Thứ Năm, 4 tháng 5, 2017

Những thành ngữ có xuất xứ từ thơ cổ điển và điển cố (Kì 18)


TS Nguyễn Ngọc Kiên

          Nguyễn Ngọc Kiên

          (50) 碧海青天 [bích hải thanh thiên] (trời xanh biển  biếc)
          Đây là một thành ngữ tiếng Hán. Nguyên hình dung Hằng Nga trong cung Quảng Hàn, đêm đêm nhìn biển biếc trời xanh bao la, trong lòng cô tịch thê lương; sau chỉ cô gái kiên trinh với tình yêu. Nó có xuất xứ từ bài thơ Hằng Nga của Lí Thương Ẩn đời Đường. Nguyên văn:


Phiên âm:
Thường Nga
Vân mẫu bình phong chúc ảnh thâm,
Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm.
Thường Nga ưng hối thâu linh dược,
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.

Dịch nghĩa:
Thường Nga
Bóng nến in đậm trên bình phong bằng đá vân mẫu
Sông Ngân hà dần dần xuống thấp, sao sớm lặn chìm
Thường Nga chắc hẳn hối hận đã ăn trộm thuốc thiêng
Hằng đêm phơi bày tấm lòng giữa nơi trời xanh, biển biếc

          Thường Nga tức Hằng Nga, vợ của Hậu Nghệ. Hậu Nghệ xin được thuốc tiên bất tử của Tây Vương Mẫu, Thường Nga lấy trộm thuốc của chồng, chạy lên cung trăng.

Dịch thơ: 
 Bản dịch của Trần Trọng San
Nến in bình đá đêm dài
Sông trời dần thấp, sao mai lặn chìm
Thường Nga hối trộm thuốc tiên
Trời xanh biển biếc đêm đêm tỏ lòng

          (51) [Thạch phá thiên kinh] (Kinh động lòng người) Núi lở đá tan, ở thế kinh thiên động địa, nguyên chỉ nốt cao đột nhiên của tiếng đàn không hầu làm chấn động cả nhà trời, nay chỉ đại sự đột phát hay văn chương nghị luận làm kinh động lòng người. Nó có xuất xứ từ bài thơ Lí Bằng không hầu dẫn của Lí Hạ đời nhà Đường. Nguyên văn như sau:

Phiên âm: 
Lý Bằng không hầu dẫn
Ngô ty Thục đồng trương cao thu,
Không sơn ngưng vân đồi bất lưu.
Giang Nga đề trúc, Tố Nữ sầu,
Lý Bằng trung quốc đàn không hầu.
Côn Sơn ngọc toái, phụng hoàng khiếu,
Phù dung khấp lộ, hương lan tiếu.
Thập nhị môn tiền dung lãnh quang,
Nhị thập tam ty động Tử Hoàng.
Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ,
Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ.
Mộng nhập thần sơn giáo Thần Ẩu,
Lão ngư khiêu ba sấu giao vũ.
Ngô Chất bất miên ỷ quế thụ,
Lộ cước tà phi thấp hàn thố.

Lý Bằng: âm nhạc gia trứ danh đời Trung Đường, giỏi gảy đàn không hầu.

Bản dịch thơ của Huỳnh Ngọc Chiến
Gỗ đàn nước Thục dây Ngô
Trời thu mây cũng lững lờ ngừng trôi
Giang Nga khóc trúc ngậm ngùi
Cung không hầu vọng bồi hồi thở than
Nghe như tiếng hót phượng hoàng
Côn Sơn ngọc vỡ trên ngàn xa khơi
Phù dung khóc hạt sương rơi
Còn nghe e ấp nụ cười hương lan
Sáng nhoà gác cổng Trường An
Tiếng tơ vang động Tử Hoàng trên cao
Nữ Oa luyện đá nơi nào
Trời tan đá vỡ lắng vào mưa thu
Mộng non thần, tiếng nhạc ru
Cá già lướt sóng lượn lờ giao long
Tựa cây quế, thức mơ mòng
Sương gieo gót lạnh ướt vầng trăng đêm.

          Cận nghĩa với thành ngữ này có惊天动地 (kinh thiên động địa)天翻地覆 (trời long đất lở)
          Trái nghĩa của thành ngữ này  默默无闻 (yên lặng không  nghe thấy)

          (52) 天经地义 [thiên kinh địa nghĩa]
          Kinh: quy phạm, nghĩa: chính lí. Trời đất từ rất lâu có đạo lí bất biến. Chỉ đạo lí tuyệt đối chính xác, không thể thay đổi, cũng chỉ sự đương nhiên.
Xuất xứ: Tả truyện, Triệu Công năm thứ 25: “ Phu lễ, thiên chi kinh dã, địa chi nghĩa dã, dân chi hành dã. Thiên kinh địa nghĩa cố sự”.
          Ví dụ: Học tốt tri thức văn hóa khoa học  là chuyện đương nhiên / thiên kinh địa nghĩa của mỗi học sinh.
          Cận nghĩa với thành ngữ này là千真万确 [thiên chân vạn xác] (chắc chắn là thật, đúng trăm phần trăm)

(53) 珠還合浦 [Châu hoàn Hợp Phố] (Châu về Hợp Phố)
          Châu về Hợp phố
          Đây là một thành ngữ  gốc Hán:
          “Hợp Phố châu hoàn”
          Có nghĩa là:
          Những cái quý giá không thể mất đi được, trước sau cũng quay về với chủ nó.
          Do tích sau:
          Thời Hậu hán, có tên thái thú bạo tàn, thường bắt dân đi lấy ngọc châu.
          Vì thế, châu từ Hợp Phố sang hết quận Giao Chỉ ()
          Mãi sau, Mạnh Thường () về thay chức thái thú, bỏ hết lề luật cũ, ngọc châu lại quay về Hợp Phố ().
          Lại truyền rằng, do sự cai trị hà khắc, thuế tô quá nặng, người làm nghề trai ngọc Hợp Phố bỏ quê, phân tán nhiều nơi.
          Mãi sau, chính sách cai trị có nới lỏng, quan lại thanh liêm hợn, ít sách nhiễu dân chúng, những người làm nghề lấy hạt châu lại trở về Hợp Phố.
          Vài thông tin về Hợp Phố
          Hợp Phố (合浦), trước đây gọi là Liêm Châu, là một huyện thuộc địa cấp thị Bắc Hải, Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc.
Huyện này có diện tích 2.380 km², dân số năm 2003 đạt 930.914 người, huyện lỵ là trấn Liêm Châu (廉洲).
          Khoảng 5.000 năm trước, trong thời kỳ đồ đá mới tại khu vực Hợp Phố ngày nay đã có những hoạt động của con người.
Tại di chỉ khảo cổ Tây Sa Pha người ta đã khai quật được các loại rìu đá, dao đá v.v, những công cụ nguyên thủy của con người.
Trước khi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, Hợp Phố là vùng đất của Bách Việt.
          Năm thứ 33 thời Tần Thủy Hoàng (214 trước Công Nguyên – TCN), quân đội Tần thống nhất Lĩnh Nam, lập ra Nam Hải, Quế Lâm, và Tượng Quận.
          Hợp Phố thuộc về Tượng Quận.
          Năm Nguyên Đỉnh thứ 6 thời Hán Vũ Đế (111 TCN), quân đội Tây Hán xâm chiếm Nam Việt, lấy vùng giáp giới Nam Hải, Tượng Quận lập ra quận Hợp Phố, với thủ phủ quận đặt tại Từ Văn (nay thuộc huyện Hải Khang tỉnh Quảng Đông), đồng thời thiết lập huyện Hợp Phố.
          Năm Hoàng Vũ thứ 7 (228) thời Tam Quốc, Đông Ngô đổi quận Hợp Phố thành quận Châu Quan, nhưng chẳng bao lâu sau lại đổi về tên cũ.
          Năm Trinh Quan thứ 8 (634) thời Đường, Hợp Phố được gọi là Liêm Châu.
          Năm Chí Nguyên thứ 17 (1280), nhà Nguyên đổi thành tổng quản phủ Liêm Châu.
          Từ  năm Hồng Vũ thứ nhất (1368) thời Minh cho tới thời  Thanh người ta lập phủ Liêm Châu, trực thuộc tỉnh Quảng Đông.
          Thời kỳ Trung Hoa dân quốc (1911-1949):
          Huyện Hợp Phố trước sau thuộc về đạo Khâm Liêm, tỉnh Quảng Đông, là khu nam của công sở Tuy Tĩnh cùng công sở chuyên viên khu hành chính đốc sát số 8.
          Thời kỳ Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa:
          Tháng 12 năm 1949, huyện Hợp Phố thuộc quyền quản lý của chính quyền mới, trực thuộc tỉnh Quảng Đông.
          Ngày 10 tháng 5 năm 1951, các hương, trấn thuộc huyện Hợp Phố là 2 trấn Bắc Hải Đông, Bắc Hải Tây cùng 2 hương Cao Đức, Vi Châu tách ra để thành lập huyện cấp thị Bắc Hải trực thuộc tỉnh Quảng Đông.
          Năm 1952, Hợp Phố được bàn giao cho tỉnh Quảng Tây.
          Năm 1955 lại bàn giao cho tỉnh Quảng Đông, tới năm 1965 lại trở về Quảng Tây, thuộc về chuyên khu Khâm Châu.
          Tháng 7 năm 1987 huyện Hợp Phố trực thuộc Bắc Hải.
          Tháng 3 năm 1988, Quốc viện CHND Trung Hoa phê chuẩn trở thành huyện mở vùng duyên hải.
          Ngày 17 tháng 12 năm 1994, từ huyện Hợp Phố tách ra các trấn như Phúc Thành về quận Ngân Hải; hai trấn Nam Khang, Doanh Bàn về quận Thiết sơn Cảng.
          Huyện Hợp Phố hiện tại chia ra thành:
          13 trấn:
          Liêm Châu, Đảng Giang, Sa Cương, Tây Trường, Ô Gia, Thạch Loan, Thạch Khang, Thường Lạc, Áp Khẩu, Công Quán, Bạch Sa, Sơn Khẩu, Sa Điền.
          2 hương:
          Khúc Chương, Tinh Đảo Hồ.

(còn nữa, kì sau đăng tiếp)

Nguyễn Ngọc Kiên

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét