TS Nguyễn Ngọc Kiên |
Nguyễn
Ngọc Kiên
(50) 碧海青天 [bích hải thanh thiên]
(trời xanh biển biếc)
Đây
là một thành ngữ tiếng Hán. Nguyên hình dung Hằng Nga trong cung Quảng Hàn, đêm
đêm nhìn biển biếc trời xanh bao la, trong lòng cô tịch thê lương; sau chỉ cô
gái kiên trinh với tình yêu. Nó có xuất xứ từ bài thơ Hằng Nga của Lí Thương Ẩn
đời Đường. Nguyên văn:
Phiên âm:
Thường Nga
Vân mẫu bình phong chúc ảnh
thâm,
Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm.
Thường Nga ưng hối thâu linh dược,
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.
Trường hà tiệm lạc hiểu tinh trầm.
Thường Nga ưng hối thâu linh dược,
Bích hải thanh thiên dạ dạ tâm.
Dịch
nghĩa:
Thường Nga
Bóng nến in đậm trên bình
phong bằng đá vân mẫu
Sông Ngân hà dần dần xuống thấp, sao sớm lặn chìm
Thường Nga chắc hẳn hối hận đã ăn trộm thuốc thiêng
Hằng đêm phơi bày tấm lòng giữa nơi trời xanh, biển biếc
Sông Ngân hà dần dần xuống thấp, sao sớm lặn chìm
Thường Nga chắc hẳn hối hận đã ăn trộm thuốc thiêng
Hằng đêm phơi bày tấm lòng giữa nơi trời xanh, biển biếc
Thường
Nga tức Hằng Nga, vợ của Hậu Nghệ. Hậu Nghệ xin được thuốc tiên bất tử của Tây
Vương Mẫu, Thường Nga lấy trộm thuốc của chồng, chạy lên cung trăng.
Dịch thơ:
Bản dịch của Trần Trọng
San
Nến in bình đá đêm dài
Sông trời dần thấp, sao mai lặn chìm
Thường Nga hối trộm thuốc tiên
Trời xanh biển biếc đêm đêm tỏ lòng
Sông trời dần thấp, sao mai lặn chìm
Thường Nga hối trộm thuốc tiên
Trời xanh biển biếc đêm đêm tỏ lòng
(51) 石破天驚 [Thạch phá thiên kinh]
(Kinh động lòng người) Núi lở đá tan, ở thế kinh thiên động địa,
nguyên chỉ nốt cao đột nhiên của tiếng đàn không hầu làm chấn động cả nhà trời,
nay chỉ đại sự đột phát hay văn chương nghị luận làm kinh động lòng người. Nó
có xuất xứ từ bài thơ Lí Bằng không hầu dẫn của Lí Hạ đời nhà Đường. Nguyên văn
như sau:
吳絲蜀桐張高秋,
空山凝云頹不流。
江娥啼竹素女愁,
李憑中國彈箜篌。
昆山玉碎鳳凰叫,
芙蓉泣露香蘭笑。
十二門前融冷光,
二十三絲動紫皇。
女媧煉石補天處,
石破天驚逗秋雨。
夢入神山教神嫗,
老魚跳波瘦蛟舞。
吳質不眠倚桂樹,
露腳斜飛濕寒兔。
空山凝云頹不流。
江娥啼竹素女愁,
李憑中國彈箜篌。
昆山玉碎鳳凰叫,
芙蓉泣露香蘭笑。
十二門前融冷光,
二十三絲動紫皇。
女媧煉石補天處,
石破天驚逗秋雨。
夢入神山教神嫗,
老魚跳波瘦蛟舞。
吳質不眠倚桂樹,
露腳斜飛濕寒兔。
Phiên âm:
Lý Bằng không hầu dẫn
Ngô ty Thục đồng trương cao
thu,
Không sơn ngưng vân đồi bất lưu.
Giang Nga đề trúc, Tố Nữ sầu,
Lý Bằng trung quốc đàn không hầu.
Côn Sơn ngọc toái, phụng hoàng khiếu,
Phù dung khấp lộ, hương lan tiếu.
Thập nhị môn tiền dung lãnh quang,
Nhị thập tam ty động Tử Hoàng.
Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ,
Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ.
Mộng nhập thần sơn giáo Thần Ẩu,
Lão ngư khiêu ba sấu giao vũ.
Ngô Chất bất miên ỷ quế thụ,
Lộ cước tà phi thấp hàn thố.
Không sơn ngưng vân đồi bất lưu.
Giang Nga đề trúc, Tố Nữ sầu,
Lý Bằng trung quốc đàn không hầu.
Côn Sơn ngọc toái, phụng hoàng khiếu,
Phù dung khấp lộ, hương lan tiếu.
Thập nhị môn tiền dung lãnh quang,
Nhị thập tam ty động Tử Hoàng.
Nữ Oa luyện thạch bổ thiên xứ,
Thạch phá thiên kinh đậu thu vũ.
Mộng nhập thần sơn giáo Thần Ẩu,
Lão ngư khiêu ba sấu giao vũ.
Ngô Chất bất miên ỷ quế thụ,
Lộ cước tà phi thấp hàn thố.
Lý Bằng: âm nhạc gia trứ danh đời Trung Đường, giỏi gảy đàn không hầu.
Bản dịch thơ của Huỳnh Ngọc
Chiến
Gỗ đàn nước Thục dây Ngô
Trời thu mây cũng lững lờ ngừng trôi
Giang Nga khóc trúc ngậm ngùi
Cung không hầu vọng bồi hồi thở than
Nghe như tiếng hót phượng hoàng
Côn Sơn ngọc vỡ trên ngàn xa khơi
Phù dung khóc hạt sương rơi
Còn nghe e ấp nụ cười hương lan
Sáng nhoà gác cổng Trường An
Tiếng tơ vang động Tử Hoàng trên cao
Nữ Oa luyện đá nơi nào
Trời tan đá vỡ lắng vào mưa thu
Mộng non thần, tiếng nhạc ru
Cá già lướt sóng lượn lờ giao long
Tựa cây quế, thức mơ mòng
Sương gieo gót lạnh ướt vầng trăng đêm.
Trời thu mây cũng lững lờ ngừng trôi
Giang Nga khóc trúc ngậm ngùi
Cung không hầu vọng bồi hồi thở than
Nghe như tiếng hót phượng hoàng
Côn Sơn ngọc vỡ trên ngàn xa khơi
Phù dung khóc hạt sương rơi
Còn nghe e ấp nụ cười hương lan
Sáng nhoà gác cổng Trường An
Tiếng tơ vang động Tử Hoàng trên cao
Nữ Oa luyện đá nơi nào
Trời tan đá vỡ lắng vào mưa thu
Mộng non thần, tiếng nhạc ru
Cá già lướt sóng lượn lờ giao long
Tựa cây quế, thức mơ mòng
Sương gieo gót lạnh ướt vầng trăng đêm.
Trái
nghĩa của thành ngữ này là默默无闻 (yên lặng không nghe thấy)
(52) 天经地义 [thiên kinh địa nghĩa]
Kinh:
quy phạm, nghĩa: chính lí. Trời đất từ rất lâu có đạo lí bất biến. Chỉ đạo lí
tuyệt đối chính xác, không thể thay đổi, cũng chỉ sự đương nhiên.
Xuất xứ: Tả truyện, Triệu
Công năm thứ 25: “ Phu lễ, thiên chi kinh dã, địa chi nghĩa dã, dân chi hành dã.
Thiên kinh địa nghĩa cố sự”.
Ví
dụ: Học tốt tri thức văn hóa khoa học là
chuyện đương nhiên / thiên kinh địa nghĩa của mỗi học sinh.
Cận nghĩa với thành ngữ này là千真万确 [thiên chân vạn
xác] (chắc chắn là thật, đúng trăm phần trăm)
(53)
珠還合浦 [Châu hoàn Hợp Phố] (Châu về Hợp Phố)
Châu về
Hợp phố
Đây
là một thành ngữ gốc Hán:
“Hợp
Phố châu hoàn”
Có
nghĩa là:
Những
cái quý giá không thể mất đi được, trước sau cũng quay về với chủ nó.
Do
tích sau:
Thời
Hậu hán, có tên thái thú bạo tàn, thường bắt dân đi lấy ngọc châu.
Mãi
sau, Mạnh Thường (孟嘗) về thay chức thái thú, bỏ hết lề luật cũ, ngọc
châu lại quay về Hợp Phố (合浦).
Lại
truyền rằng, do sự cai trị hà khắc, thuế tô quá nặng, người làm nghề trai ngọc
Hợp Phố bỏ quê, phân tán nhiều nơi.
Mãi
sau, chính sách cai trị có nới lỏng, quan lại thanh liêm hợn, ít sách nhiễu dân
chúng, những người làm nghề lấy hạt châu lại trở về Hợp Phố.
Vài
thông tin về Hợp Phố
Hợp
Phố (合浦),
trước đây gọi là Liêm Châu, là một huyện thuộc địa cấp thị Bắc Hải, Khu tự trị
dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc.
Huyện này có diện tích 2.380
km², dân số năm 2003 đạt 930.914 người, huyện lỵ là trấn Liêm Châu (廉洲).
Khoảng
5.000 năm trước, trong thời kỳ đồ đá mới tại khu vực Hợp Phố ngày nay đã
có những hoạt động của con người.
Tại di chỉ khảo cổ Tây Sa Pha
người ta đã khai quật được các loại rìu đá, dao đá v.v, những công cụ nguyên thủy
của con người.
Trước khi nhà Tần thống
nhất Trung Quốc, Hợp Phố là vùng đất của Bách Việt.
Năm
thứ 33 thời Tần Thủy Hoàng (214 trước Công Nguyên – TCN), quân đội Tần thống
nhất Lĩnh Nam,
lập ra Nam Hải, Quế Lâm, và Tượng Quận.
Hợp
Phố thuộc về Tượng Quận.
Năm
Nguyên Đỉnh thứ 6 thời Hán Vũ Đế (111 TCN), quân đội Tây Hán xâm chiếm
Nam Việt, lấy vùng giáp giới Nam Hải, Tượng Quận lập ra quận Hợp Phố, với thủ
phủ quận đặt tại Từ Văn (nay thuộc huyện Hải Khang tỉnh Quảng Đông), đồng
thời thiết lập huyện Hợp Phố.
Năm
Hoàng Vũ thứ 7 (228) thời Tam Quốc, Đông Ngô đổi quận Hợp Phố thành quận
Châu Quan, nhưng chẳng bao lâu sau lại đổi về tên cũ.
Năm
Trinh Quan thứ 8 (634) thời Đường, Hợp Phố được gọi là Liêm Châu.
Năm
Chí Nguyên thứ 17 (1280), nhà Nguyên đổi thành tổng quản phủ Liêm Châu.
Từ
năm Hồng Vũ thứ nhất (1368) thời Minh cho tới thời Thanh người ta lập phủ Liêm Châu, trực
thuộc tỉnh Quảng Đông.
Thời
kỳ Trung Hoa dân quốc (1911-1949):
Huyện
Hợp Phố trước sau thuộc về đạo Khâm Liêm, tỉnh Quảng Đông, là khu nam của công
sở Tuy Tĩnh cùng công sở chuyên viên khu hành chính đốc sát số 8.
Thời
kỳ Cộng hòa Nhân dân (CHND) Trung Hoa:
Tháng
12 năm 1949, huyện Hợp Phố thuộc quyền quản lý của chính quyền mới, trực thuộc
tỉnh Quảng Đông.
Ngày
10 tháng 5 năm 1951, các hương, trấn thuộc huyện Hợp Phố là 2 trấn Bắc Hải
Đông, Bắc Hải Tây cùng 2 hương Cao Đức, Vi Châu tách ra để thành lập huyện
cấp thị Bắc Hải trực thuộc tỉnh Quảng Đông.
Năm
1952, Hợp Phố được bàn giao cho tỉnh Quảng Tây.
Năm
1955 lại bàn giao cho tỉnh Quảng Đông, tới năm 1965 lại trở về Quảng
Tây, thuộc về chuyên khu Khâm Châu.
Tháng
7 năm 1987 huyện Hợp Phố trực thuộc Bắc Hải.
Tháng
3 năm 1988, Quốc viện CHND Trung Hoa phê chuẩn trở thành huyện mở vùng
duyên hải.
Ngày
17 tháng 12 năm 1994, từ huyện Hợp Phố tách ra các trấn như Phúc Thành về quận
Ngân Hải; hai trấn Nam Khang, Doanh Bàn về quận Thiết sơn Cảng.
Huyện
Hợp Phố hiện tại chia ra thành:
13
trấn:
Liêm
Châu, Đảng Giang, Sa Cương, Tây Trường, Ô Gia, Thạch Loan, Thạch Khang, Thường
Lạc, Áp Khẩu, Công Quán, Bạch Sa, Sơn Khẩu, Sa Điền.
2
hương:
Khúc
Chương, Tinh Đảo Hồ.
(còn nữa, kì sau
đăng tiếp)
Nguyễn Ngọc Kiên
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét