(Bài viết của Nhà
nghiên cứu Lê Văn Hy trong ngày thơ Việt Nam ở CLB thơ huyện Mỹ Lộc)
Kể từ mùa xuân năm Nhâm Ngọ 2002, khi Ban Bí thư TƯ Đảng
chấp nhận tờ trình của Hội Nhà văn Việt Nam
lấy ngày Rằm tháng Giêng âm lịch, ngày Bác Hồ viết bài thơ “Nguyên tiêu” làm
ngày thơ Việt Nam
đến nay đã tròn 15 năm.
“Nguyên tiêu” là bài thơ tứ tuyệt hay còn gọi là Tuyệt cú
Đường luật, nguyên văn chữ Hán, Bác viết đêm Rằm tháng Giêng năm Mậu Tý 1948.
Kim dạ Nguyên Tiêu nguyệt chính viên
Xuân giang, xuân thủy tiếp xuân thiên
Yên ba thâm sứ đàm quân sự
Dạ bán quy lai nguyệt mãn thuyền.
Từ tuổi ấu thơ đến 79 mùa xuân về nơi tiên cảnh “Về với Mác
– Lênin và các vị cách mạng đàn anh khác”, từ bài thơ ngũ ngôn ứng khẩu vịnh
biển, khi người theo cha đi bộ qua đèo Ngang vào Huế, đến bài thơ Chúc Tết cuối
cùng của Bác tết năm Kỷ Dậu 1969, Bác Hồ của chúng ta đã làm không biết bao
nhiêu bài thơ để lại cho đời.
Tập thơ “Ngục trung nhật ký” nguyên văn chữ Hán 133 bài thơ,
hầu hết là thơ 4 câu luật Đường, Bác viết tay, bút tích của Bác là tài sản vô
giá còn lưu lại mãi mãi trong Bảo tàng Hồ Chí Minh.
“Ngục trung nhật ký (dịch là Nhật ký trong tù) Bác viết
trong vòng một năm, khi bị nhà tù Tưởng Giới Thạch giam cầm ở Quảng Tây.
Quảng Tây giải khắp mười ba huyện
Mười
tám nhà lao đã trải qua
và:
Ở tù năm trọn thân vô tội
Hòa
lệ thành thơ tỏ nỗi này
Bác nói là Bác viết trong hoàn cảnh “bất đắc dĩ”:
Ngâm thơ ta vốn không ham
Nhưng
vì trong ngục biết làm chi đây
Ngày
dài ngâm ngợi cho khuây
Vừa
ngâm vừa đợi đến ngày tự do
Vậy mà tập thơ Nhật ký trong tù lại là tập thơ chữ Hán hay
nhất, được nhà nghiên cứu văn học – sử học Quách Mạt Nhược Trung Quốc đánh giá
nếu so sánh với thơ Thịnh Đường cũng không phân biệt được và bài thơ chữ Hán
“Nguyên tiêu” cũng được Hội Nhà văn Việt Nam tôn vinh là bài thơ chữ Hán của
Bác hay nhất thế kỷ 20.
Bác
làm thơ Đường luật chữ Hán hay như vậy, thế mà từ sau khi trở về Pắc Bó đến
suốt những năm kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, đến năm 1969, chúng ta chỉ
thấy bài thơ “Nguyên tiêu” nếu không chỉ là duy nhất thì cũng là rất hãn hữu
Bác viết thơ chữ Hán, thơ Đường luật mà hầu hết thơ của Bác là thơ Nôm, thơ lục
bát, thơ tự do, thơ phục vụ chính trị, thơ làm cho dân ta dễ nghe, dễ hiểu.
CẢNH KHUYA
Tiếng suối trong như tiếng hát xa
Trăng lồng cổ thụ bóng lồng hoa
Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ
Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.
Và:
Sáng ra đầu núi
tối vào hang
Cháo
bẹ canh măng vẫn sẵn sàng
Bàn
đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc
đời cách mạng thật là sang
Đây
suối Lê Nin kia núi Mác
Hai
tay xây dựng một sơn hà
Rồi thì:
Trăng nhòm cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Có khi chỉ là một câu:
Việt Lào hai nước chúng ta
Tình
sâu như nước Hồng Hà, Cửu Long
Hay:
Quan san muôn dặm một nhà
Bốn
phương vô sản đều là anh em
Ngay trong bản Di chúc của
Bác cũng một câu thơ:
Còn non còn nước còn người
Thắng
giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay
Từ mùa xuân năm Bính Tuất 1946 đến xuân 1969 Kỷ Dậu, năm
nào Bác cũng có thơ xuân gửi chúc đồng bào và chiến sĩ cả nước.
Thơ xuân 1966
Mừng
miền Nam
rực rỡ chiến công
Nhiều
Dầu Tiếng, Bầu Bàng, Plâyme – Đà Nẵng
Mừng
miền Bắc chiến đấu anh hùng
Giặc
Mỹ leo thang ngày càng thua nặng
Đồng
bào cả nước đoàn kết một lòng
Tiền
tuyến hậu phương toàn dân ngày thêm cố gắng.
Thơ xuân 1968 báo hiệu ngày tổng tiến công long trời lở đất
trên khắp miền Nam buộc Mỹ phải xuống thang ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 (cầu
Hàm Rồng) Thanh Hóa trở ra miền Bắc, phải ngồi vào đàm phán Hội nghị Pari.
Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua
Thắng
trận tin vui khắp nước nhà
Nam Bắc thi đua
đánh giặc Mỹ
Tiến
lên toàn thắng ắt về ta.
Bài thơ chúc Tết Kỷ Dậu 1969 là bài thơ chúc tết cuối cùng
của Bác. Bác khẳng định thắng lợi của cuộc tổng tiến công và nổi dậy năm 1968
là oanh liệt vẻ vang, tin là năm 1969 sẽ còn to lớn hơn. Bác chỉ ra con đường
giải phóng miền Nam
phải chia làm hai bước. Trước là phải đánh cho Mỹ cút rồi mới đánh cho ngụy
nhào. Bác động viên đồng bào ta, chiến sĩ ta phải tiến lên giành lại độc lập tự
do cho dân tộc, cho Bắc Nam
xum họp một nhà.
Năm qua thắng lợi vẻ vang
Năm
nay tiền tuyến chắc càng thắng to
Vì
độc lập, vì tự do
Đánh
cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào
Tiến
lên, chiến sĩ đồng bào
Bắc
Nam
xum họp xuân nào vui hơn
Đúng như vậy, mùa xuân năm Quý Sửu 1973, đế quốc Mỹ phải ký
hiệp đinh Pari rút quân về nước. Mùa xuân năm Ất Mão 1975 giải phóng hoàn toàn
miền Nam.
Và cũng đúng như bài thơ “Dòng sông thời gian” của nhà thơ
Phạm Tiến Duật đã cảm nhận thơ chúc tết năm 1969 của Bác là một lời đoán định
chính xác về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta nhất định sẽ
thắng lợi hoàn toàn.
Dòng sông thời gian
trôi về miền vô tận
Tôi
hình dung trên bến ấy Bác ngồi
Thơ
chúc Tết, Người viết thêm bài nữa
Ở cuối
dòng sông hoa nở rợp trời
Bác chỉ
nói như một lời đoán định
“Năm
nay tiền tuyến chắc càng thắng to”
Thế là
đánh, thế ta như thác cuốn
Đã
giành về độc lập – tự do.
Trở lại bài thơ “Nguyên tiêu”:
Nguyên tiêu là tết Nguyên Tiêu Rằm tháng Giêng, cũng là đầu
đề bài thơ của Bác viết trong đêm Rằm tháng Giêng. Bài thơ tứ tuyệt luật Đường
rất chuẩn xác, chỉ có 28 chữ Hán đã vẽ lên một bức tranh sơn thủy mạc, có vầng
trăng tròn vành vạnh, có dòng sông thơ mộng, có con tuyền lơ lửng giữa dòng ở
nơi thanh vắng, yên tĩnh nhất. Bài thơ cũng viết nên một mẩu chuyện kể về một
đêm Rằm thán Giêng, Bác và một số các đồng chí Trung ương cùng ngồi trên một
con thuyền để bàn việc quân sự.
Cả bài thơ ta không nghe thấy một tiếng động nào, ngoài từ
“Đàm” là tiếng người đang bàn bạc việc quân, việc nước.
Trong cái tĩnh, nhưng chứa bên trong sự hoàn mỹ, trăng thì
“Chính viên” (Tròn nhất, tròn vành vạnh). Cảnh tĩnh mịch về đêm khuya, sông,
nước, bầu trời mùa xuân càng đẹp tuyệt vời. Cuộc họp đã đi đến nhất trí, lòng
người càng thấy thanh thản, chủ động đưa thuyền về bến đậu đem về đầy thuyền
tràn ngập ánh trăng.
Ở cuối bài viết này, tôi xin đọc bản dịch bài thơ “Nguyên
Tiêu”. Chuyện kể rằng: Sau khi đọc bài thơ vừa tức thời sáng tác, Bác bảo đồng
chí Xuân Thủy cũng là nhà thơ đang ngồi bên Bác dịch lại:
Rằm xuân
lồng lộng trăng soi
Xuân
sông nước lẫn màu trời thêm xuân
Giữa
dòng bàn bạc việc quân
Khuya
về bát ngát trăng ngân đầy thuyền.
Xin cảm ơn các đồng chí đại biểu khách quý và các bạn thơ.
Lê Văn Hy
Lê Xá – Thị trấn
Mỹ Lộc, tỉnh Nam
Định
ĐT: 01244410749
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét