TS Nguyễn Ngọc Kiên |
NHÀ THƠ TRỪ QUANG HY
Trừ
Quang Hy 儲光羲 (khoảng 706-763), thi nhân đời Đường. Ông đỗ tiến sĩ
năm Khai Nguyên thứ 14 (725), cùng triều với Thôi Quốc Phụ 崔國輔, Kỳ Vô Tiềm 綦毋潛.
QUAN
SAN NGUYỆT – TRỪ QUANG HY – THỊNH ĐƯỜNG
Nhất nhạn quá liên dinh,
Phồn sương phúc cổ thành.
Hồ già tại hà xứ,
Bán dạ khởi biên thanh.
Phồn sương phúc cổ thành.
Hồ già tại hà xứ,
Bán dạ khởi biên thanh.
Dịch
nghĩa:
TRĂNG
NƠI QUAN ẢI – TRỪ QUANG HY
Một con nhạn bay qua liên
doanh trại,
Sương dày đặc bao phủ cổ thành.
Không biết kèn lá của người Hồ phát ra từ đâu,
Mà cứ nửa đêm là nghe được âm thanh miền biên ải.
Sương dày đặc bao phủ cổ thành.
Không biết kèn lá của người Hồ phát ra từ đâu,
Mà cứ nửa đêm là nghe được âm thanh miền biên ải.
Dịch thơ:
TRĂNG
NƠI QUAN ẢI – TRỪ QUANG HY
Nhạn bay vút quân doanh
Sương bao phủ cổ thành
Kèn Hồ từ đâu đó
Nửa đêm rộn âm thanh.
TRƯỜNG
AN ĐẠO KÌ 1 – TRỪ QUANG HY
Minh tiên quá tửu tứ
Khứ phục du xương môn
Bách vạn nhất thời tận
Hàm tình vô phiến ngôn.
Khứ phục du xương môn
Bách vạn nhất thời tận
Hàm tình vô phiến ngôn.
Dịch
nghĩa:
ĐƯỜNG TRƯỜNG AN KÌ 1 – TRỪ
QUANG HY
Quất roi đi qua quán rượu
Phất áo đi vào chốn ca lâu
Trăm vạn tiền tiêu hết trong một lúc
Ngậm ngùi trong lòng không nói nổi một lời.
Phất áo đi vào chốn ca lâu
Trăm vạn tiền tiêu hết trong một lúc
Ngậm ngùi trong lòng không nói nổi một lời.
Dịch thơ:
ĐƯỜNG TRƯỜNG AN KÌ 1 – TRỪ
QUANG HY
Quất roi qua quán rượu
Phất áo chốn ca lâu
Trăm vạn tiêu một lúc
Ngậm ngùi lời lẽ đâu?
Phiên
âm:
TRƯỜNG
AN ĐẠO KÌ 2 – TRỪ QUANG HY
Tây hành nhất thiên lý,
Minh sắc sinh hàn thụ.
Ám văn ca xuy thanh,
Tri thị Trường An lộ.
Minh sắc sinh hàn thụ.
Ám văn ca xuy thanh,
Tri thị Trường An lộ.
Dịch
nghĩa:
ĐƯỜNG TRƯỜNG AN KÌ 2 – TRỪ QUANG HY
Đi về phía tây một ngàn dặm
Bóng tối làm cho cây lạnh lẽo
Nghe văng vẳng tiếng ca hát
Biết rằng đang trên đường Trường An.
Bóng tối làm cho cây lạnh lẽo
Nghe văng vẳng tiếng ca hát
Biết rằng đang trên đường Trường An.
Dịch thơ:
ĐƯỜNG TRƯỜNG AN KÌ 2 – TRỪ
QUANG HY
Về Tây một ngàn dặm
Bóng tối cây sắc hàn
Văng vẳng nghe tiếng hát
Biết rằng tới Trường An
NHÀ THƠ GIẢ CHÍ
Giả
Chí 賈至 (718-772) tự Ấu Lân 幼鄰,
có bản chép Ấu Kỷ 幼幾, người Lạc Dương. Cha ông là Giả Tăng 賈曾 từng làm soạn sách văn cho Huyền Tông. Ông làm Trung
thư xá nhân dưới triều Túc Tông, sau làm Nhữ Châu thứ sử, Hữu tán kỵ thường thị.
Tác phẩm có "Giả Chí tập" 20 quyển đã thất truyền.
XUẤT
TÁI KHÚC – GIẢ CHÍ (THỊNH ĐƯỜNG)
Vạn lý bình sa nhất tụ trần,
Nam phi vũ hịch bắc lai nhân.
Truyền đạo Ngũ Nguyên phong hoả cấp,
Thiền Vu tạc dạ khấu tây Tần.
Nam phi vũ hịch bắc lai nhân.
Truyền đạo Ngũ Nguyên phong hoả cấp,
Thiền Vu tạc dạ khấu tây Tần.
Dịch
nghĩa:
BÀI
CA RA ẢI – GIẢ CHÍ (THỊNH ĐƯỜNG)
Bãi cát dài vạn dặm có một chỗ
để cát bụi tụ hội,
Hịch gọi tòng quân bay ở phương nam, có người lên ải bắc.
Lửa trên đài báo nguy của ải Ngũ Nguyên đang báo tin khẩn:
Đêm qua chúa Thiền Vu đã xâm chiếm đất Tần phía tây.
Hịch gọi tòng quân bay ở phương nam, có người lên ải bắc.
Lửa trên đài báo nguy của ải Ngũ Nguyên đang báo tin khẩn:
Đêm qua chúa Thiền Vu đã xâm chiếm đất Tần phía tây.
Dịch thơ:
BÀI
CA RA ẢI – GIẢ CHÍ (THỊNH ĐƯỜNG)
Cát xa vạn dặm lẫn bụi trần
Người tới ải bắc, hịch tòng
quân
Đài Ngũ Nguyên báo tin hỏa tốc
Đêm Thuyền Vu đã chiếm Tây Tần.
XUÂN
TỨ KÌ 1 – GIẢ CHÍ
Thảo sắc thanh thanh liễu sắc
hoàng,
Đào hoa lịch loạn lý hoa hương.
Đông phong bất vị xuy sầu khứ,
Xuân nhật thiên năng nhạ hận trường.
Đào hoa lịch loạn lý hoa hương.
Đông phong bất vị xuy sầu khứ,
Xuân nhật thiên năng nhạ hận trường.
Dịch
nghĩa:
Ý
NGHĨ MÙA XUÂN KÌ 1 - GIẢ CHÍ
Màu cỏ xanh xanh, màu tơ liễu
vàng vàng,
Hoa đào đang tơi tả, hoa mận còn thơm.
Gió đông đã không giúp thổi cho hết phiền muộn,
Lại còn làm tăng thêm mối hận khi xuân về.
Hoa đào đang tơi tả, hoa mận còn thơm.
Gió đông đã không giúp thổi cho hết phiền muộn,
Lại còn làm tăng thêm mối hận khi xuân về.
Dịch
thơ:
Ý
NGHĨ MÙA XUÂN KÌ 1 - GIẢ CHÍ
Màu cỏ xanh xanh liễu sắc
vàng
Hoa đào tơi tả, mận còn hương
Gió đông chẳng thổi bay phiền
muộn
Lại khiến mùa xuân mối hận
tăng.
Phiên âm:
XUÂN
TỨ KÌ 2 – GIẢ CHÍ
Hồng phấn đương lư nhược liễu
thuỳ,
Kim hoa lạp tửu giải đồ my.
Sinh ca nhật mộ năng lưu khách,
Tuý sát Trường An khinh bạc nhi.
Kim hoa lạp tửu giải đồ my.
Sinh ca nhật mộ năng lưu khách,
Tuý sát Trường An khinh bạc nhi.
Dịch thơ:
Ý NGHĨ
MÙA XUÂN KÌ 2 - GIẢ CHÍ
Quán má hồng, liễu nhả
tơ kia,
Hoa vàng rượu nhạt giải đồ mi.
Ca sênh chiều tối lưu lòng khách,
Say chết Trường An kẻ nhớ quê.
Hoa vàng rượu nhạt giải đồ mi.
Ca sênh chiều tối lưu lòng khách,
Say chết Trường An kẻ nhớ quê.
Phiên
âm:
SƠ
CHÍ BA LĂNG DỮ LÍ THẬP NHỊ BẠCH, BÙI CỬU ĐỒNG PHIẾM ĐỘNG ĐÌNH HỒ KÌ 1 – GIẢ CHÍ
Giang thượng tương phùng giai
cựu du,
Tương sơn vĩnh vọng bất kham sầu.
Minh nguyệt thu phong Động Đình thuỷ,
Cô hồng lạc diệp nhất thiên chu.
Tương sơn vĩnh vọng bất kham sầu.
Minh nguyệt thu phong Động Đình thuỷ,
Cô hồng lạc diệp nhất thiên chu.
Dịch
nghĩa:
VỪA
ĐẾN BA LĂNG CÙNG LÍ BẠCH VÀ BÙI CỬU DU NGOẠN HỒ ĐỘNG ĐÌNH KÌ 1 – GIẢ CHÍ
Gặp nhau trên sông những bạn từng cùng du ngoạn
trước đây,
Từ xa ngắm núi Tương không nén nổi cơn sầu.
Trăng sáng và gió thu thổi trên mặt hồ Động Đình,
Con hồng lẻ và nhiều lá rơi bay qua chiếc thuyền con.
Từ xa ngắm núi Tương không nén nổi cơn sầu.
Trăng sáng và gió thu thổi trên mặt hồ Động Đình,
Con hồng lẻ và nhiều lá rơi bay qua chiếc thuyền con.
Dịch
thơ:
VỪA
ĐẾN BA LĂNG CÙNG LÍ BẠCH VÀ BÙI CỬU DU NGOẠN HỒ ĐỘNG ĐÌNH KÌ 2 – GIẢ CHÍ
Bạn cũ trên sông nay gặp
nhau
Xa ngắm núi Tương chẳng nén sầu
Trăng sáng gió thu Động Đình
thổi
Cô hồng lá rụng biết bay đâu.
Gia Lăng nay thuộc huyện Nhạc Dương, tỉnh Hồ Nam. Năm 759, Lý Bạch trên đường lưu đày thì nhận được chiếu vua ban tha tội. Ông ở lại vùng hồ Động Đình ngao du từ hạ sang thu, tình cờ gặp Giả Chí trên đường bị biếm đi Nhạc châu làm tư mã, nên mới có 3 bài này.
Phiên
âm:
SƠ
CHÍ BA LĂNG DỮ LÍ THẬP NHỊ BẠCH, BÙI CỬU ĐỒNG PHIẾM ĐỘNG ĐÌNH HỒ KÌ 2 – GIẢ CHÍ
Phong ngạn phân phân lạc diệp
đa,
Động Đình thu thuỷ vãn lai ba.
Thừa hứng khinh chu vô cận viễn,
Bạch vân minh nguyệt điếu Tương Nga.
Động Đình thu thuỷ vãn lai ba.
Thừa hứng khinh chu vô cận viễn,
Bạch vân minh nguyệt điếu Tương Nga.
Dịch
nghĩa:
VỪA
ĐẾN BA LĂNG CÙNG LÍ BẠCH VÀ BÙI CỬU DU NGOẠN HỒ ĐỘNG ĐÌNH KÌ 2 – GIẢ CHÍ
Hàng cây phong trên bờ trút nhiều lá,
Buổi chiều, hồ Động Đình nổi sóng.
Đang có hứng, chèo chiếc thuyền nhỏ đi bất kể xa gần,
Mây trắng và trăng sáng như đang khóc nữ thần sông Tương.
Buổi chiều, hồ Động Đình nổi sóng.
Đang có hứng, chèo chiếc thuyền nhỏ đi bất kể xa gần,
Mây trắng và trăng sáng như đang khóc nữ thần sông Tương.
Dịch
thơ:
VỪA
ĐẾN BA LĂNG CÙNG LÍ BẠCH VÀ BÙI CỬU DU NGOẠN HỒ ĐỘNG ĐÌNH KÌ 2 – GIẢ CHÍ
Trên bến hàng phong lá trút
ra
Động Đình chiều đến nổi phong
ba
Chèo thuyền đang hứng đi bất
kể
Mây trắng trăng trong khóc
Tương Nga
Phiên
âm:
SƠ
CHÍ BA LĂNG DỮ LÍ THẬP NHỊ BẠCH, BÙI CỬU ĐỒNG PHIẾM ĐỘNG ĐÌNH HỒ KÌ 3 – GIẢ CHÍ
Giang bạn phong diệp sơ đới
sương,
Trữ biên cúc hoa diệc dĩ hoàng.
Khinh chu lạc nhật hứng bất tận,
Tam Tương Ngũ Hồ ý hà trường.
Trữ biên cúc hoa diệc dĩ hoàng.
Khinh chu lạc nhật hứng bất tận,
Tam Tương Ngũ Hồ ý hà trường.
Dịch
nghĩa:
VỪA
ĐẾN BA LĂNG CÙNG LÍ BẠCH VÀ BÙI CỬU DU NGOẠN HỒ ĐỘNG ĐÌNH KÌ 3 – GIẢ CHÍ
Lá phong ven sông bắt đầu nhuốm
sương,
Hoa cúc trên biên ải đã vàng.
Chiều xuống mà (khách trên) thuyền nhẹ hứng thú chưa hết,
Ý thơ dài như Tam Tương và Ngũ Hồ.
Hoa cúc trên biên ải đã vàng.
Chiều xuống mà (khách trên) thuyền nhẹ hứng thú chưa hết,
Ý thơ dài như Tam Tương và Ngũ Hồ.
Dịch
thơ:
VỪA
ĐẾN BA LĂNG CÙNG LÍ BẠCH VÀ BÙI CỬU DU NGOẠN HỒ ĐỘNG ĐÌNH KÌ 3 – GIẢ CHÍ
Lá phong ven sông đã
nhuốm sương
Hoa cúc đã vàng đất biên
cương
Chiều xuống thuyền nhẹ hứng bất
tận
Ý thơ tựa Ngũ Hồ Tam Tương.
NHÀ THƠ NHUNG DỤC
Nhung
Dục 戎昱 người Kinh Nam (nay thuộc Giang Lăng, Hồ Bắc,
Trung Quốc), đỗ tiến sĩ. Khi Vệ Bá Ngọc giữ Kinh Nam, ông làm tòng sự. Năm Kiến
Trung, ông làm thứ sử Thần, Kiền Châu. Thơ có 5 quyển, biên thành 1 quyển trong
"Toàn Đường thi".
HỒ
NAM
XUÂN NHẬT KÌ 1 – NHUNG DỤC (TRUNG ĐƯỜNG)
Tự liên xuân nhật khách Trường
Sa,
Giang thượng vô nhân chuyển ức gia.
Quang cảnh khước thiêm tương tư khổ,
Thiềm tiền sổ phiến lạc mai hoa.
Giang thượng vô nhân chuyển ức gia.
Quang cảnh khước thiêm tương tư khổ,
Thiềm tiền sổ phiến lạc mai hoa.
Dịch
nghĩa:
NGÀY
XUÂN Ở HỒ NAM
(KÌ 1) – NHUNG DỤC
Tự thương mình làm lữ khách ở
Trường Sa khi xuân về,
Trên sông không có người làm ta nhớ nhà.
Quang cảnh càng làm nỗi nhớ buồn khổ hơn,
Khi trước diềm mái nhà có vài cánh hoa mai rơi.
Trên sông không có người làm ta nhớ nhà.
Quang cảnh càng làm nỗi nhớ buồn khổ hơn,
Khi trước diềm mái nhà có vài cánh hoa mai rơi.
Dịch thơ:
NGÀY
XUÂN Ở HỒ NAM
(KÌ 1) – NHUNG DỤC
Thương mình xuân đến ở Trường Sa
Trên bến chẳng ai khiến nhớ nhà
Quang cảnh càng làm thêm buồn
khổ
Trước thềm rơi vài cánh mai
hoa
Phiên
âm:
HỒ
NAM
XUÂN NHẬT KÌ 2 – NHUNG DỤC
Tam
Tương phiêu ngụ nhược lưu bình,
Vạn lý Tương Hương cách Động Đình.
Ky khách xuân lai tâm dục toái,
Đông phong mạc khiển liễu điều thanh.
Vạn lý Tương Hương cách Động Đình.
Ky khách xuân lai tâm dục toái,
Đông phong mạc khiển liễu điều thanh.
Dịch
nghĩa:
NGÀY
XUÂN Ở HỒ NAM
(KÌ 2) – NHUNG DỤC
Sống trôi nổi khắp Tam Tương
như cánh bèo trôi,
Tương Hương cách hồ Động Đình cả vạn dặm.
Xuân về mà lòng viễn khách tan nát,
Gió đông cũng đâu làm cho cành liễu xanh tươi.
Tương Hương cách hồ Động Đình cả vạn dặm.
Xuân về mà lòng viễn khách tan nát,
Gió đông cũng đâu làm cho cành liễu xanh tươi.
Dịch
thơ:
NGÀY
XUÂN Ở HỒ NAM
(KÌ 2) – NHUNG DỤC
Trôi nổi Tam Dương tựa bèo
trôi
Tương Dương – Động Đình vạn dặm
thôi
Xuân về lòng khách thêm tan
nát
Gió đông đâu khiến liễu xanh
tươi
LỮ THỨ KÍ HỒ NAM TRƯƠNG LANG
TRUNG – NHUNG DỤC
Hàn giang cận hộ mạn lưu thanh,
Trúc ảnh lâm song loạn nguyệt minh.
Quy mộng bất tri hồ thuỷ khoát,
Dạ lai hoàn đáo Lạc Dương thành.
Trúc ảnh lâm song loạn nguyệt minh.
Quy mộng bất tri hồ thuỷ khoát,
Dạ lai hoàn đáo Lạc Dương thành.
Dịch
nghĩa:
Ở đất khách gửi cho quan Trương lang trung đất
Hồ Nam
Nhà trọ ở gần sông nên nghe
tiếng sóng reo,
Cành trúc phất phơ bên song làm rối loạn ánh trăng chiếu vào.
Trong mộng về đâu có quan ngại mặt hồ rộng,
Mới chập tối đã thấy tới Lạc Dương rồi.
Cành trúc phất phơ bên song làm rối loạn ánh trăng chiếu vào.
Trong mộng về đâu có quan ngại mặt hồ rộng,
Mới chập tối đã thấy tới Lạc Dương rồi.
Lạc Dương nay là thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam, là nơi tác giả đang tới. Ông viết bài này khi nghỉ qua đêm ở nhà trọ.
Dịch thơ:
Ở đất khách gửi cho quan
Trương lang trung đất Hồ Nam
Nhà trọ gần sông tiếng sóng
vang
Trúc phơ phất song loạn ánh
trăng
Mộng về đâu ngại mặt hồ lớn
Mới tối mà sao tới Lạc Dương.
Nguyễn Ngọc Kiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét