TS Nguyễn Ngọc Kiên |
Nguyễn Ngọc Kiên
(54) 沉鱼落雁[Trầm ngư lạc nhạn] (chim
sa cá lặn), 羞花闭月[tu hoa bế nguyệt] (hoa nhường
nguyệt thẹn)
Tứ
đại mỹ nhân (chữ
Hán: 四大美人); là cụm từ dùng để tả 4 người đẹp nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc, gồm Tây Thi, Vương Chiêu Quân, Điêu Thuyền và Dương Quý phi.
Sắc
đẹp của họ được mô tả qua 4 cụm ngữ tu từ nổi tiếng để tả mỹ nhân, theo thứ tự
là "Trầm ngư" (沉鱼; cá chìm sâu dưới nước); "Lạc nhạn"
(落雁; chim nhạn sa xuống
đất); "Bế nguyệt" (閉月; mặt Trăng phải giấu mình) và "Tu hoa"
(羞花; khiến hoa phải xấu
hổ).
Các
tài liệu lịch sử về họ cũng bị ảnh hưởng nhiều do một số truyền thuyết và lời đồn dân gian. Họ nổi tiếng và được
gọi là tứ đại mỹ nhân do sắc đẹp và ảnh hưởng của họ đối với các vị Hoàng đế
Trung Quốc và làm thay đổi lịch sử Trung Quốc. Tất cả bốn người mỹ nhân đều
có những kết thúc không có hậu hoặc vẫn còn là bí ẩn. Số phận họ đúng như các
câu dân gian "Phụng nhân bạc mạng" (phục vụ và cống hiến hết sức
cho dân nhưng kết cục khổ) và "Hồng nhan bạc mệnh" (có sắc đẹp
thì số xấu).
Xa
xưa, người Trung Hoa và các nước đồng văn Đông Á đều dùng cụm ngữ "Trầm
ngư lạc nhạn, bế nguyệt tu hoa" (Cá lặn chim sa, nguyệt thẹn hoa nhường)
để mô tả hình dung về mỹ nhân.
Hoa (花), từ xưa là danh từ
tiêu biểu để hình dung về người đẹp, cho nên đẹp như hoa, đẹp như trăng là tả
dung mạo phi phàm; cá bơi trong nước, chim bay trên cao, là hình dung sự rung động
của người thường khi thấy mĩ nhân, cho nên ví liên quan đến cá, chim là ý chỉ
dung mạo hơn người.
Đây
là một số các chữ nổi tiếng để nói về bốn nàng mỹ nhân.[1]
Nguồn gốc chính xác của những câu này hiện nay vẫn còn gây tranh cãi.
西施沉魚[Tây Thi trầm ngư ] (Tây Thi làm cá lặn)
昭君落雁 [Chiêu Quân lạc nhạn] (Chiêu Quân làm lạc nhạn)
貂嬋閉月[Điêu Thuyền bế nguyệt]( Trăng phải núp Điêu Thuyền)
貴妃羞花 [Qúi Phi tu hoa] (Hoa cũng nhường Quý Phi)
昭君落雁 [Chiêu Quân lạc nhạn] (Chiêu Quân làm lạc nhạn)
貂嬋閉月[Điêu Thuyền bế nguyệt]( Trăng phải núp Điêu Thuyền)
貴妃羞花 [Qúi Phi tu hoa] (Hoa cũng nhường Quý Phi)
Có
nghĩa là: Nếu Tây Thi có nét đẹp làm cá phải lặn (Trầm Ngư), Vương Chiêu
Quân khiến chim nhạn mãi ngắm nhìn quên bay nên rơi rớt (Lạc Nhạn), Điêu
Thuyền đẹp đến nỗi trăng cũng phải khép, núp vào mây (Bế Nguyệt, bế
ở đây là khép cửa, ngừng), thì Dương Quý Phi mỗi khi ngắm hoa, hoa đều rũ héo
vì hổ thẹn (Tu Hoa, tu là xấu hổ, e thẹn).
Trầm ngư
Nàng
Tây Thi
sống ở thời Xuân Thu, là một người con gái nước Việt, làm nghề dệt vải ở núi Trữ La, Gia Lãm (nay
là Chư
Kỵ). Tương truyền Tây Thi đẹp đến nỗi, ngay cả khi nàng nhăn mặt cũng khiến
người ta mê hồn.
Một hôm, nàng cùng các thôn nữ
khác đến bên sông giặt giũ như thường lệ. Khi nàng giặt áo bên bờ sông, bóng
nàng soi trên mặt nước sông trong suốt làm nàng thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy
nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong
vùng xưng tụng nàng là "Trầm Ngư"' (沉鱼).
Nổi
tiếng xinh đẹp, nàng gặp gỡ và yêu mến một đại thần nước Việt là Phạm
Lãi, một trọng thần của Việt vương Câu
Tiễn. Khi nước Việt bị Ngô vương Phù Sai
đánh bại và bắt Việt vương làm con tin, Phạm Lãi đã dùng kế mỹ nhân để giúp Việt
vương. Tây Thi được chọn là một trong các mỹ nhân tiến cho Ngô vương, và
nàng đã khiến Ngô vương say đắm, thả Việt vương về. Sau khi quay về, Việt vương
đã gầy dựng binh lực, đánh bại Ngô vương, trở thành một giai thoại nổi tiếng
trong lịch sử thời Xuân Thu.
Về
kết cụccủa Tây Thi, có rất nhiều dị bản. Có thuyết cho là nàng tự sát cùng Ngô
vương, có thuyết cho rằng nàng bị vợ của Câu Tiễn giết vì sợ trở thành mầm họa
làm loạn đất nước, như việc nàng đã khiến nước Ngô bị diệt. Nhưng truyền thuyết
nổi tiếng nhất là nàng đã cùng Phạm Lãi chu du đến Ngũ Hồ,
sống cuộc đời ẩn dật.
Lạc nhạn
Nàng
Vương Chiêu Quân sống dưới thời nhà Tây
Hán[3],
con gái của một gia đình thường dân ở Tỉ Quy (秭归), Nam Quận (南郡), nay là huyện Hưng
Sơn, tỉnh Hồ Bắc. Chiêu Quân nhập cung làm cung nhân của Hán Nguyên Đế Lưu Thích, nhưng không được Hoàng đế biết
đến.
Khi
Thiền
vu Hung
Nô là Hô Hàn Tà đến cầu thân, Hoàng đế
đã chọn 1 cung nhân, phong làm công
chúa và gả kết thân với Thiền vu, thiếu nữ ấy chính là Chiêu Quân. Tương
truyền khi Chiêu Quân đến đại điện làm lễ, Nguyên Đế đã sửng sốt trước vẻ đẹp của
nàng nhưng không thể thu hồi thành mệnh. Nàng xuất giá đi Hung Nô
trong sự luyến tiếc của Hán Nguyên Đế.
Câu
chuyện về Chiêu Quân được gọi Chiêu Quân xuất tái (昭君出塞) trở thành một điển
tích nổi tiếng trong thi ca Trung Quốc về sau. Truyền thuyết nói rằng, khi
Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh
cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn
"Xuất tái khúc". Có một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm
thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. bấy giờ nàng được
xưng tụng là "Lạc nhạn" (落雁).
Vương
Chiêu Quân đi vào lịch sử Trung Quốc như một người đẹp hòa bình, sự quên mình của
nàng góp phần mang lại hòa bình trong 60 năm giữa nhà Hán và Hung Nô.
Bế nguyệt
Nàng
Điêu Thuyền là một nhân vật được La
Quán Trung hư cấu trong tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa. Theo truyện, nàng Điêu
Thuyền sống vào thời Tam Quốc, khoảng thế
kỷ thứ 3[4],
là con gái nuôi của Tư đồ
Vương Doãn. Khi đó, triều đình Đông
Hán bị suy thoái do sự chuyên quyền của Đổng Trác, một người hung bạo, phá hoại cương thường, bị
người đương thời gọi là Quốc tặc.
Giai
thoại kể rằng, khi Điêu Thuyền ra ngoài trời đêm bái trăng thì mây kéo đến che
khuất mặt trăng. Vương Doãn cho là lạ, lại muốn làm tôn lên vẻ
đẹp của con gái, nên nói phao lên rằng Điêu Thuyền đẹp đến nỗi trăng cũng phải
giấu mình. Từ đó, nàng được mọi người xưng tụng nhan sắc là "Bế nguyệt"
(闭月).
Tư
đồ Vương Doãn đa mưu túc trí, dùng "liên hoàn kế", mượn Điêu
Thuyền khiến Đổng Trác và con nuôi là Lữ Bố
mê mẩn nàng, muốn chiếm đoạt nàng. Vương Doãn ra kế gả nàng cho Đổng Trác làm thiếp, sau đó chọc tức Lữ Bố, khiến Bố
đang tâm muốn giết Trác để giành lại Điêu Thuyền. Cuối cùng, vào năm 192, Đổng Trác bị Lữ Bố
giết hại.
Kết
cục của Điêu Thuyền không thật sự rõ ràng, rất nhiều dị bản khác nhau trong dân
gian. Trong tiểu thuyết, sau khi Đổng Trác bị giết, Điêu Thuyền lặng lẽ rời đi,
không rõ kết cục.
Tu hoa
Nàng
Dương Ngọc Hoàn, một thiếu nữ sống vào thời nhà Đường. Nàng là người Thục Quận (nay là Thành
Đô – tỉnh Tứ Xuyên), nguyên quán Bồ Châu. Bà là con út trong số bốn
người con gái của một vị quan tư hộ đất Thục Chân. Gia đình này nguyên gốc ở một
quận Hòa Âm thuộc Trung
Đông, có tổ tiên là Dương Uông Chi (楊汪之), một hậu duệ
hoàng tộc nhà Tùy. Khi đến tuổi trưởng thành, nổi tiếng vì sắc đẹp
tuyệt trần, nàng được cưới cho Thọ vương Lý Mạo, con trai của Vũ Huệ phi, sủng phi của Đường Huyền Tông Lý Long Cơ.
Vũ Huệ phi qua đời, Đường Huyền
Tông ngày đêm đau buồn, nhưng rồi Huyền Tông mau chóng vơi đi khi nhìn thấy con
dau là Dương Ngọc Hoàn trong lễ tang của Huệ phi. Nàng được Huyền Tông say mê,
và Hoàng đế quyết tâm đoạt từ tay con trai, đưa vào cung. Không lâu sau, Ngọc
Hoàn được phong làm Quý phi.
Tương
truyền, một hôm Quý phi đến hoa viên thưởng hoa giải buồn, nhìn thấy hoa Mẫu Đơn, Nguyệt Quý nở rộ, nghĩ rằng mình
bị nhốt trong cung, uổng phí thanh xuân, lòng không kềm được, buông lời than thở:
"Hoa à, hoa à! Ngươi mỗi năm mỗi tuổi đều có lúc nở, còn ta đến khi nào
mới có được ngày ấy?". Lời chưa dứt lệ đã tuông rơi, nàng vừa sờ vào
hoa, hoa chợt thu mình, lá xanh cuộn lại. Nào ngờ, nàng sờ phải là loại hoa
trinh nữ (cây xấu hổ). Lúc này, có một cung nga nhìn thấy, người cung nga đó đi
đâu cũng nói cho người khác nghe việc ấy. Từ đó, mọi người gọi Dương Ngọc Hoàn
là "Tu hoa" (羞花).
Năm
756, Loạn An Sử nổ ra, Dương Quý phi cùng Đường Huyền Tông phải
rời khỏi Trường An. Khi đến Mã Ngôi, quân sĩ thấy anh trai Quý
phi là Dương Quốc Trung tham tàn
hiểm ác, bèn hợp giết đi và ép Huyền Tông phải xử tử Dương Quý phi. Nàng bị Huyền
Tông sai người thắt cổ. Sau khi chết, xác Quý phi chỉ là chôn vội ven đường,
sau đó binh lính hành quân tiếp.
Đặc trưng
Dựa
theo các tác phẩm Trung Quốc, Tứ Đại Mỹ Nhân, mỗi người đều có những đặc
trưng riêng. Ví dụ điển hình vào năm 2008, nhà văn Kỷ Liên Hải (紀連海) viết một quyển
sách nói về Tứ Đại Mỹ Nhân với tựa đề "Kỷ Liên Hải khen chê Tứ Đại Mỹ
Nhân" (紀連海嘆說四大美人). Trích dẫn một phần trong quyển sách là "西施腳大,昭君肩溜,貂蟬耳小,貴妃腋臭" nghĩa là Tây Thi
chân to, Vương Chiêu Quân vai xệ, Điêu Thuyền tai nhỏ, Dương Quý Phi nách hôi.
Tây Thi được biết tới là bị
đau ngực, tuy nhiên nỗi đau làm mặt nàng đẹp hơn bao giờ hết. Một số
người nói nàng có chân to hơn bình thường. Dương Quý Phi thì được
nói tới rằng bị thân có mùi hôi, nàng thường tìm cách gỡ bỏ mùi bằng cách dùng
bột thơm trong khi tắm. Điêu
Thuyền thì bị đồn là có một bên tai to, một bên tai nhỏ. Vương Chiêu Quân thì được nhắc tới với một bên
vai cao, một bên thấp.
Các thuyềt khác về Tứ đại mỹ nhân
Vì
Điêu Thuyền chỉ là nhân vật hư cấu, có ý kiến cho rằng
nên thay bằng Triệu Phi Yến, nổi tiếng với sắc đẹp thân thể uyển
chuyển, nhẹ như chim yến. Vì thế, danh sách đó là: Tây Thi, Vương Chiêu Quân, Triệu Phi Yến và Dương Thái Chân.
Tứ
đại mỹ nhân còn có thuyết khác rằng: "Tiếu Bao Tự; bệnh Tây Thi; ngận
Đát Kỷ; túy Dương phi", tức nói đến: Bao Tự, Tây Thi, Đát
Kỷ và Dương Quý phi. Cả 4 người này đều nổi tiếng về việc
khiến một triều đại bị hủy hoại, khiến vị quân vương si mê đến nỗi tiêu tan sự
nghiệp.
Năm 1909, tại Cam Túc,
phát hiện một bức tranh thời Nam Tống
xưng là "Tứ mĩ đồ" (四美图). Theo đó, có 4 mỹ nữ gồm: Lục
Châu, Vương Chiêu Quân, Triệu Phi Yến và Ban Cơ.
Thi
sĩ nhà
Minh là Trương Nguyên Khải (张元凯) có viết thơ ngâm
về Tứ đại mỹ nhân, theo đó: Minh phi, Phi Yến, Văn Quân và Lục
Châu; gọi là Cổ đại Tứ mỹ nhân.
(55) 地灵人杰 [địa linh nhân kiệt] (địa linh nhân kiệt)
Thành
ngữ này có xuất xứ từ bài thơ 滕王閣序 [ Đằng Vương Các tự] của Vương Bột thi sĩ thời Sơ Đường. Trong đó có đoạn:
南昌故郡,洪都新府。
星分翼軫,地接衡廬。
襟三江而帶五湖,控蠻荊而引甌越。
物華天寶,龍光射牛鬥之墟;
人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻。
雄州霧列,俊采星馳,
臺隍枕夷夏之交,賓主盡東南之美。
都督閻公之雅望,綮戟遙臨;
宇文新州之懿范,襜帷暫駐。
十旬休暇,勝友如雲;
千里逢迎,高朋滿座。
騰蛟起鳳,孟學士之詞宗;
紫電青霜,王將軍之武庫。
家君作宰,路出名區;
童子何知,躬逢勝餞。
星分翼軫,地接衡廬。
襟三江而帶五湖,控蠻荊而引甌越。
物華天寶,龍光射牛鬥之墟;
人傑地靈,徐稚下陳蕃之榻。
雄州霧列,俊采星馳,
臺隍枕夷夏之交,賓主盡東南之美。
都督閻公之雅望,綮戟遙臨;
宇文新州之懿范,襜帷暫駐。
十旬休暇,勝友如雲;
千里逢迎,高朋滿座。
騰蛟起鳳,孟學士之詞宗;
紫電青霜,王將軍之武庫。
家君作宰,路出名區;
童子何知,躬逢勝餞。
Đằng
Vương các tự
Nam
Xương cố quận, Hồng Đô tân phủ.
Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư.
Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt.
Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư;
Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp.
Hùng châu vụ liệt, tuấn thái tinh trì,
Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao, tân chủ tận đông nam chi mỹ.
Đô đốc Diêm công chi nhã vọng, khể kích dao lâm;
Vũ Văn tân châu chi ý phạm, xiêm duy tạm trú.
Thập tuần hưu hạ, thắng hữu như vân;
Thiên lý phùng nghinh, cao bằng mãn toạ.
Đằng giao khởi phụng, Mạnh học sĩ chi từ tông;
Tử điện thanh sương, Vương tướng quân chi võ khố.
Gia quân tác tể, lộ xuất danh khu;
Đồng tử hà tri, cung phùng thắng tiễn.
Tinh phân Dực Chẩn, địa tiếp Hành Lư.
Khâm tam giang nhi đới ngũ hồ, khống Man Kinh nhi dẫn Âu Việt.
Vật hoa thiên bảo, long quang xạ Ngưu Đẩu chi khư;
Nhân kiệt địa linh, Từ Trĩ hạ Trần Phồn chi tháp.
Hùng châu vụ liệt, tuấn thái tinh trì,
Đài hoàng chẩm Di Hạ chi giao, tân chủ tận đông nam chi mỹ.
Đô đốc Diêm công chi nhã vọng, khể kích dao lâm;
Vũ Văn tân châu chi ý phạm, xiêm duy tạm trú.
Thập tuần hưu hạ, thắng hữu như vân;
Thiên lý phùng nghinh, cao bằng mãn toạ.
Đằng giao khởi phụng, Mạnh học sĩ chi từ tông;
Tử điện thanh sương, Vương tướng quân chi võ khố.
Gia quân tác tể, lộ xuất danh khu;
Đồng tử hà tri, cung phùng thắng tiễn.
(Đây
là) quận cũ Nam Xương; phủ mới Hồng Đô.
Sao chia ngôi Dực, ngôi Chẩn; đất nối núi Hành, núi Lư.
Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ; khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.
Bậc hào kiệt nơi người do khí linh tú của đất mà có; nhà cao sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Trần Phồn.
Chốn hùng châu như sương mù giải giăng; nguời anh tuấn như ngôi sao rong ruổi.
Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.
Tiếng tăm tốt của đô đốc Diêm Bá Tự cùng với những khải kích đi đến miền xa.
Quan thái thú Vũ Văn Quân, là mô phạm của châu mới, tạm dừng xe tại chốn này.
Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây.
Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.
Giao long vượt cao, phụng hoàng nổi dậy, đó là tài hoa của Mạnh học sĩ, ông tổ của từ chương.
Tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết tháo của Vương tướng quân, nhà cai quản võ khố.
Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó.
Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.
Sao chia ngôi Dực, ngôi Chẩn; đất nối núi Hành, núi Lư.
Như cổ áo của ba sông, vòng đai của năm hồ; khuất phục đất Man Kinh, tiếp dẫn miền Âu Việt.
Vẻ rực rỡ của vật chính là đồ quý báu của trời; ánh sáng vằn rồng chiếu lên khu vực sao Đẩu sao Ngưu.
Bậc hào kiệt nơi người do khí linh tú của đất mà có; nhà cao sĩ Từ Trĩ hạ chiếc giường treo của Trần Phồn.
Chốn hùng châu như sương mù giải giăng; nguời anh tuấn như ngôi sao rong ruổi.
Đài, hào nằm gối lên giao giới vùng Di, Hạ; khách, chủ đều là những vẻ đẹp miền đông, nam.
Tiếng tăm tốt của đô đốc Diêm Bá Tự cùng với những khải kích đi đến miền xa.
Quan thái thú Vũ Văn Quân, là mô phạm của châu mới, tạm dừng xe tại chốn này.
Mười tuần nhàn rỗi, bạn tốt như mây.
Ngàn dặm đón chào, bạn hiền đầy chỗ.
Giao long vượt cao, phụng hoàng nổi dậy, đó là tài hoa của Mạnh học sĩ, ông tổ của từ chương.
Tia chớp tía, hạt sương trong, đó là tiết tháo của Vương tướng quân, nhà cai quản võ khố.
Nhân gia quân làm quan tể tại Giao Châu, tôi đi thăm miền nổi tiếng đó.
Kẻ đồng tử này đâu biết có việc chi, hân hạnh gặp buổi tiệc linh đình.
“Địa
linh nhân kiệt” trong tiếng Trung Quốc cũng như trong tiếng Việt chỉ nơi sinh
ra người kiệt xuất, hoặc đã đi qua. Mặt khác cũng đã thành nơi danh thắng.
Nó
có thể làm vị ngữ, định ngữ ca ngợi quê hương của người nào đó.
Tiếng
Anh nói là: place propitious for giving birth to great men
(56) 道听途说[Đạo thính đồ thuyết] chỉ tin đồn nhảm, hoang đường không có
căn cứ.
Câu
thành ngữ này có xuất xứ từ Luận ngữ - Dương hóa. Truyện xảy ra
vào thời Chiến Quốc hơn 2000 năm trước , Có một người tên là Ngải
Tử. Một hôm, khi anh ta đang đi trên đường thì gặp một người hay kháo
chuyện tên là Mao Không . Mao Không với vẻ rất bí mật nói Ngải Tử
rằng , " Này, anh có biết không ? Có một nhà nọ nuôi được một
con vịt, không biết trời xui ma khiến thế nào mà nó rặn ra được một
trăm quả trứng ". Ngải Tử nghe vậy lắc đầu nói . " Làm gì
có chuyện đó ". Mao Không nói : " Thế nhỡ ra là hai con vịt
cùng đẻ thì sao ? Ngải Tử vẫn không tin . Mao Không thấy vậy lại nói
tăng số lượng vịt đẻ lên, mà không hề giảm số lượng trứng vịt xuống
. Nhưng anh ta nói thế nào thì Ngải Tử vẫn lắc đầu nguây nguẩy . Một
lát sau , Mao Không lại nói với Ngải Tử rằng : "Này anh có biết
không ? tháng trước trên trời bỗng rơi bịch xuống một cục thịt rộng
hơn 10 trượng , dài 30 trượng ". Nhưng Ngải Tử vẫn không tin, Mao
Không lại đổi giọng nói: " Thế cục thịt chỉ dài 10 trượng ,rộng
10 trượng thì sao? ". Ngải Tử đã cảm thấy rất khó chịu không
muốn nghe nữa mới hỏi lại rằng : Trên đời này làm gì có cục thịt
dài 10 trượng, rộng 10 trượng ? Hơn nữa lại rơi từ trên trời xuống ,
chẳng lẽ anh tận mắt nhìn thấy sao ? Vừa nãy anh nói về vịt đẻ
,vậy xin hỏi anh là vịt nhà ai ? Còn cục thịt rơi xuống ấy thì rơi
ở chỗ nào ? Mao Không bị hỏi dồn cứ há hốc miệng, đứng đực người
ra chẳng biết nói sao, mãi sau anh ta mới hạ thấp giọng xoa dịu rằng
, " Thì tôi cũng chỉ nghe người ta nói vậy thôi , chứ có nhìn
thấy đâu ."
Ngải
Tử nghe xong, liền cười phá lên nói, "Đã không nhìn thấy thì anh
cũng đừng cố mà "Rặn" nó ra cho phí hơi sức". Nói xong,
anh ta quay lại nói với các học trò của mình rằng: "Các em chớ
có học kháo truyện vỉa hè như người này".
(Theo Đài phát thanh Quốc tế Trung Quốc)
Hiện
nay, người ta vẫn thường dùng câu: "Đạo thính đồ thuyết" để
chỉ tin đồn nhảm, hoang đường, chẳng có chút căn cứ nào.
Nguyễn Ngọc Kiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét