Đã mòn con mắt lá răm
Lời yêu còn ở ngã năm chửa về
Sập sùi sũng ướt triền đê
Khạo khờ mãi nhuộm câu thề người dưng
Hội làng thì đã lưng chừng
Người dưng ơi hỡi...
Người dưng
Chả về.
*.
Hà Nội, ngày 09 tháng 02.2017
ĐẶNG XUÂN XUYẾN
LỜI BÌNH:
Trong không
khí của một quần thể con người hỗn loạn, hoang mang, hung bạo đang tràn ngập
trong mùa lễ hội ở nhiều nơi trên miền Bắc, mà người ta đi dự lễ hội, đi đến
các chùa chiền, đền thờ để vụ lợi với hy vọng đến đấy sẽ được buôn may, bán
đắt, sẽ được thăng quan tiến chức, trở nên giàu có..., bỗng nghe trong gió từ
đâu đưa lại một hơi thở dài buồn
trách:
Hội làng thì
đã lưng chừng
Người dưng ơi
hỡi...
Người dưng
Chả về
Phải là hội
làng với đúng nghĩa là sinh hoạt văn hoá dân gian của cư dân địa phương ở một
quy mô nhỏ vào tháng Giêng đến hội, người dân nô nức tham dự nhưng rất đẹp chữ
lễ chứ không phải là lễ hội với những cảnh chen lấn, giành giật, giẫm đạp lên
nhau có cả máu người và máu các con vật như trâu bị treo cổ cho đến chết, lợn
bị chém giữa sân đình…, ta mới có thể nghe được hơi thở nhẹ buồn trách
đó.
Ấy là hơi thở
nhẹ của một cô gái quê trong bài thơ NGƯỜI DƯNG của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến. Và
nghe xong tiếng thở ấy, ta như nhìn thấy cô gái đang trong đám hội nhưng không
đứng trong đám đông dân làng mà đứng lẻ ra mé ngoài, ngóng mắt về phía đường xa
mong đợi và mong đợi đến độ:
Đã mòn con
mắt lá răm
Một cô gái
quê xinh đẹp đúng như ca dao từng ca tụng: “Đàn bà con mắt lá răm/ Lông
mày lá liễu đáng trăm quan tiền” mà thời nay dẫu có đốt cả trăm bó
đuốc soi vào cả ngàn tiệm spa làm đẹp cho phụ nữ cũng không dễ gì tìm được một
người.
Đôi mắt đẹp
quý hiếm ấy “đã mòn” vì sao? Chỉ là vì:
Lời yêu còn ở
ngã năm chửa về
Thật tội
nghiệp! Bởi lẽ, thói thường, khi gặp ngã ba đường người ta đã phải phân vân tìm
cách nên lựa chọn ngả nào? Vậy mà lời yêu con mắt lá răm ngóng đợi lại đang ở
ngã năm, chỗ con đường đi ra năm ngả; có thể ngã năm ấy không còn xa hội làng
lắm nhưng biết đi ngả nào cho đúng hướng đây? Chính vì thế, đâu chỉ mình cái
lời yêu đó phải phân vân tìm lối mà cả cô gái quê cũng đang bồn chồn lo lắng,
liệu lời yêu có chọn đúng ngã rẽ để về hay sẽ đi lạc lối để uổng phí một hội
làng, phí hoài một ngày xuân tươi đẹp. Vì thế con mắt lá răm không chỉ đã mòn
vì mong đợi mà còn:
Sập sùi sũng
ướt triền đê
Người đời
thường dùng từ hạt lệ để nói về nước mắt. Thiên tài Nguyễn Du trong Truyện Kiều
thì tài hoa phong phú hơn nhiều: hạt châu, giọt ngọc, giọt tương, giọt riêng,
mạch tương.
Và để diễn tả
mức độ khóc, người đời thường ví von khóc như mưa:
Nhớ ai em
những khóc thầm
Hai hàng nước
mắt đầm đầm như mưa
Hay ví cụ thể
hơn “như mưa tháng mười”:
Anh về em
chẳng dám đưa,
Hai hàng nước
mắt như mưa tháng mười.
Cũng có khi
nói “khóc đỏ lòm con ngươi”:
Phù sa nước
đục khó dòm,
Nhớ anh em
khóc đỏ lòm con ngươi
Làn thu thủy
của nàng Kiều “nghiêng nước nghiêng thành” đã đẹp lại đẹp
hơn lên khi khóc bởi những từ ngữ như đầm đầm châu sa, châu sa vắn dài, giọt
ngọc như chan:
Lòng đâu sẵn
nỗi thương tâm
Thoắt nghe Kiều
đã đầm đầm châu sa./
Lại cùng ủ
dột nét hoa
Sầu tuôn dứt
nối châu sa vắn dài".
Nàng càng
giọt ngọc như chan,
Nỗi lòng
luống những bàn hoàn niềm tây"/.
Trong NGƯỜI
DƯNG của Đặng Xuân Xuyến thì nước mắt của con mắt lá răm được diễn tả
mộc mạc như ta đã thấy:
Sập sùi sũng
ướt triền đê
Một hình ảnh
rất sáng tạo của nhà thơ hiện đại nhưng vẫn giữ được chất quê mùa bình dị rất
gần gũi với người dân đồng ruộng mà không kém phần sâu sắc.
Triền đê là
dải đất thoai thoải của con đê ở hai bên bờ sông. Khi mưa, nước thường từ trên
trời rơi xuống mặt đê rồi trôi theo triền đê xuống tràn vào bờ bãi hay chảy hòa
vào nước dòng sông cùng tuôn ra biển cả. Triền đê đâu phải là chỗ trũng để nước
mưa dễ bề đọng lại. Vậy mà nước mắt của cô gái ướt sũng triền đê chứng tỏ triền
đê đã bị thấm nhiều quá, lâu quá bởi những dòng lệ của con mắt lá răm.
Vậy vì sao
con mắt lá răm, con mắt biết nói, biết cười mà ai trót nhìn vào sẽ đắm say,
quyến luyến chẳng muốn rờì ấy đã mòn vì ngóng đợi lại khóc đến ướt sũng cả
triền đê? Đây là câu thơ cắt nghĩa nguyên do nông nỗi
ấy:
Khạo khờ mãi
nhuộm câu thề người dưng
Chỉ là một
câu thề của một người dưng nhưng cô gái đã khạo khờ nhuộm nó vào lòng và thời
gian đã trôi qua nhưng không hề phai nhạt.
Người dưng hay người dưng nước lã, chỉ người không có máu
mủ ruột rà thân tộc nội ngoại gì với mình mà nó tự nhiên như nước mưa, nước
giếng. Nhưng sao cái người dưng kia lại nhuộm được câu thề trong lòng cô gái?
Chỉ có thể nói đó là một người dưng quá đặc biệt, nếu không nói là người đã
biết nhau từ kiếp trước thì ít nhất cũng là người đã biết nhau từ hội làng năm
cũ. Cái người dưng quá đặc biệt ấy đã lọt vào “con mắt lá răm”, đã
cho cô gái lời yêu, mách bảo trái tim cô gái một điều gì đó rất linh diệu khiến
nỗi lòng cô hằng nhớ và đời sống tâm hồn tình cảm của cô đã bị xao
động:
Cơm ăn nửa
chén lưng lưng
Dạ sao dạ nhớ
người dưng thế này?
Và vì thế,
hội làng năm nay, cô mới phải hoài công ngóng đợi lời yêu và cái người dưng
kia.
Qúy con mắt
lá răm đáng trăm quan tiền của cô gái quê trong thơ Đặng xuân Xuyến, tôi bỗng
nhớ tới cô gái trong khung cửi nổi tiếng từ hơn 80 năm trước trong thơ
Nguyễn Bính. Cũng hội chèo làng Đặng ở thôn Đoài. Một cô gái nông thôn trẻ
trung xinh đẹp đội mưa bụi đi hội nhưng không phải để xem mà chính là để tìm
gặp người yêu:
Thôn Ðoài vào
đám hát thâu đêm
Em mải tìm
anh chả thiết xem …
Và cũng thật
tội nghiệp cho cô, tìm anh suốt một đêm thâu để rồi:
Chờ mãi anh
sang anh chả sang
Thế mà hôm nọ
hát bên làng
Năm tao bảy
tuyết anh hò hẹn
Ðể cả mùa
xuân cũng nhỡ nhàng!
Thương con
mắt lá răm đã khóc ướt sũng triền đê, tôi lại nhớ đến người thiếu
phụ mòn mỏi chờ bóng tình quân bài thơ Mòn Mỏi của Thanh Tịnh ngang thời Nguyễn
Bính. Bài thơ được phóng tác theo truyện "Barbe bleue" của nhà văn
Pháp Charles Perrault chìm ngập nỗi buồn. Người thiếu phụ xinh đẹp ngồi bên
trong bức rèm, dệt vải. Còn em gái nàng thì ngồi ở gian ngoài, ngóng ra ngoài
đường, chờ đợi. Ngôi nhà bé nhỏ nằm dưới thung lũng cũng cô đơn lặng lẽ như hai
chị em họ. Sau bao lần tưởng như trông thấy tình quân với con ngựa hồng đang
đến gần cùng với tiếng gọi của chàng trong tiếng ngựa hí, tiếng nhạc ngựa vang
reo, người thiếu phụ nhờ em gái nhẹ cuốn bức rèm tơ lên xem có phải đúng thế
không để rồi chỉ nhận được những câu trả lời cuả em gái: khi thì "Chị
ơi em thấy một cây liễu buồn", khi thì: “Bên rừng ngọn gió
rung cây”, khi thì “Sóng chiều đùa chiếc thuyền nan” và
"Chị ơi con nhạn lạc bầy kêu sương" hay "Chị
ơi con sáo gọi ngàn bên sông".
Nhưng khi bất
chợt nghe em gái nói như reo lên:
Ô kìa! Bên
cõi trời đông
Ngựa ai còn
ruổi dặm hồng xa xa
Thì nàng
thiếu phụ bỗng lo lắng bảo em gái:
Nhẹ nhàng em
sẽ buông rèm xuống,
Chị sợ trong
sương bóng ngựa chìm.
Và rồi kết
cục:
Ngựa hồng đã
đến bên hiên
Chị ơi, trên
ngựa chiếc yên vắng người
Sự bất ngờ
của hình ảnh chiếc yên ngựa vắng người đã khiến bao người yêu thơ muốn vỡ tim
vì buồn thảm
Tôi vô cùng
yêu thích hai bài thơ diễm tình: MƯA XUÂN của Nguyễn Bính và MÒN MỎI của Thanh
Tịnh, rất quý mến tấm tình của cô gái trong khung cửi tìm người yêu, rất cảm
thương người thiếu phụ xinh đẹp đã mòn mỏi mong đợi tình quân từng giây từng
phút để rồi tan nát cõi lòng trong tuyệt vọng. Nhưng tôi không muốn cô gái có
con mắt lá răm trong thơ Đặng Xuân Xuyến phải cam phận như hai số phận ấy. Theo
kinh nghiệm người đời: Người có đôi mắt lá răm thường sắc sảo đa tình và rất
thủy chung nhưng cũng luôn nhuốm chút u buồn, sâu lắng. Nhưng tôi không muốn
con mắt lá răm ấy trong thơ Đặng Xuân Xuyến sẽ phải buồn tủi tê tái như cô gái
trong khung cửi “Để cả mùa Xuân cũng nhỡ nhàng”, lại càng
không muốn con mắt lá răm ấy phải vận vào người nỗi mòn mỏi tuyệt vọng như
người thiếu phụ trong thơ Thanh Tịnh.
Bài thơ NGƯỜI
DƯNG của Đặng Xuân Xuyến rất ngắn, hai khổ nhưng cả thảy chỉ có 6 câu mà trong
đó có tới 5 câu thơ buồn. Chỉ còn lại một câu:
Hội làng thì
đã lưng chừng
Câu thơ tả
thời gian, nhưng cũng diễn tả tâm trạng “sốt ruột”, đã xuất hiện sự “buồn nản”
trong chờ đợi “người dưng” của “con mắt lá dăm”. Tuy không buồn
như 5 câu thơ kia, nhưng câu thơ cũng gieo vào lòng người tâm trạng se buồn.
Hội làng thì
đã lưng chừng, là khoảng thời gian đã đi qua những màn diễn chính của
lễ hội và đang nhích dần về nửa sau, về những màn cuối, để khép lại hội làng,
nghĩa là vẫn còn thì giờ để ngóng đợi “người dưng” nhưng hy vọng đã
không còn nhiều, ngày một thu hẹp, rút ngắn.
Bài thơ khép
lại với tiếng thở dài, tê tái:
Người dưng ơi
hỡi...
Người dưng
Chả về.
Tôi không
muốn cô gái có con mắt lá răm trong thơ Đặng Xuân Xuyến phải cam phận như vậy.
Vì thế, nghĩ cho cô gái, tôi nghe như trong gió từ hội làng tiếng ai đó đang
hát:
Bèo dạt mây
trôi, chốn xa xôi,
Anh ơi, em
vẫn đợi…
Cô gái con
mắt lá răm ơi, cô có nghe thấy tiếng hát đó không?
Nếu nghe được thì xin cô hãy cùng tôi tin rằng, sau tiếng
hát ấy, lời yêu của cô ở ngã năm sẽ tìm ra lối rẽ đúng và kịp về với cô, người
dưng chưa về sẽ kịp đến bên cô. Hãy vững tin đi, “con mắt lá răm” xinh
đẹp đa tình nhưng chung thủy nhé! Bởi gọi cái người gọi là người dưng đó đâu
phải là người xa lạ, nếu không nói là đã gặp nhau trong tiền kiếp thì cũng đã
biết mặt nhau, đã nghe lời yêu của nhau, đã nhận câu thề với nhau và đã nhuộm
câu thề đó trong trái tim từ buổi còn khạo khờ. Nhất định người dưng ấy sẽ về
hội làng để “lên ngôi” thành người nghĩa, người tình của cô và sẽ cùng cô “đơm
hoa kết trái” thành hạnh phúc lứa đôi!
VĨ THANH:
Khép lại bài
thơ Người Dưng, không hiểu sao tôi lại có cảm giác, hơi thở dài của cô gái mắt
lá răm cũng chính là hơi thở dài của nhà thơ Đặng Xuân Xuyến. Hình như nhà thơ
cũng đang trong Hội làng và cũng đang để trái tim se buồn, bâng khuâng ngóng
đợi một lời yêu của một người dưng nhưng cũng không phải là một người xa lạ mà
là một người đặc biệt như đã cùng nhà thơ biết nhau trong tiền kiếp. Nếu đúng
vậy, tôi chúc nhà thơ sẽ mau chóng đón nhận lời yêu ấy, có thể không phải là
đang ở ngã năm mà ở một ngã bẩy sẽ về.
*
Sài Gòn, ngày 18/02/2017
NGUYỄN BÀNG
Địa chỉ: Thành phố Sài Gòn
Email: bnguyen37@gmail.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét