Vũ Thị Hương Mai
Tôi là bạn đọc thường xuyên của trang dangxuanxuyen.blogspot.com và rất thích bài
thơ Quê Nghèo của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến. Vì không phải là dân văn chương nên
tôi không có khả năng lý luận để giới thiệu với bạn đọc cái hay, cái đẹp của
Quê Nghèo theo cách cảm nhận của riêng mình, đành làm theo cách tổng hợp cảm
nhận của một số tác giả và bạn đọc về bài thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến.
“Bài thơ Quê nghèo gồm 4 khổ chính, khổ nào cũng cất lên
câu mở đầu: Quê tôi nghèo lắm nghe như một tiếng thở dài buồn
thảm và dai dẳng không hòng tìm thấy điểm ngừng. 4 khổ thơ chính và 2 câu thơ
kết đã phô ra 5 cái nghèo lắm:
Trước hết là cái nghèo lắm về cảnh vật đến cuộc sống của người dân quê tôi:
Vẫn lác đác nhà tranh
Vẫn tiếng thở dài những chiều giáp hạt
Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Ba tiếng vẫn ở ba đầu ba câu thơ liên tiếp biểu
thị sự tiếp tục, tiếp diễn của trạng thái nghèo nàn mà không gì có thể thay đổi
được qua năm tháng. Tuy nhiên, vẫn lác đác nhà tranh thì
phần nào còn hy vọng nhà tranh sẽ hết. Nhưng “Vẫn tiếng thở dài những
chiều giáp hạt/ Vẫn bát cơm chan mồ hôi mặn chát” thì không dễ
gì thoát được khi mà người dân quê đã lam lũ dốc kiệt sức vào việc kiếm ăn và
đã phải một đời chắt chiu từ củ khoai nắm thóc, vậy mà hạt gạo không đủ
nấu cơm. Bởi thế, từ Vẫn thứ tư phải tiếp nối:
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Và biết bao tuổi thơ lâm vào cảnh:
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
Rất dễ hiểu ra, không phải là cánh cò bay lả bay la/ bay từ
cửa phủ bay ra cánh đồng hay những cánh cò trắng phau
phau/ ăn no tắm mát rủ nhau đi nằm; mà phải là những cánh
cò đi ăn đêm, những cánh cò lặn lội bờ sông…”. -
(Nguyễn Bàng - “Quê Nghèo”: Nghèo đến xót xa cõi lòng).
“Quê Nghèo thật sự là bài thơ hay. Là tiếng lòng đớn đau của người con khi
phải chính kiến cảnh đói nghèo, cơ cực trải dài qua bao năm tháng, qua bao thế
hệ ở làng quê, nơi chôn nhau cắt rốn của mình:
Cha cả đời lam lũ
Mẹ một đời chắt chiu
Khoai sắn vẫn len vào giấc ngủ
Tuổi thơ tôi đói ngủ
Thương cánh cò bấu bíu lời ru.
Đọc những dòng thơ như thế, tim tôi
như thắt lại.
Tôi không biết khi viết bài thơ này,
nhà thơ của Quê Nghèo quặn thắt gan ruột thế nào? Nhưng tôi tin anh phải xót
xa, đau đớn lắm!”. - (Bạn đọc
Nguyễn Việt Quang)
“Hình ảnh trong bài thơ của Đặng Xuân Xuyến viết là những làng quê của vùng
khoai lúa cây trồng nơi những vùng đồng bằng ít biến động bởi thiên tai bão tố.
Nước ta với hơn ba nghìn cây số biển dài còn bao làng quê sống nghề chài lưới.
Mỗi gia đình ở đây còn nơm nớp bao nhiêu khi đặt cược đời mình nơi những chiếc
phao nổi nênh mặt nước. Dù không giàu có nhưng sống nhờ con tôm, con cá …qua
ngày. Bỗng nhiên người ta bán đất đầu tư cho nước ngoài gần cả trăm năm. Công
nghiệp đem được lợi ích gì cho những người dân chài lưới chưa thấy đâu, đã gây
nên vụ ngộ độc suốt dải biển bắc miền Trung cá chết, đã hơn hai tháng nay chưa
tìm được nguyên nhân. Tuy được cho cơm gạo cầm hơi để sống, để nhìn ra biển.
Nỗi đau dân chài, tự dựng rơi lại vào cái bẫy khó nghèo, so với nỗi sợ, nỗi lo
ở những làng quê đời sống dân chài còn nơm nớp bấp bênh hơn. Đúng là “Đời như
chiếu bạc” mình không đánh bạc mà bị trắng tay… Nỗi buồn lo đến vậy cả một dải
đất miền biển, nhưng trên báo chí truyền thông ta chỉ được đọc một hai bài thơ
đồng cảm với biển, chứng tỏ còn một nỗi đáng sợ hơn là lòng người bây giờ, tuy
vẫn cười vẫn nói cùng nhau nhưng thứ tình nghĩa quê kiểng xóm làng sống không
còn ấm áp “Tắt lửa tối đèn” như xưa.
Giữa không khí thơ như thế bài thơ của Đặng Xuân Xuyến như đốm lửa tình
người vẫn còn lửa hồng than đỏ, hàng ngày sống giữa những cạnh tranh giành giật
phố phường mà còn gửi được hồn mình ở nơi tình người và cảnh vật lẻ loi là thật
đáng quý:
Phiên chợ quê còn ẽo ợt nghèo hơn
Răm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn mẹt ngô
Í ới mời chào…
Ế bán
Chán mua
… Chợ quê xác xơ già cỗi
Bài thơ “Quê nghèo” của Đặng Xuân Xuyến cho ta cái tình, tình người muôn
thuở. Làng thơ Việt Nam bây giờ có nhiều người giàu có, quyền tước ngất trời
muốn mượn thêm thơ để làm phật đạo, rằng mình cũng hiền, cũng triết, cũng thanh
cao, đã mượn cả danh của hội nhà văn Việt Nam để in sách, mời những nhà thơ có
tiếng để hội thảo, in song ngữ, tam ngữ, quảng bá rùm beng như đám rước hội
làng, nhưng thơ nhạt thếch, bởi lòng họ còn đâu thứ tình người lửa khói. Tình
người đã cạn kiệt còn lấy gì để rung ngân… Trái tim không còn nhói đau khi chạm
phải “cái nghèo” cái bất công hàng ngày vây bủa thì còn đâu thơ phú…” - (Chử
Văn Long - Đọc bài thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến)
“Sau hơn 60 năm đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội rồi lại thực hiện
đường lối đổi mới, những tưởng quê tôi sẽ đổi thay và phát triển đầy ấm no,
hạnh phúc. Ai ngờ Quê tôi của nhà thơ, một làng quê của một
tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội chỉ hơn sáu chục cây
số, một vùng đất đã nổi danh từ 200 năm trước với Phố Hiến, một thương cảng đô
hội quan trọng bậc nhất ở Đàng Ngoài trong câu: “Thứ nhất Kinh Kỳ thứ nhì
Phố Hiến” vẫn không thoát cảnh Quê nghèo, vẫn chỉ là nhà tranh,
là tiếng thở dài, là bát cơm mặn chát mồ hôi, là khoai sắn len vào giấc ngủ của
người lớn, là cánh cò bấu bíu lời ru trong giấc đói ngủ của con trẻ.
Quê tôi nghèo lắm còn được phơi bầy không giấu giếm trong cảnh chợ
làng:
Dăm ba nải chuối
Vài mớ rau tươi
Mẹt sắn, mẹt ngô
Hàng hóa chỉ có thế, không thấy con tôm, con cá, con gà, miếng thịt lợn…
Chợ quê không nhiều người và phong phú hàng hóa như chợ huyện, chợ
tỉnh nhưng từ nghìn đời nay chợ quê không chỉ là nơi đổi chác mua bán mà
đối với dân làng còn là một nơi gần gụi thân thương chung của mọi người đồng
thời cũng là một sắc thái riêng của văn hóa làng trong văn hóa chung của dân
tộc. Bởi thế từ nghìn đời nay, bao người ao ước:
Muốn cho gần chợ mà chơi
Gần sông tắm mát, gần nơi đi về
Nhưng bây giờ cái chợ quê của nhà thơ chỉ còn là một cái chợ “èo
ọt’ với vài dăm món hàng rẻ tiền như nải chuối, mớ rau, mẹt sắn mẹt ngô
thì hiển nhiên cảnh họp chợ phải gần như vắng hoe:
Lèo tèo dăm người bán
Lẻ tẻ mấy người mua
Kẻ bán người mua, tất cả đều chung một tâm trạng buồn chán trước một phiên
chợ đang tàn tạ không còn sự sống:
Ế bán
Chán mua
Phiên chợ quê xác xơ già cỗi.
Quê tôi nghèo lắm, nghèo đến xót xa cõi lòng khi thấy hình hài lũ
trẻ:
Lũ trẻ gầy như con cá mắm
Lũ trai mặt mũi mốc meo
(…) Những thân hình đói khổ ấy làm sao chứa đựng được những tâm hồn lành
mạnh mà trong họ chỉ có:
Nơm nớp âu lo đời như chiếu bạc
Với sự sống quẩn quanh chật hẹp tù hãm như những:
con cò con vạc
Mỏi cổ chồn chân trên đồng đất của mình
Quê tôi nghèo lắm. Vậy nguồn gốc của nông nỗi nghèo lắm ấy là từ đâu? Hãy
nghe nhà thơ cắt nghĩa:
Trước hết là nỗi khổ đau truyền đời chưa dứt:
Nước mắt rơi từ thời chị Dậu
Tiếng oan khiên từ thời Giáo Thứ
Âm ỉ bủa quanh
Bám đeo đặc quánh
Và giờ đây cộng thêm:
Chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp
Ô hay, sao lại là tội của chiếc cổng làng dựng lên thật đẹp ấy?
Cổng làng có từ xa xưa ở làng quê Việt Nam. Ngoài ranh giới phân chia, cổng
làng thể hiện rõ hồn cốt của làng. Nó được dựng lên để bảo vệ làng khi có giặc
giã, trộm cướp và thường được dựng bằng tre, nối liền với những lũy tre bao bọc
quanh làng. Bên cạnh cổng làng có điếm canh, ngày cổng mở để dân làng đi lại,
đêm làng cử người canh ở điếm, kiểm tra người lạ vào làng. Những chiếc cổng
làng xưa cũ ấy đã đi vào thơ ca với những nét đẹp giản đơn mà thơ mộng:
Ngày nay dù ở nơi xa
Nhưng khi về đến cây đa đầu làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng
Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre
(Bàng Bá Lân)
Giờ cổng làng xưa không còn nữa. Quê thì nghèo rớt mồng tơi mà người ta lại
xây cổng làng hoành tráng quá. Cổng làng không còn là nơi thông báo cho người
khác biết về địa giới hành chính của làng nữa mà dường như chỉ để khoe mẽ:
Sừng sững bê tông cốt thép
Ngạo nghễ tượng đài
Ngạo nghễ trần ai
Và chính vì thế, người ta đâu biết:
Chiếc cổng làng thành tai hại
Giam hãm đời người
Tù túng giấc mơ.”
(Nguyễn
Bàng - “Quê Nghèo”: Nghèo đến xót xa cõi lòng).
"Cái cổng làng đã không còn là cổng làng của làng Đá nữa
mà là biểu tượng của thể chế đã giam hãm, trói buộc con người trong
đói nghèo, tù túnǵ... Một tiếng kêu đau thương, một sự phản kháng yếu
ớt: Cần phải phá bỏ sự trói buộc, giam hãm con người trong đói nghèo, tù túng
của thể chế thì cuộc sống của người dân mới có cơ được cải thiện.". - (Bạn
đọc Trần Anh Quân)
“Bài thơ “Quê Nghèo” không có sự bạo miệng của kẻ ngất ngưởng say, ngược lại
là những giọt lệ rơi vào, là tiếng khóc nghẹn ngào trong tâm tình thổ lộ.
(…) Bài thơ cho
ta thấy một nỗi đau truyền kiếp từ thế kỷ 19 đến nay. Nỗi đau đó do đâu, nhà
thơ không nói rõ nhưng nó đã “giam hãm đời người” ngay “từ trong giấc
mơ”. Như thế nỗi đau nầy không chỉ là nỗi đau vật chất mà còn là nỗi đau tinh
thần. Ngày xưa chị Dậu nghèo lắm về vật chất nhưng không ai cấm ước mơ. Bây giờ
“Giam hãm đời người / Tù túng giấc mơ”, nghĩa là có thêm cái “nghèo lắm”
tinh thần.
Bài thơ làm thức tỉnh cơn mê của những người nhìn vào mặt phải mà không
thấy mặt trái bao giờ.” - (Châu Thạch - Đọc thơ Đặng Xuân Xuyến)
“Bài thơ kết thúc với hai câu nhưng câu thứ nhất cũng đai lại ba
tiếng: Quê tôi nghèo. Và trong mọi cái nghèo đã nói, xót xa
hơn cả là cái nghèo trong câu kết thứ hai:
Nghèo cả giấc
mơ
Đến giấc mơ cũng nghèo thì nói gì đến hoài bão ước mơ lớn mà biết bao sự
đổi thay tốt đẹp ở đời thì chỉ thuộc về những người có hoài bão, biết ước mơ!”
(…) Trong muôn vạn bài thơ của các kiểu người người làm thơ, nhà nhà làm
thơ ngày nay với tràn ngập những bài thơ sáo mòn, nhạt thếch và cũ rích, thậm
chí có nhiều bài như cỏ dại và nấm độc, thì bài thơ Quê Nghèo của Đặng Xuân Xuyến là một bài
thơ xứng đáng được những người yêu thơ đích thực đón nhận. Trước sự nghèo khổ
của Quê hương, nhà thơ đã không câm lặng mà đã cất lên những tiếng thơ chân
thật và đầy xúc động thể hiện những nỗi xót lòng đối với làng quê, với người
dân quê của mình. Những tiếng thơ chân thật đến xót lòng ấy cũng là tiếng nói
chung cho nhiều người đang còn có những “Quê tôi” chưa thoát cảnh đói nghèo. -
(Nguyễn Bàng - “Quê Nghèo”: Nghèo đến xót xa cõi lòng).
Xin mượn lời nhà phê bình Châu Thạch trong bài viết “Đọc thơ Đặng Xuân
Xuyến” để kết thúc bài tổng hợp này:
“Với hai bài thơ “Bạn Quan” và “Quê nghèo” của mình, nhà thơ Đặng Xuân
Xuyến không làm nổi lên một cơn sốt trên mạng xã hội như bài thơ “Đất nước mình
lạ quá phải không anh” của cô giáo Trần Thị Lam nhưng gây ấn tượng mạnh cho bạn
đọc trên các trang web, nhất là giới văn nghệ sĩ và trí thức. Từ hai bài thơ đó
tôi đi tìm đọc thơ của Đặng Xuân Xuyến và cảm nhận được phong cách riêng lạ của
một nhà thơ đương đại. Hình như nhà thơ Đặng Xuân Xuyến làm thơ không nhiều lắm
nhưng mỗi bài thơ của anh như ngón tay chỉ ta nhìn thẳng vào cuộc sống và buộc
ta phải suy nghiệm bức tranh hiện thực đó, hoặc cho ta hưởng thụ những phút
giây sâu nhiệm diễn biến trong tâm hồn nhạy cảm của người thơ.”
*
VŨ THỊ HƯƠNG MAI
Địa chỉ: Khu tập thể Tổng công ty 319
Long Biên - Hà
Nội.
Email: huongmai8081@yahoo.com.vn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét