Vũ Duy Chu
Xóm
Chùa tôi còn có tên khác là Trại Chùa, vì có ngôi chùa rất đẹp ở rìa làng, giáp
với cánh đồng chiêm trũng thôn An Lạc, xã Yên Khánh và thôn An Lộc Thượng, xã Yên
Hồng…
Ngôi
Chùa thâm u, tĩnh lặng, trầm mặc, cách xa hàng trăm mét đã thấy mùi hương trầm phảng
phất. Đến cổng Chùa, bên tay phải là vạt ruộng chừng vài trăm mét vuông làng
chia cho nhà chùa tự trồng lúa lấy nếp lấy tẻ cúng Phật...
Trước
khi vào Chùa phật tử rửa chân ở cái ao hình bán nguyệt, rồi men theo con đường nhỏ
lát gạch vụn, dọc bức tường xây bao khuôn viên chùa vào sân…
Hồi
nhỏ, có một lần duy nhất tôi cùng một thằng bạn chăn trâu trèo qua tường vào
vườn hái trộm qua lan, một thứ hoa thơm ngào ngạt. Hoa thơm từ lúc chưa mở cánh
trên cây cho tới khi héo quắt trong túi áo tôi. Nghe mùi thơm là người ta biết
mùi hoa lan của nhà Chùa, không nơi nào khác…
Trụ
trì chùa là bà sư Chính và một sư nữa là Chiên, người ở đâu tôi về không rõ.
Tôn
giáo là một thứ gì đó mông lung, bí hiểm và hoàn toàn mơ hồ với cái tuổi 14-15 hồn
nhiên lấm láp lăn lóc như củ khoai, củ ráy của tôi.
Đến
khi học tới lớp 8 phổ thông, phải khai lý lịch vào đoàn thanh niên cộng sản, theo
các bạn tôi ghi mục tôn giáo là: Đi lương.
Không
ai dạy cho tôi tại sao khi thắp nhang bàn thờ Phật và thờ gia tiên lại rì rầm khấn
Nam
mô A di Đà Phật.
Không
ai dạy tôi, không có sách vở nào dạy tôi một câu kinh, một bài cúng trong muôn
vàn bài cúng Thần Phật, trời đất những dịp lễ Tết cổ truyền hay ngày rằm, ngày
ma chay…
Cho
tới tận bây giờ thắp ba nén nhang trên bàn thờ gia tiên, tôi cũng chỉ biết cúng
vái theo kiểu “hiện đại”, ngắn gọn: Nam Mô A di đà, hôm nay là ngày… con là… thắp
nhang khấn vái… rồi xướng tên ông bà hay cha mẹ…
Tất cả những hiểu biết về Phật giáo,
Thiên Chúa giáo, Cao Đài, Hòa hảo, Hồi giáo, Ấn Độ giáo của tôi mỏng le mỏng
lét, do tôi tự tìm hiểu mày mò.
Tôi
nhận ra rằng càng lớn tuổi thì nhu cầu tìm hiểu về tâm linh tự nhiên thôi thúc,
gợi mở…và nhiều niềm tin siêu nhiên được đời thường soi rọi, phản chiếu, không cưỡng
lại được, đó là luật Nhân Quả nhà Phật…
Tôi
đã từng ngồi hàng giờ trước quan tài người thân, nghe sư thầy hành lễ. Chúng tôi
răm rắp dâng trà, dâng cơm, dâng rượu, vái hai vái, ba vái…, mà không biết được
xuất sứ, ý nghĩa của việc dâng, của các bài kinh, lời nguyện và thư tự chi tiết
của buổi hành lễ…
Bây
giờ khi trên đầu có 2 thứ tóc, theo bạn bè người thân hay tự mình vãn cảnh ở
bất cứ ngôi chùa nào trên đát Việt hay nước ngoài tôi, đều nhớ tới ngôi chùa
làng tôi…
Những
năm chiến tranh, nhiều ngôi chùa mái đình bị biến thành lớp học, sân chùa thành
sân phơi.
Lúc
ấy đến chùa học tôi mới nhìn thấy các bức tượng Phật cao lớn, những vị La Hán
với nhiều vẻ mặt hỉ nộ ái ố như đang nhìn mình chằm chằm, tôi bỗng hoảng sợ…
Tôi
sợ luôn tiếng mõ văng vẳng từ ngôi chùa lúc sương chiều tháng 3 giáp hạt, những
ngày đói khát nhất trong năm. Sương chiều lạnh buốt nhức nhối. Tiếng mõ, tiếng chuông
lạnh lẽo, và tẻ buồn thăm thẳm...
Tôi sợ cả tiếng cuốc kêu. Tiếng cuốc kêu
đêm sà sã, sà rã, khô rát cất lên từ những bụi cỏ rậm rạp, những bờ lúa cao
thấp trên đồng.
Tôi
có cảm giác tiếng ếch trong các rạch nước ken kín bèo Tây, bèo tấm xung quanh chùa,
tiếng cuốc kêu phát ra là từ một đấng siêu nhiên nào đó.
Tuổi
thơ của tôi đầy ma trơi, ma xó. Một tiếng kẽo kẹt giữa đêm từ các lùm tre um tùm
rậm rạp đen như mực ngoằn ngoèo ngõ xóm cũng khiến tôi lạnh gáy…
Năm
1975 hòa bình tôi giải ngũ về quê thì cả ngôi chùa và cả ngôi đình biến mất.
Chính
quyền đã cho người san phẳng tất cả. Ngày Chùa biến thành lớp học sư Chính hóa điên,
có bữa sư trần trụi từ chùa đi ra, cười khanh khách, tay vung roi dâu, lang
thang dọc đường làng… Rồi sư Chính mất hồi nào, mộ ở đâu không thấy người làng
nhắc tới. Người con trai duy nhất của ông Tiến giữ đình làng thì hy sinh ở chiến
trường miến Nam.
Tất cả cột, rui mè, gỗ lạt, ban thờ, lọng võng, kiệu và hàng trăm, hàng ngàn
vật dụng của chùa, của đình đã bị người dân tẩu tán, chiếm dụng…
Năm
2000 tôi về làng thì người ta đang kêu gọi phật tử và những người làng đi xa làm
ăn khá giả đóng góp tùy theo khả năng để xây dựng lại ngôi chùa. Nhiều vật dụng
xưa kia được của chùa được người ta mang trả lại…
Tháng
3.2016 bà cô tôi mất, tôi về quê rồi tới thăm ngôi chùa mới xây trên nền cũ.
Vẻ
uy nghi trầm mặc của ngôi chùa xưa không còn nữa. Gió thông thốc, mưa phùn lay phay.
Một nhóm khách đang ngồi uống trà hút thuốc dưới hiên nhà khách chùa thấy tôi
giơ máy ảnh lên thì hỏi:
-
Bác từ đâu đến thế?
Tôi
đã từng coi Chủ nghĩa duy vật biện chứng của các ông Mác Lê Nin là nền tảng tư duy
vĩ đại nhất để làm kim chỉ nam cho đời mình, làm cơ sở giải thích hóa giải mọi
bí ẩn tôn giáo, mọi biểu hiện của chủ nghĩa duy tâm lệch lạc, mê tín dị đoan…
Nhưng
bây giờ tôi thấy rất nhiều vị lãnh đạo quyền cao chức trọng tới chùa khấn vái
cầu xin xì xụp.
Đền
Trần quê tôi hương khói cuồn cuộn bốc lên ngạt thở, và cả rừng người chen chúc đạp
lên đầu lên cổ nhau cướp ấn.
Bây
giờ tôi vẫn thấy bạn tôi, các Nhà văn, Nhà thơ, đảng viên, tuyên huấn, tuyên giáo
kì cựu kì cựu, kinh qua các lớp trung cấp, cao cấp chính trị Mác Lê, thỉnh thoảng
lại post lên facebook những bài học về Phật giáo, những lời răn dạy của nhà Phật.
Tôi chợt nhớ mẹ tôi.
Tôi
không thấy mẹ tôi đi chùa bao giờ.
Nhưng
mẹ bảo tôi: Ăn ở cho phải đạo, trời Phật có mắt cả đấy, con ạ…
Sài
Gòn, Mùa Vu Lan.
13.8.2016
VDC
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét