Nguyễn Bàng
Đã mấy năm sống ở Sài Gòn
với hai mùa: Mùa mưa và mùa khô, quanh năm ngày tháng nắng vàng rực rỡ, trong
tôi dường như đã quên mất mùa thu và cũng quên cả các câu thơ về mùa thu đã
thuộc bấy lâu thì bất chợt nhận được 2 bài thơ: Sớm Thu của
nhà thơ Nguyễn Khôi và Thu Sớm của
nhà thơ Đặng Xuân Xuyến làm tôi bật nhớ
ra mùa thu đang về trên miền Bắc.
Mà cũng lạ, hai nhà thơ
tuổi chú cháu này như một cặp đôi thi nhân luôn phối hợp nhịp nhàng với nhau.
Mới gần đây khi nhà thơ tuổi cháu Đặng Xuân Xuyến đưa lên bài thơ Về Đi Em thì
nhà thơ tuổi chú Nguyễn Khôi hưởng ứng ngay với bài Về Làm Chi Nữa,
nói như nhà phê bình văn học Châu Thạch thì cả hai bài thơ “đều là tiếng gọi người
về trong nỗi xót xa, đều là tâm trạng của những người có lòng khi thấy quê
hương mỗi ngày mất đi bản sắc”. Hôm qua, ngày 15/08 nhà thơ tuổi chú
đưa lên bài Sớm Thu (http://dangxuanxuyen.blogspot.com/2016/08/som-thu-tho-nguyen-khoi-ha-noi.html) thì hôm nay 16/08 nhà
thơ tuổi cháu hòa giọng luôn với bài Thu Sớm, (http://dangxuanxuyen.blogspot.com/2016/08/thu-som-tho-ang-xuan-xuyen.html) một sáng tác được nâng
niu cất giữ từ 15/09/2015. Cả hai bài thơ Thu này đều là những cảm xúc rất chân
thật và rất đẹp của hai tâm hồn trước cảnh Thu về.
Mặc dù đang vào ngưỡng
tuổi 80 nhưng trong Sớm Thu của
nhà thơ lão thành Nguyễn Khôi, ta không thấy hình ảnh lá vàng khi mùa thu tới
mà hầu hết các thi nhân Việt Nam từ cổ đến cận đại, từ cụ Tam nguyên Yên Đổ đến
Tản Đà, Lưu Trọng Lư, Huy Cận, Xuân Diệu đều ca ngợi:
Sóng biếc theo làn hơi
gợn tí
Lá vàng trước gió
sẽ đưa vèo
(Nguyễn Khuyến)
Trận
gió thu-phong rụng lá vàng
Lá
bay hàng xóm lá bay san
(Tản Đà)
Con
nai vàng ngơ-ngác
Đạp
trên lá vàng khô
(LưuTrọng Lư)
Sắc
trời trôi nhạt dưới khe
Chim
đi, lá rụng, cành nghe lạnh-lùng
(Huy Cận)
Đây
mùa thu tới mùa thu tới
Với
aó mơ phai dệt lá vàng
(Xuân Diệu)
Mà với Nguyễn Khôi là cảnh Sớm Thu rất
hiện đại:
Sớm
nay nghe hồn lành lạnh
Một
trời sương trắng : ờ thu ,
Cao
Tầng ánh sao lấp lánh
Ban
công vẳng tiếng chim Cu
Có lành lạnh, có sương
trắng nhưng không phải là cái lạnh, cái sương buồn mờ ảo trong thơ Tản Đà:
Gió thu hiu hắt,
Sương thu lạnh
Trăng thu bạch,
Khói thu xây
thành.
Đó là cái lạnh cái sương
trên cao tầng giữa thủ đô Hà Nội, khi đêm chưa tan hẳn, ánh sao còn lấp lánh và
không hề tĩnh lặng bởi “vẳng tiếng chim Cu”.
Nhưng tiếc thay, không phải là tiếng chim Cu trên không trung được ví như tiếng
nhạc của đất trời ngợi ca sớm thu cho mọi người thưởng thức mà là tiếng chim Cu
trong lồng treo trên ban công nhà ai đó:
Chim Cu nhốt lồng gọi
bạn
Mơ về một cánh
rừng xa
Nhốt lồng khác
chi bị "hoạn"
Không
còn được sướng mây mưa...
Tiếng kêu trong bức bối
khắc khoải, ao ước được tung cánh về rừng của một kẻ đang
bị giam cầm tù hãm.
Hơn một trăm
năm trước, đứng trên mặt đất làng Bùi, nhà thơ Nguyễn Khuyến phải ngửa mặt lên
mới thấy được:
Trời thu xanh ngắt
mấy tầng cao,
Nay nhà thơ Nguyễn Khôi ở
lưng trời cao ốc, chỉ cần giơ tay ra là nắm được mây trời. Nhưng thật phũ phàng
đó không phải là đám mây xanh ngắt mà là một đám mây độc đến chết người:
Đón thu lưng trời cao ốc
Quờ tay định tóm
đám mây
Mây đen chừng đầy
khí độc
Tạt qua tối xẩm
mặt mày...
Thu Sớm của Đặng Xuân
Xuyến là cảnh thu đến sớm trên một làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Bước chân
thu sớm thật khẽ khàng tinh tế, nếu không có cảm quan nhậy bén thì không dễ
nhận ra. Vì vậy, anh có cảm nhận Thu đã về rồi nhưng vẫn phải hỏi em:
Em hỡi! Mùa thu đã đến
chưa?
Có nghe se lạnh
gió chuyển mùa?
Có nghe thoang
thoảng thơm cốm mới?
Có thấy nhà bên
rúc rích cười?
Và bây giờ mới chắc chắn
mùa Thu đã đến thật:
Em nhỉ. Mùa thu đến thật
rồi
Sương chiều bảng
lảng rắc muôn nơi
Diều ai dìu dặt
chòng chành nắng
Vắt vẻo em cười.
Ơ ... đã thu.
Có gió chuyển mùa se
lạnh, có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm
mới. Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có
tiếng cười rúc rích bên nhà hàng xóm trong đó có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu
của em! Một Thu Sớm thật
thanh bình, thật đáng yêu.
Từ tháng Tám
năm 1945, mùa Thu đối với người Việt Nam không còn là mùa thu của lá vàng rơi,
mùa thu của “Con nai vàng ngơ ngác” hay
mùa thu của “Tôi
buồn không hiểu vì sao tôi buồn” mà là mùa Thu Cách mạng đẹp hơn cả
thiên nhiên vốn có:
Trời bỗng xanh hơn nắng
chói lòa
Nhà thơ Thâm Tâm từ những “Chán ngán tình gia sầu
ngất ngất/ Già teo thân thế hận mang mang”, đã gắn bó với cuộc đời mới
trong khung cảnh “Mùa Thu Mới”:
Trái hồng trĩu xuống
cây rơm
Sáng nay mùa cốm
dậy thơm đầy làng
Lúa vươn thân hút
ánh vàng
Nguồn tươi vống
nở thu sang mát lành.
Nguyễn Đình Thi thì rất
vui khi nêu sự so sánh hai trạng thái
cảm xúc của mình về mùa thu trước và mùa thu nay:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe
giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre
phấp phới
Trời thu thay áo
mới
Trong biếc nói
cười thiết tha
Rồi cuộc kháng chiến
chống Pháp 9 năm, mặc dầu đang
chiến tranh, mùa thu cũng không bớt đẹp đi chút nào:
Sáng
mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu
hương cốm mới
Sau giải phóng Điện Biên
Phủ, đất nước mới hòa bình, nhà thi sĩ làm cách mạng và nhà cách mạng làm thơ
Tố Hữu phơi phới hát ca giữa trời thu:
Ngẩng đầu lên: Trong
sáng tuyệt trần
Tháng Tám mùa thu
xanh thẳm
Mây nhởn nhơ bay
Hôm nay ngày đẹp
lắm!
Mây của ta, trời
thẳm của ta
Nước Việt Nam Dân
chủ Cộng Hòa!
Sau khi nước nhà thống
nhất, Đảng dẫn dắt dân ta đi vào đổi mới, đi vào phát triển kinh tế thị trường,
mở cửa, hội nhập với khẩu hiệu: phát triển dân giàu, nước mạnh, dân chủ, văn
minh. Phấn đấu đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp thì hình ảnh Thu Sang của
Hữu Thỉnh thật đẹp, đẹp tinh khôi, nhẹ nhàng và dịu êm duyên dáng, đẹp đến nỗi
phải hàng năm phải cho học sinh lớp 9 học:
Sông được lúc
dềnh dàng
Chim bắt đầu vội
vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang
thu
Dòng sông sang thu không
còn chảy cuồn cuộn, dữ dội và gấp gáp mà êm ả lững lờ trôi như một con người
đang trầm tư, suy ngẫm. Các loài chim chuẩn bị di cư về phương Nam
tránh rét mới chỉ “bắt đầu vội vã”.
Đám mây mùa hạ hãy còn, đẹp như một giải lụa “vắt nửa mình sang thu” như sẻ chia cùng
bạn. Thu Sang đúng
là đẹp hơn thơ!
Đến nay,
người đứng đầu đảng Cộng Sản Việt Nam , Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã
xác định: “Đến hết thế kỷ này
không biết đã có Chủ nghĩa Xã hội hoàn thiện ở Việt Nam hay chưa…” Thì hình ảnh Sớm Thu, Thu Sớm trong
bức tranh nhị bình trên của Nguyễn Khôi và Đặng Xuân Xuyến là Thu buồn hay vui?
Với bài thơ rất chân thực
của Nguyễn Khôi thì câu trả lời đã khá rõ. Làm sao có thể vui được khi “Chim Cu nhốt lồng gọi
bạn / Mơ về một cánh rừng xa”. Làm sao vui được khi “Mây đen chừng đầy khí
độc / Tạt qua tối xẩm mặt mày...”. Và chính vì không vui được
nên nhà thơ phải “Cúc
vàng mua về cắm lọ” để ngắm và ngắm cúc vàng để mà:
Nhớ nhung lá đỏ cành
Phong
Thu vàng nước Nga
rực rỡ
Buồn thay, ngồi trong Sớm Thu ở nhà
mình trên Thủ đô nước mình, ngắm Cúc vàng Việt Nam mình mà lại nhớ
lá đỏ cành Phong, Thu vàng ở tận nước Nga xa xôi. Đã thế mà lòng vẫn bất yên vì
lại nghe thấy:
Lũ đang cuộn sóng sông
Hồng...
Sớm Thu nay buồn nên nhà
thơ mơ mùa Xuân tới, hy vọng ở ngày mai cho tuổi 80 của
mình::
Xuân tới 80 rồi
nhỉ ?
Sớm nay qua nẻo
thu sang
Và niềm hy vọng ấy khiến
nhà thơ:
Ngắm hoa thấy
lòng tươi trẻ
Chỉ e hoa thẹn bẽ
bàng...
Thu Sớm của Đặng Xuân
Xuyến, như trên đã nói, đó là một cảnh Thu rất đẹp: Có gió chuyển mùa se lạnh,
có sương chiều bảng lảng, có con diều chòng chành nắng, có mùi hương cốm mới.
Không có tiếng chim cu ngoài đồng kể cả tiếng chim cu trong lồng nhưng có tiếng
cười rúc rích bên nhà hàng xóm trong đó có tiếng cười vắt vẻo đáng yêu của em!
Nhưng hẳn bạn đọc còn
nhớ, nhà thơ họ Đặng đã từng kêu lên: Quê tôi nghèo
lắm, Nghèo cả giấc mơ, nghèo đến xót xa cõi cõi lòng thì sao cái làng
Đá của anh có một cảnh Thu Sớm đẹp
và vui như vậy. Phải chăng cũng chỉ là giấc mơ thôi?
Tôi nói chỉ là giấc mơ
thôi bởi như ai cũng biết Sài Gòn không có mùa thu nhưng lại có rất nhiều nhà
thơ ca ngợi Thu
Sài Gòn mà điển hình là nhà thơ nữ Nguyễn Thị Lệ Thanh đã sáng tác bài thơ "Trưng Vương, khung cửa
mùa thu", và nhạc sĩ Nam Lộc đã
soạn thành một ca khúc ghi dấu những mối tình nhẹ nhàng, nỗi bâng khuâng, những
xao xuyến của tuổi học trò:
Tim em chưa chưa
nghe rung qua một lần!
Làn môi em chưa
hôn ai cho thật gần
Tình trần mong
manh như lá me xanh Ngô ngác rơi nhanh
Thu giăng heo may
che bóng cây lạnh này
Người cho em nghe
câu nhớ thương từng ngày…
Người mang cho em
quen môi hôn ngọt mềm
Tình cho tim em
rung những đêm lạnh lùng…
Nắng vấn vương
nhẹ gót chân
Trưng Vương vắng
xa anh rồi
Mùa thu đã qua một
lần
Chợt nghe bâng
khuâng lá rơi đầy sân...
Và hàng trăm nhà thơ khác
chưa thành danh với hàng trăm câu thơ như thế này:
Sài Gòn Thu đã chớm
sang
Em đi qua phố
dịu dàng như mơ
Mùa Thu đẹp
tựa vần thơ
Tim anh xao
xuyến đến giờ còn vương
Chả là giấc mơ mùa thu
cho Sài Gòn đó sao?
Thu Sớm của Đặng Xuân
Xuyến cũng chỉ là một giấc mơ như thế, cũng là hy vọng của anh về một Thu Sớm đẹp
cho cái làng Đá quê hương của anh. Mà nói như Lỗ Tấn: "Đã là hi vọng thì không
thể nói đâu là thực, đâu là hư”.
Bởi thế, tôi trân trọng
tất cả những giấc mơ đẹp, những hy vọng đẹp trong Sớm Thu của
bác Nguyễn Khôi và Thu Sớm của
nhà thơ Đặng Xuân Xuyến.
Tôi thành thực cầu chúc
cho hai nhà thơ:
Nhà thơ tuổi chú Nguyễn
Khôi sẽ luôn
có những Sớm Thu với
những giây phút “ngắm
hoa thấy lòng tươi trẻ” và sẽ được mãi như câu thơ của Thế Lữ:
Cùng với ánh
quanh minh còn mãi.
- Cho người vui
cảnh quên già.
Nhà thơ tuổi cháu Đặng
Xuân Xuyến cùng làng Đá quê anh sẽ có được đích thực những Thu Sớm đẹp
với “Diều ai dìu dặt
chòng chành nắng” và vui tươi với tiếng “Vắt vẻo em cười” đầy
trong thôn xóm.
*
Sài Gòn Rằm
tháng Bảy 2016
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email: bnguyen37@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét