Nhà văn Đỗ Trường |
Năm Ất Sửu 1805. Gia Long niên hiệu
thứ tư. Ngày 4 tháng 11. Tiết trời hanh khô, u ám giăng kín cả làng
Tam Đăng, tổng An Chung thuộc huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng. Con đường vắng những bước chân. Chỉ
có đàn chuồn chuồn kim chao qua chao lại trên những dậu hoa dâm bụt ven
đường. Chính Ngọ, đất trời vụt sáng. Đâu đó có tiếng trẻ khóc ré
lên làm Chú Khách bán thuốc rê dạo giật mình. Dường như, tiếng khóc
từ ngôi nhà gianh trước mặt. Không biết đứa trẻ vừa sinh nam hay nữ,
nhưng chắc chắn sau này sẽ là một quí nhân. Ngẩn tò te suy nghĩ,
tính toán một hồi, rồi Khách lẩm bẩm như vậy. Một chút tò mò,
Khách nhấc cánh cổng tre, lách vào, đứng giữa sân hắng giọng. Thấy
mụ đỡ và người nhà ra vào bận rộn, gã định quay gót. Đột nhiên,
thằng nhỏ từ trong nhà lon ton chạy ra, rồi chạy vào, kéo tay người
đàn ông có khuôn mặt tưởng chừng khắc khổ, nhưng ngoái lại, toát lên
nét nho nhã và tĩnh tại. Người đàn ông cúi người, kéo chốt để mở
rộng cánh cửa, Khách vội xua tay:
- Mỗ tôi đi ngang, nghe tiếng trẻ
khóc, nhà chắc có tin vui, vào xin gia chủ gáo nước mưa cho đã cơn
khát, rồi đi ngay thôi.
-
Vâng, nhà tôi vừa ở cữ, Chú cứ vào đây uống chén nước cho ấm cái
bụng đã.
Bước
chân vào nhà, chiếc xích đông sách được xếp ngay ngắn, treo trên cái
nghiên mực dưới bàn viết, như đập thẳng vào mắt Khách. Mùi dược
thảo thoang thoảng bốc ra từ căn buồng phía trong cho gã cảm giác
thật dễ chịu. Nhìn cung cách pha trà của gia chủ, buộc gã phải đổi
lại tư thế ngồi, và cách xưng hô:
-
Thưa tiên sinh, hỏi không phải, nhà ta vừa có thêm quí công tử, hay…
-
Thứ nam Chú ạ.
-
Đẻ vào ngày giờ này, cậu thứ học hành tấn tới, đỗ đạt, sau này
chắc chắn sẽ là quí nhân, quan lớn đấy. Mà nhìn tướng cậu cả nhà
ta cũng không phải người tầm thường đâu.
-
Chú cứ khen quá lời.
-
Tiên sinh cứ tin một lần, mỗ tôi lấy đầu ra đảm bảo. Nhìn đôi Liễn,
biết chắc tiên sinh họ Phạm, lót Văn, cậu cả tên Thanh, vậy cậu thứ
này nên đặt tên Nghị. Phạm Văn Nghị… Với Âm Thổ, theo Ngũ Hành Quẻ
Cát thì chắc chắn là người đại quan tiết tháo rồi còn gì nữa…
Đặt
chén trà xuống khay, ông Phạm gật gù:
-
Ra Chú đây rất am hiểu Kinh Dịch. Chú theo nghề này đã lâu chưa?
-
Không nhiều, không nhiều, học trộm, học mót thôi…Gia đình từ Nam Hải
chạy loạn sang đây, đến mỗ tôi là đời thứ ba, bà nội, và mẹ đều là
người thành Nam ta. Bói toán, Kinh Dịch là nghề gia truyền, nhưng khốn
khổ thay, không ai bói toán, dịch chuyển được số phận của mình. Dòng
họ cứ ai dính vào cái nghề này đều chết non, chết yểu cả. Đến đời
mỗ tôi, mẹ sợ quá, cấm tiệt, buộc phải đổi sang nghề bán rong, bán
dạo khắp nơi. Tiên sinh yên tâm, mỗ tôi còn qua lại đây nhiều nhiều nữa…
Trời
mới chớm sang thu, lá đã trải vàng lối đi. Những tia nắng sớm mai
chưa thể xuyên thủng màn sương mù dày đặc. Con đường làng trước mặt
mờ mờ như nét chì vẽ vội. Tiếng í ới gọi nhau đi hái, cắt rau cho
kịp buổi chợ phiên làm chàng trai trẻ Phạm Văn Nghị tỉnh giấc. Ngôi
nhà tre, vách đất này, thuộc làng Trầm Hương, tổng Thiện Trạo, huyện
Yên Khánh, được ông Phạm thuê làm nơi dạy học cũng như ở của hai cha
con. Tuy là vùng bán sơn địa, nhưng Trầm Hương khá trù phú với những
cánh đồng lúa, xen những đồng rau xanh mượt chạy tận đến chân núi đá
vôi. Đây cũng thuộc vùng đất phát tích của ba triều đại. Khi ông Phạm
đăng lính ở miền núi Thái Nguyên, Phạm Văn Nghị trở thành người thày
dạy học thay cha. Tuy vậy, Nghị vẫn cần mẫn đến thụ nghiệp từ
Nguyễn tiên sinh, Quan Đốc Học tỉnh Ninh Bình.
Chỉnh
trang lại quần áo, Nghị tản bộ trên đường làng, rồi quay về ruộng
rau của gia đình họ Đậu đối diện với nơi ở trọ. Thói quen này có
từ khi họ Đậu đến nhờ Nghị thảo cho đơn từ, trình báo nơi công
đường. Họ Đậu mới từ miền Kinh Bắc chuyển về Trầm Hương được dăm
năm. Nhà có trưởng nữ Đậu Thị tuổi vừa cập kê, trăng tròn. Tuy không
đẹp, nhưng Thị có giọng nói ngọt ngào, với đôi mắt sắc, sâu thăm
thẳm. Gặp Thị lần đầu, Nghị đã bị đôi mắt dao cau ấy, bổ đôi hồn
người. Đây mới là lý do, sớm mai Nghị thường quanh quẩn ở ngoài
ruộng, nơi Đậu Thị hái rau, trồng cà. Thấy Nghị siêng năng bút mực,
vài lần họ Đậu đánh tiếng, gia đình trầu cau và mai mối, sẽ gả Đậu
Thị cho. Tuy nhiên, lúc này ông Phạm vẫn còn nơi biên ải, nên Nghị ngỏ
lời xin khất, chờ cha về. Nhưng thời gian sau đó, thấy Nghị hỏng thi,
đường công danh mịt mù, Đậu Thị quay lưng, trở mặt về làm dâu phú hộ
làng bên.
Nghị
cắn răng kìm nén, lấy đèn sách lấp đi khoảng trống, nỗi đau. Sau khi
giải ngũ, ông Phạm đã nhận ra điều đó ở Nghị. Và nhân lúc con cả
Phạm Văn Thanh phải vào lính, ông Phạm cưới Trần Thị tuổi mười bảy,
người cùng làng cho Nghị.
Năm
sau, Nghị ở tuổi 23, ông Phạm bị bạo bệnh. Trước khi mất ông cầm tay
vợ chồng Nghị dặn:
-
Ta mất rồi, các con ngoài việc chăm sóc mẹ và các em, phải học
hành, thi cử kiếm lấy cái công danh. Nếu sau này đỗ đạt dứt khoát
phải tìm đến Chú Khách làm nghề bán thuốc rê, nhà ở đông thành Nam, mời về
làm môn khách trong nhà.
Nghị
khóc như mưa, mắt hằn lên những vệt máu:
-
Cha yên nghỉ, con dứt khoát thực hiện những lời cha dặn.
Với
nỗ lực của bản thân cũng như sự cổ võ của người vợ Trần Thị, kỳ
thi năm 1837 Nghị đỗ cử nhân, và năm sau 1838 trúng luôn nhị giáp tiến sĩ
(tức Hoàng giáp). Cùng năm, Nghị được bổ vào làm Tu soạn Viện Hàn lâm. Ngay
lập tức, Nghị tìm đến nhà Chú Khách, mời làm môn khách, và cùng đi
nhậm chức. Không lâu sau Nghị được điều về làm Tri phủ Lý Nhân.
Là
vị quan chính trực, liêm khiết Nghị được dân chúng rất kính trọng.
Cuối năm ấy, Nghị thường phục, tuần tra các nơi huyện, thị. Đến Nam
Xương, gần Tết thấy cảnh vẫn tiêu điều, dân chúng xác xơ. Vào huyện
đường cũng không khá hơn là bao. Thấy lạ, Nghị liền lân la dò hỏi,
thì được biết:
Trong
huyện có một tên quan lớn, tên Sâu Thất Yểu đã trí sĩ (hưu trí) từ
lâu. Yểu người Tày, thuộc phủ Thông Hóa, xuất thân từ tên gác rừng,
gánh củi thuê. Năm 1789, khi Quang Trung kéo quân ra Bắc đánh tan hơn hai
mươi vạn quân Thanh, Yểu đăng lính Tây Sơn. Là kẻ trí trá, do vậy, khi
Quang Trung lâm bệnh qua đời, Yểu liền chạy theo hàng Tả tướng quân Lê
Văn Duyệt. Rồi sau đó đi theo giúp Hoàng tử Nguyễn Phúc Cảnh đánh
Thị Nại. Cảnh thấy Yểu khỏe mạnh, nhanh nhẹn, nên chọn vào lính vệ
trong Đông Cung. Năm Tân Dậu 1801 hoàng tử Cảnh mất bởi bệnh đậu mùa,
khi mới 21 tuổi, để lại người vợ trẻ, đẹp nghiêng nước nghêng
thành Tống Thị Quyên và hai con
Nguyễn Phúc Mỹ Đường và Nguyễn Phúc Mỹ Thùy. Theo lẽ thường, Gia Long phải
truyền ngôi cho cháu đích tôn Nguyễn Phúc Mỹ Đường, nhưng ông không làm như
vậy. Ngôi báu thuộc về hoàng tử thứ tư là Nguyễn Phúc Đảm (Minh Mạng). Từ
đó, gây ra mâu thuẫn trong gia tộc, và bà bè phái trong triều. Bởi,
có nhiều quan đại thần còn ủng hộ đích tôn Nguyễn Phúc Mỹ Đường.
Khi
lên ngôi, để củng cố thế lực và diệt trừ hậu họa, năm 1824, Minh
Mạng tạo ra một thảm án vô cùng ly kỳ, và bẩn thỉu. Kỳ án bắt đầu
từ tên lính vệ Sâu Thất Yểu báo cho Tả tướng Lê Văn Duyệt: Nguyễn
Phúc Mỹ Đường là kẻ hoang dâm vô độ đã thông gian với mẹ đẻ là Tống
Thị Quyên.
Lê
Văn Duyệt tấu lại với Minh Mạng. Minh Mạng sai Duyệt bắt Thị
Quyên, cho dìm nước chết ngay, không cần qua thẩm tra, xét hỏi. Đích
tôn Nguyễn Phúc Mỹ Đường bị giáng xuống làm thứ dân.
Là
người có công, cũng là then chốt của vụ án, nên từ một tên lính vệ,
Yểu được thăng vượt cấp, và được bổ nhiệm ngay ra trấn thủ vùng biên
giới phía Bắc, thuộc Trấn Lạng Sơn. Từ đây, Yểu tạo lập vây cánh
rất lớn. Yểu và đồng đảng nắm trọn, và kiểm soát các tuyến đường
buôn bán, thông thương với Trung Quốc. Càng nhiều tiền, quyền hành Yểu
càng lớn, càng xa hoa, truy lạc. Tuy ở xa, nhưng tiếng nói của Yểu
rất có uy thế với triều đình. Bởi, Yểu có sự chống lưng của các
thế lực phương Bắc. Lúc này, biên giới phía Bắc buôn bán khá sầm
uất. Đậu Thị cùng chồng từ làng Trầm Hương lên Trấn Lạng Sơn mở
thương điếm mới. Cái sự mặn mòi gái một con của Đậu Thị làm cho Sâu
Thất Khiếm, con của Yểu say mê điên cuồng. Là kẻ lẳng lơ, hám tiền
Đậu Thị biết, chỉ có dựa vào thế lực gia đình Khiếm thì mới có
thể phát triển buôn bán, và thỏa mãn dục vọng. Vậy là, kẻ lẳng lơ,
hám tiền gặp tên trọc phú lưu manh, đã buộc người chồng của Đậu Thị
viết giấy ly dị, và phải về quê sinh sống. Đậu Thị về làm dâu họ
Sâu một thời gian ngắn, thì mẹ chồng qua đời. Khiếm được Yểu mua cho
cái chức huyện thừa ở một tỉnh xa. Ngày Khiếm đi nhận chức, Đậu
Thị vẫn ở lại thương điếm Trấn Lạng Sơn. Cuối năm, Khiếm quay về đón
vợ. Thật khốn nạn thay, Đậu Thị đã là vợ của Yểu, tức thành mẹ
kế của mình. Khiếm uất khí, chỉ mặt Yểu và Đậu Thị chửi:
-
Lũ khốn nạn. Không thể kiện, nhưng tôi sẽ từ ông.
Tuy
đã hồi hưu, nhưng thế lực của Yểu, tiền tài của Đậu Thị vẫn còn
bao trùm cả vùng biên ải. Nhưng tiền và lực vẫn không bịt được miệng
lưỡi người đời, đi đâu cũng thoang thoảng bên tai: Nhà tôm lộn cứt lên
đầu. Dưới áp lực như vậy, buộc Yểu và Đậu Thị chuyển về Nam Xương,
một nơi ít người biết đến. Ấy thế, không lâu sau, Đậu Thị không những
mở thêm thương điếm, mà còn kết cấu với cường hào địa phương cho vay
nặng lãi, dẫn đến cướp nhà, thu đất của dân. Xã hội bất ổn, đời
sống người dân điêu đứng từ đó. Quan huyện bó tay, bởi vẫn cái ô của
Yểu quá lớn…
Nghe
chuyện, Nghị nổi giận. Dù trời đã vào đêm, Nghị vẫn muốn tìm gặp
huyện lệnh Nam Xương. Nhưng Khách can:
-
Yểu là kẻ ranh ma, hắn có vỏ bọc, ô che lớn không chỉ từ triều
đình, mà còn cả thế lực phương Bắc, không dễ động chạm, Hoàng
giáp phải hết sức thận trọng.
Nghị
bảo:
-
Ta không thể không đưa đưa bọn này ra ánh sáng công đường. Ông chớ có
can ngăn nhiều.
Ở
lại nha huyện Nam Xương, Nghị thức cả đêm để xem lại tất cả đơn kiện
Yểu và đồng đảng, mà từ bấy lâu không thể phán xử. Trời chưa sáng
hẳn, Nghị đã sai lính lệ đi mời nguyên cáo đến huyện nha hỏi chuyện.
Nhưng có người đến, kẻ không. Nỗi
sợ bao trùm cả phủ, huyện.
Tuy
nhiên, chẳng mấy khó khăn, trong một thời gian ngắn Nghị đã tìm đủ
chứng cứ tội phạm của Yểu và Đậu Thị. Hôm xử ở phủ đường Lý Nhân,
bọn gia đinh của Yểu chống cự quyết liệt. Nhưng Yểu và Đậu Thị cười
tươi, chỉ tay vào mặt Nghị:
-
Ta không nhận tội. Cái tri phủ nhỏ nhoi của ngươi, xử và bỏ tù được
ta hay sao. Nhà ngươi chắc chắn sẽ phải trả giá.
Quả
thật, Yểu và Đậu Thị bị tạm giam không lâu, Nghị đã dồn dập nhận
được chiếu chỉ. Buộc phải thả người, nhưng Nghị tức tốc hồi kinh.
Gặp Thiệu Trị, Nghị tấu trình, và vặn hỏi:
-
Yểu và Đậu Thị đã phạm vào luật pháp không thể không xử để yên
lòng dân. Cớ sao Bệ hạ tha tội?
Thiệu
Trị bảo:
-
Đạo Quang, Hoàng Đế Nhà Thanh rất quan tâm đến Yểu, và có lời thỉnh
cầu. Về ngoại giao, Ta không thể chối từ.
-
Thưa Bệ hạ, như vậy phương Bắc đã động chạm đến chủ quyền của chúng
ta. Nếu bệ hạ không trị tội Yểu, sau này sinh ra nhiều tên Yểu khác,
ảnh hưởng đến an ninh quốc gia.
Thiệu
Trị gằn giọng:
-
Yểu là thằng già sắp chết, thì làm được gì. Ngươi cũng nên tha cho
nó.
Nghị
định nói tiếp, Thiệu Trị ngắt lời:
-
Ý ta đã quyết, ngươi chớ nhiều lời. Ngươi không phải quay về phủ Lý
Nhân nữa. Nay mai sẽ có chiếu chỉ, ngươi
về Biên tu ở Sử quán.
Biên
tu ở Sử quán, có nghĩa Nghị bị giáng ba cấp. Với Nghị cấp tước, phẩm
hàm giờ chỉ là những thứ phù du, nhưng trong lòng nặng nỗi đau về
đất nước, nỗi đau của những người dân khốn cùng. Thấy Nghị trầm
ngâm, Khách hỏi: Hoàng giáp có tâm sự gì chăng?
-
Ta muốn mang cái sở học của mình ra giúp nước, giúp dân, nhưng không
được như ý, nên buồn vậy thôi. Ông theo ta đã lâu, tuổi cũng lục tuần,
cần nghỉ ngơi rồi. Ta tính, sắp tới sẽ từ quan, chúng ta về quê mở
trường dạy học, có lẽ giúp cho dân, cho nước nhiều hơn. Ông nghĩ sao?
Khách ngẫm nghĩ, rồi trả lời:
-
Hoàng giáp nghĩ thế cũng phải. Nhưng cung mệnh Hoàng giáp chưa thể an
nhàn. Mỗ tôi tuy đã lục tuần, nhưng sức khỏe vẫn còn theo kịp Hoàng
giáp.
Đầu
thu năm 1846, Nghị xin Thiệu Trị được
từ quan về quê dưỡng bệnh.
Đêm
đầu tiên, sau tám năm trở về quê hương cho Nghị cảm giác thật dễ
chịu. Với ông, không nơi nào có giấc ngủ bình yên, như ở chốn quê
nhà. Trời đã sang canh năm. Trăng cuối tháng nghếch lên đầu ngọn cau.
Cơn gió bấc nhẹ luồn qua liếp cửa. Vậy là, trời đã chớm sang đông.
Nghị dậy, châm đèn đọc sách. Bất chợt, mây từ đâu kéo đến, giăng kín
cả bầu trời. Gió hú lên. Nghe có tiếng vó ngựa khua, như từ rất xa
vọng lại. Cây đèn rung rinh, nghiêng ngả, tưởng chừng sắp đổ. Nghị
gục xuống, chập chờn…
Khi
tỉnh dậy, mồ hôi Nghị vã ra như tắm, thấy Khách đã đứng cạnh
giường:
-
Hoàng giáp vừa qua cơn ác mộng?
Nghị
lắc đầu:
-
Ta vừa có một giấc mơ kỳ lạ. Dường như Triệu Việt Vương vừa tìm gặp
ta? Ngài căn dặn: Hãy đi về hướng đông nam khoảng tám mươi dặm. Nơi có
con sông đổ ra cửa biển, cũng là nơi an nghỉ của cha con ngài. Nơi đó
là mảnh đất lành, để mở mang bờ cõi, hưng thịnh quốc gia.
Khách
bảo:
-
Có lẽ, đó là cửa biển Đại Nha. Ngày còn bán thuốc rê, mỗ tôi đã
đôi lần qua lại. Tương truyền, khi Triệu Việt Vương bị Lý Phật Tử truy
đuổi, đến cửa biển này cùng đường, ngài và con gái nhảy xuống
biển, tuẫn tiết. Ở đó, người đời sau dựng đền thờ ngài, nhưng hiện
nay rất hoang vu, chỉ có những bãi lầy với sú và vẹt.
Trầm
ngâm suy nghĩ, rồi Nghị quay sang Khách:
-
Từ Đại An ngược lên thượng nguồn sông Cái phần lớn là đất thổ cư,
chúng ta không còn nhiều để trồng trọt, canh tác. Lập ấp, di dân lấn
biển, cải tạo đất đai trồng lúa nước là một thượng sách. Như trước
đây cụ Nguyễn Công Trứ đã làm. Tới đây, chúng ta sẽ đi thực địa, rồi
tâu bẩm với triều đình cho lập ấp trại, mở mang việc học hành. Công
việc này không thể ngày một ngày hai, ta rất cần sự trợ giúp của
ông.
Nghị
dứt lời, Khách rót tách trà đưa đến:
-
Hoàng giáp nói đúng. Tuy nhiên theo mỗ tôi, biển Đại Nha không chỉ mở
mang sản xuất, an sinh mà còn là nơi lưu thông đường biển và đường
thủy, quốc phòng rất quan trọng nữa. Đây là việc lớn, hệ trọng, rất
tốn kém sức lực và tài lực, do vậy, Hoàng giáp cần tìm đồng sự,
như bác cả Thanh, và các đồng liêu, điền chủ… Công việc chung này, mỗ
tôi không từ gian nan.
Từ
Tam Đăng, Khách và cả Thanh mang hàng hóa, nông cụ xuôi đường sông.
Nghị dẫn đoàn tráng đinh qua đò Đống Cao, đón Giám sinh Vũ Danh Viêm
đến từ Nam Chân huyện, đi bộ cùng tới cửa biển Đại Nha. Về chiều,
trời mưa nặng hạt, lầy lội, mãi đến canh hai Nghị, và Viêm đến được
Giáp Phú. Trời tối đen, mưa đã tạnh, nhưng gió như quất vào mặt.
Tiếng người hay quỷ rít lên như tiếng mèo hen giữa bãi tha ma với
những ánh sáng lập lòe, làm mọi người chờn chờn, rợn rợn. Đến gần
tiếng rên như phả ra hơi lạnh, ánh sáng bay cuộn lên trong gió. Mấy
tráng đinh sợ ù té chạy. Nghị gọi lại: Người, hay ma quỷ, ta cứ
thẳng người mà sống, thẳng người mà đi có gì phải sợ. Rồi Nghị
xắn cao quần lội thẳng xuống nơi phát ra ánh sáng và tiếng rên. Lúc
sau Nghị quay lại, bảo, có thể là một sương nữ (cô gái), cần hai
tráng đinh xuống giúp khiêng lên chữa trị ngay, chậm là hỏng mất. Đêm
đó Nghị thức trắng, và cô gái đã được cứu sống. Tỉnh lại mới hay,
cô tên Bùi Thị, người Nam Chân. Cha mất sớm, gia cảnh nghèo khó, hai
mẹ con sống nương tựa nhau. Ít ngày trước, người mẹ đi bắt cáy biển,
nhưng không thấy trở về. Thị đi tìm. Vật vờ, đói khát, mấy ngày sau,
Thị mới hay, mẹ trúng gió đã chết. Không có người nhận, dân làng
Giáp Phú đã cuốn chiếu đem chôn. Thị tìm ra mộ, khóc than vật vã
mấy ngày. Tuy bất tỉnh, nhưng không hiểu hơi sức từ đâu, tiếng gào
của Thị cứ rít lên như vậy.
Không
còn nơi nương tựa, Bùi Thị xin theo Nghị khai hoang, lấn biển lập trại
Sỹ Lâm. Và thời gian sau, Bùi Thị trở thành con dâu thứ của Nghị,
cũng là người đàn bà đầu tiên đơm hoa kết trái trên trại Sỹ Lâm. Đó
là năm
Nhân Tý, niên hiệu Tự Đức thứ 5 (1852).
Cùng
với Đinh Công Mỹ và một số thổ mục, năm 1854 Cao Bá Quát khởi binh ở
Mỹ Lương chống lại triều đình. Tự Đức lo sợ, liền sai Lê Duy Hiệp
Tổng đốc Hà Ninh cùng Tổng đốc Bắc Ninh và Sơn Hưng Tuyên đi dẹp
loạn. Hiệp người Minh Hương, sinh quán An Nhơn, Bình Định. Do vậy, Hiệp
liên kết với Lê Đạt Ký quan cai phu mỏ là người của triều đình nhà
Thanh cùng đánh dẹp.
Lúc
này, Nghị đang lập trại Sỹ Lâm, mở mang trường học ở Phủ Nghĩa Hưng.
Khi hay tin Nghị giật mình, viết ngay tấu trình lên Tự Đức, đòi trị
tội Hiệp đã vẽ đường cho ngoại bang can dự vào việc nhà, dẫn đến
những hậu quả khôn lường về lâu dài…
Đọc
xong bản tấu của Nghị, Tự Đức liền giáng Hiệp xuống tuần phủ. Rồi
quay sang hỏi Đại Học Sĩ Trương Đăng Quế:
- Sắp tới, nhân lúc chỉnh đốn quan
lại, ta muốn giao cho Nghị một trọng trách trong triều. Ngươi nghĩ sao?
-
Theo thần biết, hiện Nghị đang quai đê, lấn biến lập ấp trại, xây
trường, mở lớp dạy học. Tìm người làm quan được như Nghị, trong
triều không thiếu. Nhưng tìm một người thày, một người tìm kiếm, đào
tạo nhân tài cho đất nước như Nghị, hiện nay trong triều không có
người thứ hai. Mong bệ hạ suy nghĩ kỹ.
Nghe
theo lời khuyên của Quế, năm 1857, Tự Đức bổ nhiệm Nghị làm Đốc Học
tỉnh Nam
Định. Nghị nhận chức Đốc Học không được bao lâu, Thực dân Pháp đánh
chiếm bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng. Mang nỗi uất ức, căm thù, ngay đêm
đó Nghị ra lời mộ quân ứng nghĩa vào Sơn Trà đánh giặc, và viết “Trà Sơn Kháng Sớ” gửi Vua Tự Đức: “…Hạ thần là kẻ thư sinh, tuy không hiểu nhiều việc quân, nhưng khi đất nước có giặc, thường cùng các học trò là cử
nhân, tú tài còn chút nghĩa khí, bàn
bạc nghiên cứu cái thế của ta và địch, để nắm chắc phần thắng. Nếu Bệ hạ cho phép, chúng thần
được tới chỗ quân địch, tìm hiểu hình thế, rồi bày mưu đặt kế, bẩm trình
lại. Nếu được sử dụng thì chắc cũng hữu ích…”.
Nhận được lời mộ quân
của Nghị, hàng ngàn học trò và tráng đinh hưởng ứng, tham gia. Từ
đó chọn ra 365 nghĩa sĩ, trong đó có 5 cử nhân và 8 tú tài được
phiên làm bảy đội, hợp thành ba đạo. Tiền đạo đã từng là quan Án
Sát tỉnh Biên Hòa Phạm Văn Xưởng. Hậu quân là học trò của Nghị, Phó bảng
Đặng Ngọc Cầu. Nghị tự thống lĩnh trung quân. Năm Tự Đức thứ mười ba,
trước giờ xuất chinh, Nghị viết, ngâm bài phú làm nức lòng tướng
sĩ:
“Giận sôi tóc dựng mũ
Bút đánh há thua ai?
Mong sớm tan giặc dữ
Tờ ngọc nâng trên tay...”
Khách tiễn Nghị một
chặng. Lúc chia tay thấy Khách còn ngập ngừng, Nghị hỏi:
- Chắc ông còn điều gì muốn nói với ta?
- Mỗ tôi năm nay đã bảy lăm, sức đã cạn, rất tiếc
lần này, không thể theo Hoàng giáp. Nhưng có một điều, chắc chắn Hoàng
giáp đã biết, nhưng mỗ tôi vẫn muốn nhắc lại. Có lẽ lẩm cẩm quá
chăng? Kẻ thù nguy hiểm truyền kiếp của nước Nam là phương Bắc, chứ
không phải giặc Tây. Tây ở xa, đến rồi ắt sẽ phải đi, không thể mang
nổi một tấc đất. Nhưng giặc phương Bắc nham hiểm liền kề, chúng sẽ
gặm nhấm từ từ. Do vậy, dù thế nào đi chăng nữa, Hoàng giáp cố giữ
đội quân cảm tử này, quay về đề phòng giặc phương Bắc.
Nghị hai mắt ngầu đỏ,
nắm chặt tay Khách:
- Ta đã hiểu…đã hiểu.
Giặc tháo chạy về
phương Nam, từ Đà Nẵng Nghị muốn tiến quân đánh Gia Định. Nhưng triều
đình, kẻ muốn hòa, người muốn đánh. Tự Đức còn lưỡng lự, nhưng vẫn
hạ chỉ, buộc Nghị phải đem quân ra Bắc. Tuy thất vọng, nhưng Nghị vẫn
xin vào yết kiến nhà vua. Trước mặt Tự Đức và cả bọn chủ hòa Phan
Thanh Giản, Lê Duy Hiệp… Nghị gạt nước mắt:
- Nếu bệ hạ nghe lời của bọn hủ nho mà chủ hòa,
chắc chắn không bao lâu giặc sẽ nuốt gọn Nam Bộ, sau đó tấn công Bắc
Kỳ.
Tự Đức trầm ngâm, rồi
bảo:
- Ngươi cứ tạm mang quân ra Bắc, đốc thúc cho tốt
công việc học hành, thi cử. Ta sẽ có chiếu chỉ sau.
Và đúng như Nghị tuyên
đoán, không bao lâu Thực dân Pháp nuốt gọn Nam Kỳ. Năm 1873 giặc tấn
công Bắc Kỳ. Đã có sự chuẩn bị từ trước, do vậy, Nghị lãnh đạo
học trò và nhân dân làm nên chiến thắng Ngã Ba Độc Bộ làm cho Thực dân
phải run sợ. Và ngay sau đó, Nghị cho lập căn cứ lâu dài trên núi An
Hòa, lực lượng nghĩa quân lên tới bảy ngàn người, chuẩn bị tái chiếm
lại thành Nam Định. Cùng lúc, tin Tự Đức đã ký “Hòa ước Giáp Tuất-
1874” với giặc làm cho Nghị choáng váng. Đêm đó, Nghị trèo lên đỉnh
núi An Hòa, ngửa mặt nhìn trời xanh mà khóc. Nghe nói, tiếng khóc
của Nghị rít lên, thảm hơn cả tiếng khóc của Bùi Thị ngày nào.
Sáng hôm sau, mắt hãy còn sưng húp, Nghị bùi ngùi cho giải tán nghĩa
quân, rồi một lần nữa viết biểu từ quan, để vào Động Hoa Lư ở ẩn.
Khi xuống đến chân
núi, Nghị đã thấy Khách chống gậy đứng chờ. Nghị chưa kịp lên tiếng Khách đã hỏi:
-
Hoàng giáp định gửi mình vào nơi rừng sâu thật sao?
Nghị
bảo:
-
Ta còn mặt mũi nào nhìn trời đất, và chúng sinh!
-
Hoàng giáp, qúa lời rồi. Công việc của Hoàng giáp mấy chục năm qua,
mỗ tôi đã chứng kiến, chỉ có chính nhân, quân tử mới làm được. Gần
một nghìn năm, trải qua bao triều đại, và khoa cử chỉ có bốn vị Tam
Nguyên. Ấy vậy, mà Hoàng giáp đã có hai học trò trong số ấy là:
Vị Xuyên
Trần Bích San và Yên Đổ Nguyễn Khuyến. Há
chẳng phải là người thày độc nhất vô nhị trong lịch sử hay sao? Niềm
tự hào ấy, mỗ tôi cũng được thơm lây vậy.
Nghị
lặng im, nhìn người môn khách, cũng là người bạn già đã mấy chục
năm cùng chia sẻ những khổ cực, đớn đau… Nghị chưa muốn đi, nhưng chân
đã vội bước. Khi ngoái lại, dường như Khách đã nhòa vào cái nắng
chiều đỏ dưới chân đồi…
Nghị
mất vào tháng Chạp, năm 1880, trời mưa sa không dứt. Tuy vậy, học trò,
khoa bảng, chức sắc đến viếng rất đông. Tang lễ diễn rất trang nghiêm.
Đột nhiên trời quang hửng nắng. Một cụ già quần áo, râu tóc một màu
trắng xóa, không hiểu từ đâu tới, nghiêng người vái, đọc:
“Tích yên, nghĩa lỗ nhân can, Độc Bộ ba đào câu nộ sắc
Kim dã, nghiêm sương hàn
lộ, Hoa Lư thảo thụ đối sầu nhan“
Người đời sau cảm thán mà dịch rằng:
“Xưa chèo nghĩa buồm nhân, Độc Bộ cồn cồn sóng giận
Nay băng đông sương giá,
Hoa Lư ảm đạm cây sầu“
Đọc xong, cụ đi nhanh
như một cơn gió, làm mọi người sửng sốt.
Người bảo, là Chú Khách, người thì nói không...
*Hậu duệ của
Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị:
Tết âm lịch năm 2015, tôi về Hà Nội. Sáng mùng 4 tết, tôi đi thăm
Trại Sỹ Lâm nay thuộc xã Nghĩa Lâm, huyện Nghĩa Hưng, tỉnh Nam Định.
Rất may, tôi được gặp ông bạn Phạm Văn Võ hậu duệ đời thứ bảy của
cụ Hoàng giáp Tam Đăng Phạm Văn Nghị. Và là con cụ Phạm Văn Đẩu
người hiện đang coi sóc đền thờ cụ Phạm Văn Nghị ở đầu làng Sỹ Lâm.
Ngày 10-10-1976 đang học lớp 9 Võ phải đi bộ đội. Gần nửa thế kỷ
gặp lại nhau, vui, nhưng nhìn hắn nhàu lắm. Vỗ vai bạn hỏi: Người
lính trải qua hai trận chiến sinh tử với Polpot và giặc Tàu sao cằn
cỗi thế này? Võ bảo: Vào bộ đội chiến đấu, học tập và tu dưỡng
đạo đức hết mình, nhưng cứ động đến giấy tờ vào Đảng CS và đi học
sỹ quan là không được. Bởi, địa phương không đồng ý, phê lý lịch con
cháu quan lại, dù đã là đời thứ bảy. Mà đâu có phải riêng tôi, bố
tôi (Phạm Văn Đẩu) cũng vậy. Ông tham gia đánh Pháp, học hành rất
khá, sau này chỉ được phép là công nhân đóng gạch. Và rồi còn đời
con cháu tôi nữa…
Vậy là, sau 5 năm Võ phục viên, hiện
đã là một lão nông. Ấy vậy, có những lúc quẩn trí, hắn cứ réo lên
ùng ục (nói như ngôn ngữ thời nay ở trong nước: Nghe phản cảm lắm):
Cụ Phạm Văn Nghị ơi! Cụ đỗ tiến sĩ làm gì. Cụ làm quan làm
gì. Cụ quai đê lấn biển, lập ra cái Trại Sỹ Lâm
làm gì? Để liên lụy, làm khổ con cháu của cụ thế này…
Leipzig ngày 31-8-2017
Đỗ Trường
(Trong truyện này, tôi có sử dụng tài
liệu của nhà nghiên cứu Trần Mỹ Giống, và một số nhà sử học- Xin
cảm ơn)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét