
Mong chẳng thấy tăm hơi
Mưa rơi
Thương
mấy anh lái xe:
Suốt đêm ngày lặn lội
Trường
Sơn vượt mấy lần
Đã hít bao nhiêu bụi
Bụi
trường sơn
Nằm
ở đại bản doanh giữa rừng ông sốt ruột lo lắng đến không ngủ:
Chiến trường chờ từng phút
Đừng
mưa nữa mưa ơi
Để đường mau khô ráo
Cho xe vào tới nơi
Mưa rơi
Và
ông cùng đồng đội trực chiến:
Võng đua đưa mắc ở mé rừng
Cùng đồng đội chờ giờ xuất
kích
Gió nhè nhẹ trong đêm
khuya tĩnh mịch
Muỗi vo ve tiếng lá
thổi rì rào
Rừng trong đêm lấp lánh
mảnh trời sao
Và
dự cảm của ông:
Qua năm tháng hành quân
Tất cả dồn vào trận đánh
Giải phóng Miền Nam mong đợi từng
ngày
Đời bộ đội ước mơ nào hơn
thế
Người chiến sĩ cuối cùng
Đặc
biệt là bài “Điểm tựa” ông làm năm 1982 tặng bộ đội trong chuyến đi thăm đồn
biên phòng Cha Lo 127 gần biên giới Việt Lào. Bài thơ Điểm tựa là tiếng nói từ
trái tim ông đã đến với trái tim chiến sĩ và lay động hàng triệu trái tim người
đọc người nghe.
Ông
cũng rét cái rét của người chiến sĩ:
Hàn thử biểu chỉ độ không
Hôm nay trời rét lắm
Cái rét biên thùy lạnh
buốt thịt da
Cả núi rừng chìm đắm dưới
sương khuya
Ngày xưa Bác Hồ cũng thức
suốt đêm trước cái rét ở chiến khu, ở mặt trận và trả lời người đội viên khẩn
khoản mời Bác ngủ:
Chú cứ việc ngủ ngon
Ngày
mai đi đánh giặc
Bác thức thì mặc bác
Bác ngủ không yên lòng
Bác thương đoàn dân công
Đêm nay ngủ ngoài rừng
Lấy lá cây làm chiếu
Manh áo mỏng làm chăn
…Đêm nay Bác không ngủ
Lê
Đức Thọ không ngủ được vì cũng thương người chiến sĩ khi lên thăm chốt và chỉ những
người đã từng lăn lộn ở chiến trường với người chiến sĩ mới thấu cảm được như
vậy:
Trằn trọc mãi thâu đêm chả
ngủ
Thương anh nhiều anh chiến
sĩ của tôi ơi
Điểm tự trên cao anh đứng
giữa đỉnh đồi
Một
mảnh áo bông thay nhau khi đổi gác
Súng lạnh buốt trong tay
mắt hướng về phía trước
Tai lắng nghe từng tiếng
động trong đêm
Ông
cũng biết ơn người chiến sĩ, đây là tình cảm của một cán bộ cấp cao với người lính
bình thường.
Tôi nhớ buổi chiều anh
cõng tôi lên
Thương tôi yếu không thể
nào leo hết dốc
Hơi ấm lưng anh sưởi ấm cả
lòng tôi
Khau Chia đây rồi anh nở
nụ cười tươi.
Ông
gần gũi, tâm sự và thấu hiểu tâm trạng người chiến sĩ những thanh niên nặng gánh
gia đình đã bỏ hết mấy sào ruông khoán lên đường ra mặt trận, biết được những
khó khăn vất vả thiếu thốn của người lính kể cả vật chất, tinh, tinh thần:
Đời Chiến sĩ còn nhiều khổ
cực
Quần áo mỏng manh cơm có
bữa chưa no
Đường gập gềnh khúc khửu
quanh co
Đôi lúc hỏng xe hàng không
tới được
Gạo sấy khoai mỳ bát canh
toàn quốc
Và nước chấm đại dương đỡ
lúc đói lòng
Cũng có lúc thịt ấm chân
răng
Nhưng có khi cơm toàn muối
trắng
Sinh hoạt tinh thần thì
bao thiếu thốn
Cả năm trời có một
lần phim
Báo Đảng báo đoàn ít có để
xem
Đại đội một tờ mấy khi tới
được
Điệu
múa lờ ca thì xa vời vợi
Ngày lại ngày nghe chim
hót đầu non
Cả đơn vị anh không một
cây đàn
Mấy
tháng một lần thư nhà mới tới
Mẹ lại dục về vì mấy sào
ruông khoán
Thiếu
bàn tay lao đông để tăng gia
Thư
của người yêu mỏi mắt đợi chờ
Mực đã
cạn lại thiếu tờ giấy viết
Mối tình thắm cũng
có lúc nghi ngờ phai nhạt
Nhưng thời gian tất cả sẽ
trôi qua
Dù
khó khăn là mấy nhưng :
Đất nước khó khăn quân thù
còn đó
Mộ
liệt sĩ hôm nào mới xanh ngọn cỏ
Thì
người chiến sĩ lại quyết tâm:
Phải giữ lấy đất này
Cho hôm nay và cho cả mai
sau
Và
cũng là lời hứa của người chiến sĩ với đảng khi khi chia tay ông:
Tạm biệt anh trong vòng
tay siết chặt
Anh hôn tôi một cái hôn
tha thiết
Mắt long lanh như thầm gửi
điều gì
Điều
mà ông day dứt là:
Làm sao anh được ấm thêm
đôi chút
Bát cơm đầy thêm thịt cá
rau tươi.
Mong
ước của ông đã bừng lên phong trào cả nước hướng về biên giới hải đảo, phong trào
áo ấm chiến sĩ của các mẹ các chị ở khắp mọi nơi. Các đơn vị quân đội cũng phát
đông phong trào tự sản tự tiêu, trồng nhiều rau xanh, nuôi thêm gà vịt. Đặc
biệt ở quân khu 3 có phong trào “ Tự đứng dậy nuôi nhau 6 tháng” để dành những
gì tốt nhất cho các chiến sĩ ở Biên giới và hải đảo.
Lê
Đức Thọ không mục đích làm thơ để mang danh nghệ sĩ nhưng những vần thơ của ông
đã nói lên chí khí của mình đấu tranh không mệt mỏi cho cách mạng, những vần thơ
góp phần động viên lớp lớp ra trận cứu nước. Những vần thơ biết ơn những người
đã anh dũng hy sinh đặc biệt là những vần thơ gần gũi với chiến sĩ ở khắp mọi nẻo
đường chiến trận và thơ ông cũng là chỉ thị, mệnh lệnh của Đảng, là lời hứa với
đảng và cả dân tộc.
Bài
viết cho hội thảo về
Lê Đức Thọ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc do học viện chính tri quốc gia Hồ
Chí Minh Viện Hồ chí Minh và các lãnh tụ của đảng Cùng tỉnh ủy Nam Định tổ
chức.
Đồng Ngọc Hoa
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét