Đó chính là Nhà văn - Nhà thơ Phạm Ngọc Thái
với Bộ tiểu thuyết (2 tập): CHIẾN TRANH VÀ TÌNH YÊU, Nxb Hồng Đức 2020.
Mở đầu tác phẩm, ta đã thấy dòng chữ: "Truyện
được viết dựa theo cuộc đời trận mạc của tác giả, từng trải qua cuộc chiến
tranh trên chiến trường Tây Nguyên - Nam Bộ". Tổng cộng cả hai tập dầy 468
trang sách, trữ lượng thời đại chứa đầy ắp trong tác phẩm.
Nguyễn Thị Xuân - GV Trường THPT Ba Đình Hà
Nội, với bài viết: "Từ một chiến binh trở thành nhà thơ danh giá" -
Bình luận về tiểu thuyết:
" Tiểu thuyết không chỉ mô tả
những trận đánh điển hình trên mặt trận Tây nguyên Nam Bộ - Từ mùa xuân Mậu
Thân 1968 đến khi miền Nam
hoàn toàn giải phóng. Tác phẩm còn tóm bắt toàn cục cả chiến trường miền Nam , đến tận
ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1975.
Đồng thời, phục lại cả cuộc chiến tranh bằng
không quân của giặc Mỹ đánh ra miền Bắc: Vụ thảm sát tàn bạo 12 ngày đêm thảm
khốc 1972 ở Hà Nội - Hoa Kỳ cho B52 mang bom oanh tạc vào tận thủ đô, hòng hủy
diệt biến Thủ đô Hà Nội trở về thời kì đồ đá? Bị cả loài người lên án! ".
Cô giáo kết luận: "Bộ tiểu thuyết có tính
lịch sử xã hội sâu sắc, sinh động và điển hình thời kỳ chiến tranh đánh Mỹ xâm
lược ở Việt Nam ".
Tác giả Trần Đức
Trong bài viết này, tôi xin tóm lược diễn
biến những sự kiện về đất nước - con người của cuộc chiến trạnh, được nhà văn
miêu tả qua tác phẩm:
... Nhân vật trung tâm của truyện là một đôi
thanh niên nam nữ: Nguyễn Hoàng và Thu, cô bạn gái cùng học năm cuối
cấp với anh ở trường phổ thông. Mùa thu 1966, sau kỳ thi tốt nghiệp:
Hoàng được gọi Đại học Bách khoa - Thu vào sư phạm. Họ cũng chính
thức đến với nhau bằng tình yêu từ đấy! Khi đó, cuộc chiến tranh phá hoại
của không quân Mỹ ra miền bắc đã rất ác liệt. Máy bay Mỹ nhiều lần ném bom, bắn
phá xuống các vùng ven đô. Cả thành phố bước sang giai đoạn báo động. Các cơ
quan, trường học cùng dân tình trong nội thành đều gấp gáp sơ tán về các vùng
nông thôn và miền núi.
Hoàng sinh ra trong một gia đình thị dân
thành phố. Nhà có ba anh em trai: Hoàng là con thứ. Mẹ của ba anh em mất sớm.
Ông Thịnh, người cha của ba anh em lấy thêm một bà vợ lẽ. Anh trai lớn của
Hoàng đã có vợ con và ra ở riêng, theo nghề cha làm thợ cắt tóc. Hoàng với cậu
em út ở cùng cha và dì ghẻ. Gia đình sống trong một ngôi nhà tại ngõ Cống
Trắng, phố Khâm Thiên, Hà Nội. Không biết từ bao giờ, ông Thịnh đã chiếm được
một miếng đất ngay đầu ngõ gần nhà, sát với mặt phố để mở một cửa hiệu cắt tóc
nhỏ. Bà dì ghẻ thì làm cái nghề mua đi, bán lại: Đêm đêm ra ga Hàng Cỏ đón tàu
từ Đồng Đăng, mạn phía bắc giáp Trung Quốc về để mua hàng, rồi mang bán lại cho
những người buôn bán nhỏ ở thành phố kiếm lãi.
Gia đình Thu, nhà trên phố Hàng Bông. Ba và
mẹ cô đều làm nhà giáo. Bà Giáo (thường gọi như vậy) đã nghỉ hưu - Ông Giáo, hiện
vẫn đang công tác trên Bộ Giáo dục thành phố. Thu có một anh trai đang chiến
đấu trên chiến trường miền Nam .
Người chị dâu với đứa cháu gái nhỏ, ở với ông bà Giáo và Thu.
Tiểu thuyết khắc họa theo những năm tháng của
cuộc đời đôi trai gái ấy: Qua đó diễn tả lên toàn cảnh xã hội, trong những năm
tháng chiến tranh đánh Mỹ của cả hai miền Nam - Bắc.
Nguyễn Hoàng, nhân vật chính của tiểu thuyết
là một sinh viên, trí thức tiên tiến. Anh đã cùng với lớp thanh niên thủ đô yêu
nước, tình nguyện rời bỏ trường đại học, xung phong vào quân ngũ lên đường đi
chiến đấu - Thu theo học đại học sư phạm. Những năm tháng bởi cuộc chiến
tranh phá hoại, trường của cô phải sơ tán lên mãi tận vùng rừng núi Việt Bắc để
học.
1968. Ở miền Nam , đồng loạt diễn ra cuộc tổng
tiến công mùa xuân Mậu Thân trên toàn chiến trường. Quân giải phóng bất ngờ
tiến công vào rộng khắp 6 thành phố lớn, 44 thị xã và hàng trăm thị trấn, quận
lỵ. Như các nhà bình luận quốc tế lúc ấy đã viết: "... Một cuộc Tổng
công kích của mặt trận giải phóng miền Nam , làm rung chuyển cả Nhà Trắng
và Lầu Năm Góc".
Khi đó đơn vị của trung sĩ Nguyễn Hoàng -
Hoàng đã nhập ngũ và là tiểu đội trưởng một trung đội súng máy đại liên, thuộc
Trung đoàn 209, Sư 312... đang diễn tập trên rừng núi Hòa Bình, được lệnh hành
quân bằng ô tô, đội mũ sắt (được gọi là trung đoàn mũ sắt), cấp tốc tiến thẳng
vào chiến trường Tây Nguyên.
Đến đây tiểu thuyết bắt đầu rẽ ra làm hai
hướng: Một hướng theo bước chân Nguyễn Hoàng - Tác giả phục lại tình hình chiến
sự trên chiến trường miền Nam, tới ngày kết thúc chiến tranh 30.4.1775 - Hướng
kia theo cuộc đời Thu, khắc họa lại cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ
ra đất Bắc, ngày càng ác liệt. Kết thúc bằng trận ném bom hủy diệt 12 ngày đêm
của Mỹ tháng 12.1972, hòng biến thủ đô Hà Nội trở về thời kỳ đồ đồng, đồ
đá.
Cách cấu trúc của bộ tiểu thuyết "Chiến
tranh và tình yêu" viết theo kiểu từng hồi, từng chương: Cả hai tập gồm 13
chương và 45 đề mục. Các chương xen kẽ nhau, diễn tả tuần tự thời gian chiến sự
cả hai miền Nam Bắc. Trên đầu mỗi chương đều có tên đề giới thiệu... rất giống
với phong dáng truyện "Những người khốn khổ" hay " Nhà thờ
Đức Bà Paris" của văn hào Pháp Victor Hugo - Thí dụ: Chương I "vào
đời" - Chương II "Chiến tranh phá hoại và chia ly"...cứ thế tới
Chương XIII "Trận chiến cuối cùng"... và hết.
Nhưng cách tư duy và ngôn ngữ diễn tả thì lại
ảnh hưởng rất nhiều các tác phẩm văn học Âu châu, như "Chiến tranh và hòa
bình" hay "Anna Karenina" của văn hào Nga L. Tônxtôi qua bản
dịch ra tiếng Việt - Tôi từng trao đổi với tác giả, anh nói: Những năm tháng
trước, anh thường đọc nhiều tác phẩm của nước ngoài (qua bản dịch) hơn ở trong
nước, nhất là đối với các tác giả lớn như: L. Tônxôi, Pushkin, Victor Hugo,
Balzac... cho nên cách thức tư duy văn xuôi phạm Ngọc Thái ảnh hưởng nhiều của
nền văn học Âu châu cũng là điều dễ hiểu.
Nói rộng sang thi ca - Ở trong nước, chủ yếu
Phạm Ngọc Thái ảnh hưởng kiểu tư duy thơ của Hàn Mặc Tử qua các bài thơ,
như: Đây thôn Vỹ Dạ, Mùa xuân chín... và tính triết lý trong thơ của
Chế Lan Viên - không chịu ảnh hưởng một chút nào của thơ Xuân Diệu
hay Huy Cận.
Còn đối với các dòng thi ca ở nước ngoài - Anh
chịu ảnh hưởng của dòng thơ tượng trưng Âu Châu đầu thế kỷ XX: Điển hình là nhà
thơ tượng trưng bậc thầy ở Pháp Charles Baudelaire (1821 - 1867) với
thuyết "tương ứng cảm quan". Về chất trữ tình trong thi ca
thì anh lại ảnh hưởng của nhà thơ Nga vĩ đại Pushkin qua bản dịch Thúy toàn -
Chính loại ngôn ngữ thi ca này chi phối... kể cả khi anh viết kịch hay tiểu
thuyết - Bởi vậy, bạn bè trong giới văn chương thường nói vui: Anh
viết kịch như thơ - Thơ thì lại rất nhiều tính kịch, là vậy.
Bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình
yêu" của Phạm Ngọc Thái cũng được phối cảnh như các màn diễn của một vở
kịch dài hay là một bộ phim nhiều tập. Cho nên tôi cho rằng: Nếu một tác gia
hay đạo diễn phim nào, làm phim về tiểu thuyết Phạm Ngọc Thái? Nếu làm giỏi,
rất dễ có một bộ phim tâm lý chiến tranh sâu sắc, tuyệt vời.
Xin phân tích vào nội dung - Như cái tên đề
"chiến tranh và tình yêu": Đó là hai phạm trù xã hội sâu sắc, được
tác giả diễn tả qua tiểu thuyết. Tạo thành hai dòng chảy quyện vào nhau, xuyên
suốt tác phẩm. Bình luận một bộ tiểu thuyết dài hai tập mà chỉ trong bài tiểu
luận ngắn, thực không dễ. Tôi xin chia làm ba phần để phân tích:
1/. Chiến trường miền Nam
2/. Chiến tranh phá hoại của không quân
Mỹ ra miền Bắc
3/. Tình yêu.
Nhà văn Phạm Ngọc Thái thời trẻ
* PHẦN I - Tình
hính chiến sự ngoài tiền tuyến được diễn tả theo bước chân Nguyễn Hoàng
lên đường vào mặt trận Tây Nguyên - Nam Bộ: Bắt đầu từ năm 1968, sau cuộc tổng
công kích mùa xuân Mậu Thân của quân giải phóng trên toàn chiến trường miền Nam .
Khắc họa vào 7 chương, trong tổng số 13 chương của tác phẩm. Đó là các chương:
V - VI - VII - VIII - IX.... XII - XIII và kết thúc. Trên đầu mỗi chương đều có
tiêu đề:
TẬP MỘT
Bốn chương đầu tiên diễn giải về gia đình,
tình yêu của đôi trai gái tại thủ đô Hà Nội. Tổng quát tình hình chiến sự, dân
tình, không khí xã hội trong chiến tranh, cho đến khi đôi trẻ chia ly: Anh ra
ngoài tiền tuyến giết giặc, em ở lại hậu phương...
-
Chương V: Tổng quát chiến sự xuân Mậu Thân 1968
-
Chương VI: Trận đánh đầu tiên (nguyễn Hoàng vào chiến trường Tây
Nguyên)
-
Chương VII: Người con gái bản ra chiến trường
-
Chương VIII: Mặt trận Tây Nguyên đẫm máu (phần 1)
TẬP HAI
-
.... Mặt trận Tây Nguyên đẫm máu (phần 2)
-
Chương IX: Cái chết của người con gái bản
.....
-
Chương XII: Chiến trường Tây Nguyên những năm cuối.
-
Chương XIII: Trận chiến cuối cùng của cuộc chiến tranh.
Tóm lược về bẩy chương: Tình hình chiến sự của
chiến trường miền Nam nói chung, qua những trận đánh điển hình trên mặt
trận Tây Nguyên, Nam Bộ - Bắt đầu từ trận đầu tiên trung sĩ Hoàng tham dự, đó
là trận đánh của Tiểu đoàn 7, Trung đoàn 209, Sư 312 (vừa hành quân từ Bắc
vào)... với TIểu đoàn Anh Cả Đỏ của Mỹ, tại dãy Chư Tan Kra thuộc vùng núi Kon
Tum. Nói về chiến tích của trận đánh này, theo cuốn "Lịch sử Trung đoàn
209...", Nxb QĐND 2004 viết:
"Trong
trận tiến công tiêu diệt quân Mỹ ở cao điểm 995 (thuộc núi Chư Tan Kra), 204
lính Mỹ đã bị tiêu diệt và hy sinh hơn 200 đồng chí. Trận đánh Mỹ đầu tiên tại
cao điểm 995, trung đoàn không dứt điểm, nhưng là trận đánh mở màn của trung
đoàn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, trên chiến trường Tây Nguyên và Nam
Bộ... ".
Một trận đánh đẫm máu. Quân giải phóng tổn
thất rất nặng nề. Chính Hoàng đã bị thương, phải rời đơn vị về phẫu điều trị
vết thương trong trận đó. VÌ trận chiến không dứt điểm - Chính mắt anh nhin
thấy bao đồng chí mình bị thương và hy sinh nằm phơi trên đỉnh đồi... tiểu đoàn
phải rút quân không lấy được xác đồng đội ra và... bọn Mỹ đã cho xe ủi
đẩy tất cả xác của các chiến sỹ xuống một cái hố lớn, tẩm xăng vào đốt. Sau đó
trung đoàn 209 tiếp tục hành quân xuống mặt trận dưới đồng bằng - Hoàng đến
viện trị thương. Vết thương lành, anh được thuyên chuyển vào một trung đoàn
pháo lớn của quân giải phóng ở Tây Nguyên.
Cứ thế cùng với bước chân Nguyễn Hoàng, tiểu
thuyết khắc họa những trận đánh lớn điển hình ở Tây Nguyên, từ những năm của
thập kỷ 70 đến tận ngày 30.4.1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng - Như trận
đánh cứ điểm Ngọc Bờ Biêng đầu năm 1972; Chiến thắng lớn ở Đắc Tô - Tân Cảnh
trong chiến dịch xuân hè 1972; Sau đó quân giải phóng tiến đánh vào thị xã
Kon Tum thì bị thất bại (lần đầu) phải rút bỏ về củng cố quân lực tại căn
cứ Đắc Tô - Tân Cảnh, vùng đã được giải phóng.
Ngày 27.1.1973 hiệp định ngừng bắn ở Việt Nam tại Pa
Ri được kí kết.
Ngày 29.3.1973, người lính Mỹ cuối cùng đã
rút khỏi miền Nam Việt Nam ,
chấm dứt mọi sự can thiệp trực tiếp của Hoa Kỳ đối với vấn đề Việt Nam . Từ nay chỉ
còn Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa (của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu) đơn độc chống
lại liên quân: Quân đội nhân dân Việt Nam từ Bắc tràn vào và Quân giải phóng
miền Nam - Song thực chất Chính quyền Sài Gòn vẫn nhận được sự viện trợ của Mỹ
(tuy so với trước thì rất ít)? chính quyền Thiệu đã ngang nhiên phá bỏ hiệp
định ngừng bắn, huy động toàn bộ quân lực tiến hành chiến dịch "tràn ngập
lãnh thổ" để bình định, lấn chiếm lại một số vùng đã được cộng sản giải
phóng - Nội chiến tiếp tục nổ ra.
Tháng 9.1973 - Nguyễn Hoàng được đề bạt lên
cấp đại úy, tiểu đoàn trưởng một tiểu đoàn hỏa lực gồm pháo hỏa tiễn DKB, cối
82mm, rốc két B41 và một đại đội pháo cao xạ phòng không với hai loại pháo
37ly - 14ly5 - Nhận lệnh từ Bộ tư lệnh Mặt Trận B3 chi viện cho Trung đoàn
bộ binh 48 Sư 320, mở cuộc tiến công vào căn cứ Chư Nghé, phía tây Pleiku. Trận
chiến đó quân giải phóng đã thắng lợi ròn rã.
Khi đó Hoàng vẫn không hề biết được tin rằng:
Thu, người yêu của anh đã bị chết khi đi làm nhiệm vụ cứu hộ dân bị nạn trong
đợt Mỹ ném bom B52 rải thảm xuống 12 ngày đêm ở Thủ đô Hà Nội vào tháng 12.1972
( vì anh không nhận được thư).
Tháng 3.1975, trung đoàn trưởng Trung đoàn
pháo 37ly Nguyễn Hoàng nhận lệnh chi viện cho các sư đoàn bộ binh chủ
lực của mặt trận B3, mở cuộc tổng tiến công vào các thị xã lớn: Buôn Ma Thuột,
Kon Tum và Pleiku... giải phóng hoàn toàn vùng Tây Nguyên. Thừa thắng,
các sư đoàn chủ lực của cộng sản ồ ạt tấn công, đánh chiếm Quảng Trị ngày
19.3.1975 - 26.3 giải phóng thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên - 24.3 đánh
chiếm hàng loạt các vùng khác, như Thị xã Tân Kỳ - Quảng Ngãi 25.3 - Chu
Lai 26.3 - Ngày 30.3.1975 thành phố Đà Nẵng cũng hoàn toàn lọt vào vòng kiểm
soát của quân giải phóng. Năm sư đoàn bộ binh thuộc chính phủ Việt Nam Cộng hòa
cùng các lực lượng không quân, hải quân, địa phương quân... tổng cộng gần 300
ngàn quân VNCH bị tan rã. 16 tỉnh ở miền Nam, 5 thành phố lớn của chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu - tức 1/3 lãnh thổ, trong vòng 15 ngày đã lọt vào tay quân
giải phóng.
Lúc tình hinh chiến trường miền Nam đang diễn
ra rất căng thẳng, gấp rút giải phóng toàn bộ miền Nam - Hoàng nhận được
tin Thu chết trong một lá thư của Lan gửi vào - cô bạn gái học cùng một lớp với
hai người... kèm với lá thư của Thu viết cho anh đêm nô-en 1972 chưa kịp
gửi. Hoàng nghe tin Lan báo về cái chết của Thu như sét đánh ngang tai, nước
mắt anh chỉ muốn trào ra. Toàn bộ con người anh run rẩy. Nhưng lệnh chuẩn bị
vào cuộc chiến quyết liệt - Hoàng phải nén lòng mình, vội nhét cả hai lá thư
của Lan và người yêu vào túi áo ngực, rồi tiếp tục chỉ huy bộ đội tiến vào trận
đánh.
Ở miền Bắc: Bộ chính trị của chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử:
Tiến đánh vào đầu não của chính quyền VNCH ở Sài Gòn, ngay trong mùa
xuân 1975. Sớm hơn dự định mà đáng lẽ theo kế hoạch, phải để tới năm 1976 mới
thực hiện.
Thắng lợi của chiến dịch Tây Nguyên, chiến
dịch Huế - Đà Nẵng và khắp trên chiến trường miền Nam, đẩy Quân lực Việt Nam
Cộng Hòa vào thế tuyệt vọng. Bộ máy chính quyền của tổng thống Thiệu tan rã.
Ngày 21.4.1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu buộc phải từ chức, trao quyền lại
cho phó tổng thống Trần Văn Hương. Sau đó nhượng lại cho Dương Văn Minh để có
thể thương lượng với cộng sản Bắc Việt - Nhưng cuối cùng thì Dương Văn Minh
thay mặt chính phủ VNCH ở Sài Gòn, đã phải đầu hàng vô điều kiện.
Chiều 25.4.1975, Nguyễn Văn Thiệu cùng với
gia đình và đoàn tùy tùng rời Việt Nam chạy sang Đài Loan - với sự hộ
tống của trùm CIA tại Sài Gòn Thomas Polar, tướng Charles Times và đại sứ
Martin.
Trở lại với chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
vào tháng 4.1975 ở trong tiểu thuyết "Chiến tranh và tình yêu", Phạm
Ngọc Thái đã phục lại: Trung tá Nguyễn Hoàng, trung đoàn trưởng trung đoàn pháo
hỗn hợp ( cả pháo cao xạ đánh trên không và pháo mặt đất), trực thuộc Binh đoàn
Tây Nguyên - Hoàng được phong vượt cấp sau chiến thắng ở mặt trận Tây Nguyên -
Trung đoàn pháo của anh được Bộ tư lệnh binh đoàn điều động, dùng hỏa lực chi
viện cho sư đoàn 320 đánh vào Đồng Dù - Đồng Dù là một căn cứ kiên cố, tuyến phòng
thủ phía Tây Bắc Sài Gòn của Chính quyền VNCH.
6
giờ 30 phút ngày 29.4.1975, lệnh nổ súng bắt đầu. Ở đây, đã diễn ra trận chiến
rất ác liệt. Thương vong và tử chiến cả hai bên đều rất nặng nề. Máu các chiến
sĩ của Sư đoàn 320 cũng đã nhuộm đỏ mặt đồi. Mệnh lệnh của đồng chí Sư đoàn
trưởng 320, chỉ thị xuống các trung đoàn: Bằng mọi giá dù phải hy sinh bao
nhiêu, trong vòng 6 tiếng phải tiêu diệt căn cứ Đồng Dù, để các binh
đoàn chủ lực của mặt trận tiến đánh vào trung tâm Sài Gòn.
Đúng
11 giờ ngày 29.4.1975, lá cờ quyết chiến quyết thắng của Sư đoàn 320 tung bay
trên nóc sở chỉ huy của quân VNCH. Mở tung cánh cửa hướng tây bắc, để binh
đoàn Tây Nguyên tiến thẳng về giải phóng Sài Gòn. Chỉ trong vòng 5 tiếng đồng
hồ, Sư 320 của quân giải phóng đã đập tan toàn bộ Sư 25 của chính quyền Thiệu
đóng trên căn cứ.
Chiều
29.4.1975 sau khi chiến thắng Đồng Dù, trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng nhận được
chỉ thị của Bộ tư lệnh Quân đoàn: Trung đoàn pháo của anh sẽ ở lại đóng quân
bảo vệ căn cứ - Còn đại quân gấp rút tiến vào nội đô, hợp với các quân đoàn của
toàn miền, để kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Đúng 11 giờ ngày 30.4.1975, lá cờ cách mạng
tung bay trên nóc Dinh Độc Lập. Tổng thống Dương Văn Minh vừa nhậm chức hôm
28.4 phải lên Đài phát thanh Sài Gòn đọc lệnh ngừng bắn và đầu hàng vô điều
kiện. Miền Nam
hoàn toàn giải phóng.
Tiểu
thuyết mô tả hình ảnh những người chiến sĩ ôm lấy nhau hạnh phúc. Nhiều người
đã khóc. Hạnh phúc lớn quá, tưởng có thể vỡ tim! Họ hò reo vui sướng như những
đứa con nít. Lòng những người lính chiến trường thổn thức. Họ muốn gào to lên,
gọi vọng về quê hương:
-
Cha ơi! Mẹ ơi! Vợ con và những người thân yêu của ta ơi! Chiến tranh đã kết
thúc rồi. Hòa bình rồi!
Khi đó trong lòng người Trung đoàn trưởng
Nguyễn Hoàng - Nhân vật chính của cuốn tiểu thuyết này? Tôi xin chép lại đoạn
cuối của cuốn tiểu thuyết:
"Buổi
trưa ngày 30.4.1975, trên căn cứ Đồng Dù nắng chói chang như đổ lửa. Trong gian
phòng của Ban chỉ huy trung đoàn pháo, Trung đoàn trưởng Nguyễn Hoàng lặng lẽ
đứng bên cửa sổ nhìn ra xa. Anh thấy cả một bầu trời đỏ như một dòng sông máu ( mở
ngoặc - Hình ảnh "dòng sông máu" minh họa về sự đau thương, tang tóc
do chiến tranh gây ra )... Máu của những chiến sỹ cách mạng đi làm nhiệm
vụ giải phóng từ mấy chục năm nay, máu những đồng đội anh vừa ngã xuống hôm qua
bên cửa ngõ Sài Gòn, và cả máu của bao chiến sỹ vừa chết trong trận chiến
sáng nay ở nội đô, thành phố được coi là "hòn ngọc viễn đông" này.
Không! Không phải chỉ những dòng máu ấy, mà
còn cả máu của hơn một triệu người lính VNCH cũng hòa vào trong đó? Những
người lính trận của phía bên kia? Họ cũng đã phải chết rất tang thương...
(Đoạn
này thể hiện tính hòa hợp dân tộc của tác giả)
-
Họ đâu phải là kẻ đã gây ra cuộc chiến tranh? Họ cũng là con em của dân tộc
này! Chỉ có kẻ gây ra cuộc chiến tranh là do đế quốc Mỹ và lũ tay sai khởi
chiến mới có tội: Phải bị lên án tới muôn đời!... Trong dòng sông máu
loang đỏ kia, còn cả máu của những người thân và đồng bào ở thành phố và những
làng thôn nơi quê hương anh... cũng đã phải đổ xuống vì chiến tranh ".
Đấy, bộ tiểu thuyết "Chiến tranh và tình
yêu" của Phạm Ngọc Thái kết thúc ở đó.
* PHẦN II - Chiến
tranh phá hoại của không quân Mỹ ra miền Bắc, được diễn tả theo cuộc đời Thu.
Thu tốt nghiệp trường đại học sư phạm, nhưng xin chuyển sang làm phóng viên của
tờ báo Hà Nội Mới ở Hà Nội - Cũng vào giai đoạn Mỹ ném bom để hủy diệt thủ đô
trong 12 ngày đêm - Cuộc chiến tàn khốc ấy được diễn tả qua hai chương:
-
Chương X: Hà Nội cuộc sơ tán vô tiền khoáng hậu
-
Chương XI: Hà Nội 12 ngày đêm
Ngày 16.4.1972, chính quyền Hà Nội ra lệnh cho
nhân dân phải "cấp tán" - Tức là sơ tán thật nhanh ra khỏi thành phố,
vì Mỹ sẽ ném bom rải thảm thành phố. Tiểu thuyết đã phục lại một số cảnh điển
hình "vô tiền khoáng hậu" của dân tình năm ấy.
Ngày 17.12.1972, Tổng thống Mỹ Nixon chính
thức ra lệnh mở cuộc tiến công bằng không quân vào Hà Nội, Hải Phòng: Gọi là
"chiến dịch Linebacker II" bắt đầu.
Vào 19h20 phút ngày 18.12.1972, nhiều tốp
máy bay B52 (mỗi tốp 3 chiếc) liên tiếp dội bom xuống khu vực sân bay Nội Bài,
Đông Anh, Yên Viên, Gia Lâm. Tiếng nổ long trời. Khói lửa mịt mù... Báo hiệu
cuộc đụng độ lịch sử, giữa các lực lượng phòng không ba thứ quân bảo vệ thủ đô
của cộng sản - Mở màn cho chiến dịch 12 ngày đêm "Hà Nội - Điên Biên Phủ
trên không", với các siêu pháo đài bay B52, những con "ngoáo ộp"
Mỹ.
Tiểu thuyết diễn lại hai trận ném bom tàn
khốc nhất của không quân Mỹ trong 12 ngày đêm:
-
Đêm 21 rạng ngày 22.12, làm đổ sập hoàn toàn bệnh viện Bạch Mai, rất nhiều
người bị thương và chết...
-
Đêm 26.12.1972, chúng đã trút bom xuống hủy diệt khu phố Khâm Thiên, nơi toàn
dân thường ở: 17 khối phố bị đánh đổ sập. Phá và hư hại gần 2.000 ngôi nhà...
trong đó có cả nhà trẻ, lớp mẫu giáo, cửa hàng lương thực, thực phẩm, đình chùa
di tích lịch sử, rạp hát và nhiều cơ sở sản xuất - Làm chết 278 người, trong đó
có 91 phụ nữ, 40 cụ già, 55 trẻ em - 178 cháu trở thành mồ côi và 290 người nữa
bị thương. Toàn bộ khu phố Khâm Thiên dài 1.200m, chỉ còn là một đống gạch vụn.
Hàng trăm gia đình phải chịu cảnh tang tóc. Có gia đình 7 người không còn ai
sống - Một tội ác của giặc Mỹ chưa từng có trong lịch sử loài người - Chỉ
riêng ở Hà Nội, chúng thả xuống 10.000 tấn bom tương đương quả bom nguyên tử Mỹ
đã ném xuống Hiroshima...
Thu bị chết vì bức tường đổ sập đè lên
người... khi cô cùng nhóm phóng viên của Tòa báo Hà Nội Mới, trong đội cảm tử ở
lại thành phố làm nhiệm vụ cứu hộ người bị nạn.
Tiểu thuyết cũng phục lại chiến tích oanh
liệt của quân chủng phòng không, không quân, Quân đội nhân dân Việt Nam cùng toàn
dân miền Bắc: Trong 12 ngày đêm... làm nên một "Điện Biên Phủ trên
không". Bắn rơi 81 máy bay các loại, trong đó có 34 máy bay B52, 5 máy bay
F111 ( cánh cụp cánh xòe) và 42 máy bay chiến thuật khác. Tiêu diệt và bắt sống
hàng trăm phi công Hoa Kỳ - Đánh thất bại hoàn toàn cuộc chiến tranh phá hoại
của không quân Mỹ.
7 giờ sáng ngày 30.12.1972, Nixon buộc phải
ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra và phải họp lại Hội nghị Pa Ri về Việt Nam .
Ngày 27.1.1973, Hiệp định Pa Ri đã được
kí kết: Chính phủ Hoa Kỳ cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam .
Cam kết không dính líu về quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ của miền Nam Việt Nam . Rút hết
quân Mỹ và quân các nước đồng minh của Mỹ về nước.
* PHẦN III: Tình
yêu - Tình yêu của Hoàng và Thu đã nẩy sinh từ thuở thanh thiếu
niên, khi đôi bạn mới rời khỏi trường phổ thông. Tình yêu đó còn mãi trong trái
tim, dù do thời cuộc chiến tranh hai ngả phân ly. Em ở đất Bắc, anh phương Nam - Ngay
trong chương đầu, tác giả đã mô tả về tình yêu:
"... Cô quay người lại kéo anh sát
gần vào mình. Núi Nùng đứng dựng lên như thành quách, ngăn cách họ với những bề
bộn của cuộc sống bên ngoài. Những cây cối cũng rùng rùng đứng dậy. Gió thổi
vút qua những cành lá, sóng vỗ vào mạn bờ lép bép... Thu ôm lấy Hoàng. Đôi bàn
tay nhỏ nhắn mềm mại của cô, ghì xuống đầu anh. Đôi trẻ tha thiết hôn nhau,
những nụ hôn đầu tiên của cuộc đời. Như những đợt sóng táp lên mặt, lên trán
rồi ướt đẫm đôi môi cô.
-
Không bao giờ chúng ta quên nhau!
Thu
bồi hồi nói trong hơi thở.
-
Không bao giờ ta quên!
Hoàng đắm đuối nhìn vào mắt người yêu, khẽ
nhắc lại.".
Khi hai người đã xa nhau - Hoàng ra chiến
trường, Thu tiếp tục cuộc đời người nữ sinh sư phạm. Tác giả tả về nỗi nhớ
người yêu của người chiến sỹ trên chiến trường:
"... Bốn mùa mưa ở Tây Nguyên, Hoàng mới chỉ nhận được của Thu
hai lá thư. Anh vẫn thường xuyên viết thư về cho người bạn gái, sau mỗi chiến
dịch về hậu cứ. Không biết Thu có nhận được hết không?
Hay là:
... Trong lá thư mà anh nhận được hồi
đầu chiến dịch, Thu đã kể cho anh nghe về tình hình thủ đô: Không quân Mỹ ngày
càng đánh phá ác liệt vào thành phố. Đa phần dân chúng Hà Nội đều phải đi sơ
tán về nông thôn hoặc các vùng núi xa - chỉ những người cần làm việc tại Hà Nội
và thanh niên tự vệ là ở lại.
Anh nhớ đến những khoảnh khắc sống êm đềm
bên người bạn gái. Anh thầm gọi tên em giữa đêm khuya... Cũng có thể, ngày mai
thân xác anh vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Tây Nguyên máu lửa này. Anh không
còn có thể trở về gặp lại người con gái thuở ấu thơ ấy nữa? Anh khao khát
từng kỉ niệm nhỏ êm đềm... nhưng cũng bình thản để tiếp nhận sự khốc liệt, kể
cả cái chết trên chiến trường đến bất cứ lúc nào? Cuộc chiến tranh đã tôi luyện
cho Hoàng như thế! Có lẽ nỗi đau thuộc về những người thân của người chiến sĩ
trên quê hương, về gia đình họ... chứ không phải bản thân những người lính như
các anh.".
Còn tình yêu của Thu dành cho Hoàng trong
những ngày xa nhau? Ta hãy nghe nhà văn tả tình cảm của cô gái:
"... Thu ngồi trên một bộ bàn ghế
đóng mộc mạc, cắm cúi viết thư. Cô viết:
-
Nếu tình yêu của Thu có thể giúp cho Hoàng thêm phần nào lý trí, để Hoàng vững
tin trên con đường đời rộng lớn. Thì đấy, chính là niềm hạnh phúc đã đến với
Thu! Thu sung sướng thấy được, khi chúng ta có những tình cảm sâu sắc gắn bó
với nhau - mà ở đó, mỗi đứa biết vượt lên cái riêng mình... ".
Hay là: "Anh thân yêu! Ở tận chiến
trường xa xôi có nghe thấy tiếng thầm thì của em không? Đêm nay anh ở đâu,
đang hành quân hay trong một trận chiến đấu máu lửa. Ôi, ước gì lúc này anh
cũng có những phút yên tĩnh, thao thức trong đêm như em - Thu đang nghĩ đến anh
đây, anh có biết không?".
Và cô gái ấy có cái mơ ước đơn giản như bao
người con gái khác - Nhà văn Phạm Ngọc Thái đã diễn tả tâm lý bình dị mà thiêng
liêng của người con gái, với người yêu ở nơi tiền tuyến:
"... Một tình cảm rạo rực trào lên
trong con người Thu. Cô tưởng tượng những ngày tới khi anh về phép... với niềm
vui thật khó tả... Ôi! Một lễ cưới sẽ được tổ chức - Đó là một ngày trọng đại
của người con gái. Người con gái nào vào tuổi xuân thì mà chẳng ước mơ, trong
đời có một lần mặc đồ áo cưới" !?
Nhưng rồi cái ước mơ bình dị và thiêng liêng
ấy không bao giờ đến được với cô? Chiến tranh - Chính là tội ác của chiến tranh
đã cướp đí tất cả. Cô đã ngã xuống dưới một bức tường đổ sập vì bom, đè lên tấm
thân mỏng mảnh của người con gái - Và không bao giờ còn được mặc bộ váy cưới
trong ngày vui của người thiếu nữ nữa.
Còn đây? Ta hãy nghe những dòng thư cô viết
cho người yêu trong đêm nô-en 1972 của 12 ngày đêm máu lửa đó:
"... Sau khi dự lễ ở nhà thờ,
bọn em còn lang thang thâu đêm... rồi trở về tòa soạn và đang ngồi viết thư cho
anh đây!... Chúng mình tuy rất xa nhau nhưng vẫn luôn có nhau, phải không anh?
Anh ạ, nhiều người con trai thường nói với
người yêu rằng: Anh sẽ dâng cả cuộc sống, cả thế giới này cho em! - Thì cô gái
nói với anh: em chỉ muốn làm một người vợ, một người mẹ của những đứa con...
sống một cuộc sống hạnh phúc bình thường, bên anh!".
Đọc đến đây thì chính ta muốn khóc? cả cái
ước muốn, hạnh phúc bình thường làm vợ, làm mẹ của người con gái đó cũng không
bao giờ đến được với em - Bom Mỹ đã tàn phá đi tất cả.
Lá thư dài năm trang giấy pơ luya màu hồng
của Thu viết trong đêm nô-en, chưa kịp gửi cho người yêu thì cô bị chết. Mấy
năm sau, Hoàng mới nhận được.
Về Hoàng - Đất nước không còn chiến tranh
nữa, nhưng lòng người sỹ quan ấy lại trào lên một nỗi buồn tê tái.
Người yêu của anh mãi mãi không thể trở lại với anh? Những trang cuối cuốn tiểu
thuyết, đã dừng lại trong những tâm trạng đó! Ta hãy nghe đoạn, trung đoàn
trưởng Nguyễn Hoàng giở lại lá thư của em ra đọc:
"... Bàn tay anh vẫn run run cầm
lá thư của người yêu. Anh cố ghìm lòng mình bình tĩnh. Một đoạn Thu đã viết:
... Hoàng thân yêu, Thu yêu anh nhiều lắm,
yêu hơn cả bản thân em đấy! Hoàng chính là mối tình đầu cũng là mối tình vĩnh
viễn của em. Anh và em, ta đã trao nhau những gì đẹp nhất của cuộc đời, phải
không anh? Em cũng đã dành cho anh trọn vẹn những gì quí giá nhất của người
con gái. Em thấy hạnh phúc vì đã làm với anh điều ấy!
Nghĩ đến anh là em lại thấy lòng mình bình
yên và ấm áp. dù đêm mùa đông giá lạnh, phải sống xa anh cả nghìn cây số. Em
ngồi viết thư cho anh đây, một mình em một bóng cô đơn. Tình yêu anh đã nâng đỡ
em rất nhiều trong những vấp váp đầu đời, đấy anh!
....
Ôi, cứ nghĩ tới những ngày tới anh về phép, lòng em lại bồn chồn khôn tả? Em
mong đợi ngày đó biết chừng nào. Khi đó đôi ta sẽ chính thức trở thành chồng,
thành vợ - Phải không anh?
Cứ mỗi lần đọc đến đây, Hoàng lại thấy run
bắn người. Anh như muốn òa khóc nấc lên tựa một đứa trẻ con... ".
Đấy, trong những trang cuối cùng tiểu thuyết
đã kết như thế! Để nói lên: Hạnh phúc lớn lao của đất nước... đã phải trả bằng
bao nhiêu máu, sự hy sinh, nỗi đau đớn của những người chiến sỹ và của cả
dân tộc này.
....
Nhưng nói về tình yêu trong cuốn tiểu thuyết,
còn xuất hiện một người con gái nữa !? Em cũng yêu Hoàng tha thiết - Mối tình tay ba chăng? Không hẳn thế, vì
trong truyện không có sự tranh giành tình yêu.
Đó là tình yêu của một thiếu nữ người Mường,
anh đã gặp trên đường hành quân đi chiến đấu. Tên em là Mỵ! Tiểu thuyết đã mô
tả về sự gặp gỡ, dẫn đến cuộc tình tha thiết của người con gái bản với anh...
vào một mùa xuân:
"... Họ đi qua những cành đào đung
đưa như chào đón. Hoàng giơ tay ngắt một nhánh hoa nhỏ. Mái đầu của cô gái
Mường khẽ chạm vào má anh. Anh thoảng nghe hơi thở của người con gái cũng thơm
nhẹ như làn hương hoa. Hoàng đưa tay vuốt lại những sợi tóc tơ, cài nhánh hoa
lên bím tóc. Mỵ lặng yên để cho anh cài hoa. Cô áp đầu vào ngực anh, nói nhỏ:
-
Anh Hoàng, em rất mến anh!
Bông hoa mùa xuân trinh bạch quá! Ở đây...
chính giữa vườn đào này, người con gái Mường là quầng sáng thần diệu bủa vây.
Khi vòng tay anh kéo cô sát vào người, Mỵ có cảm giác toàn thân cô đang đổ sụp.
Lúc này người con gái bản sẵn sàng gieo vào lòng anh, nếu anh muốn...
Ai có thể cắt nghĩa được đầy đủ về tình luyến
ái? Ai có thể phân được giới hạn tình yêu và sự cuốn hút của người con gái? Bắt
đầu chỉ là ý nghĩ về sự chiêm ngưỡng, nhưng rồi chính cái đẹp trinh trắng ấy đã
hấp dẫn anh...
Hoàng tự hỏi: "Tôi thích em, đấy
ư!" - Một cái gì bỗng day dứt trong anh? Anh lưỡng lự và giây phút rụt rè,
không dám để thả mình tiến xa hơn. Nhưng rồi cái tuổi thanh niên hay khao khát
và ham muốn được khai phá...
Chao ôi! Lỗi lầm sao cũng tươi mát như thân
thể và tâm hồn em vậy? Đóa hoa thơm của người con gái đang choán trong anh.
-
Mình có làm gì tồi tệ đâu?
Anh tự biện bạch cho mình như vậy! Dẫu ta
không thể dành cho em một tình yêu thực sự của hôn nhân, nhưng ta vẫn có những
tình cảm rất đẹp với em cơ mà? Những tiếng nói vẳng lên trong lòng anh... và ta
lại thích có em? Lại muốn được hưởng những niềm say mê, khao khát của tuổi
thanh xuân với em.
Hoàng bàng hoàng. Anh ôm lấy người con gái.
Tưới những nụ hôn lên trán, lên môi, lên vòm ngực thơm như hương hoa núi rừng
của người thiếu nữ mới lớn.".
Tưởng rằng những tình cảm trai gái cuốn
chàng chiến sỹ sẽ chỉ dừng lại ở đây !? Nhưng không, khi lòng anh cảm thấy
sự sa đà ấy là anh có lỗi với Thu - Nhân khi có lệnh cắm trại để chuẩn bị sẵn
sàng tiến ra tiền tuyến, tết đó anh không vào bản nữa... cũng là để tránh
không gặp Mỵ. Nhưng lúc này người con
gái Mường trong trắng, thật thà lại rất tha thiết với anh... và cô cho rằng,
những lời ngọt ngào mà anh đã nói là tình yêu của anh dành cho cô? Với bản sắc
mãnh liệt của người con gái bản, Mỵ lao đi tìm người yêu, trước khi anh
lên đường ra chiến trường. Thế là cuộc tình thứ hai của anh chiến sỹ Nguyễn
Hoàng đã diễn ra - Đây là đoạn tác giả tả khi cô đã gặp anh:
"... Mỵ đắm đuối nhìn Hoàng tha thiết
biết nhường nào. Đôi mắt ấy như muốn nói: Hãy hôn em đi! Hãy ôm em như hôm ở
trong vườn đào ấy? Rồi anh đi. Lúc này chúng mình không nghĩ về chuyện khác
nữa. Chỉ nghĩ đến em đang ở bên anh. Chúng mình đang yêu nhau...
Gặp lại được anh, em chỉ muốn theo anh ra mặt
trận, để cùng chiến đấu với anh. Em sẽ nấu cơm cho anh ăn, ru cho anh ngủ...
Hoàng như sống trong mơ. Mà đâu phải là mơ,
cô gái đang nằm trong vòng tay anh đấy! Người con gái trong trắng, xinh tươi,
đáng yêu này. Ôi, đôi bàn tay? Lý trí của ngươi thật tồi tệ. Nhưng lý trí mà
làm gì? Những xúc động mãnh liệt cám dỗ anh phút này còn mạnh hơn. Chẳng có gì
ngăn trở nữa, đôi bàn tay tham lam...
"Anh
là của em..." - Tiếng cô gái đang yêu, thầm thì bên anh.
Hoàng không tránh khỏi những tâm tư, trì
chiết ở trong lòng? Tác giả mô phỏng sự tự vấn đó:
"... Hoàng không thể nào nói nổi
với Mỵ cái điều mà anh muốn nói với cô? Anh muốn thú nhận với người con gái bản
rằng: Tình yêu giữa anh và cô, không dẫn đến một kết quả nào! Nhưng anh
không thể nói với cô là, anh đã có người yêu rồi! Đâu có phải anh cố tình
muốn lừa dối cô? - Không, không phải thế! Trong Hoàng bối rối với bao suy
nghĩ..." .
Cứ tưởng, rồi tình yêu thứ hai này của Hoàng
cũng chỉ đến đấy, khi anh đã ra trận? "Chiến tranh sẽ xóa đi tất cả -
Hoàng nghĩ vậy". Nhưng không, Phạm Ngọc Thái lại phát triển tình yêu
đó đi xa hơn. Anh để người con gái bản, vì thương nhớ người yêu?... Thời gian
sau đó, khi anh đã ở ngoài tiền tuyến rồi - Cô cũng quyết định xin ra
chiến trường.
Truyện thì dài. Mỵ cũng vào cùng chiến
trường Tây Nguyên với anh - Vốn dĩ là một y tá bản, cô được bố trí làm việc ở
trong ban quân y của bộ tư lệnh mặt trận. Rồi Mỵ cũng đã gặp được
Hoàng... trong một chiến dịch mà cô được Ban quân y cử đến tham gia chiến dịch
phục vụ các đơn vị chiến đấu - Ta hãy nghe một đoạn, người con gái bản đã lý
giải về quan hệ tình yêu tay ba, khi gặp lại anh trên chiến trường:
"... Ít hôm trước, khi Đắc Tô - Tân
Cảnh mới được giải phóng, Mỵ cùng với cô Sa người Huế đã tìm đến đơn vị để gặp
anh. Mỵ trông vẫn xinh, vẫn đẹp gái... Lúc đó anh sững sờ nhìn người con gái
bản, cứ nghĩ mình đang mơ? Chỉ vì lòng ham muốn của tuổi trẻ, anh đã gieo vào
tâm hồn trong trắng của cô gái một tình yêu trái tim!...
... Anh và Mỵ tìm một nơi yên tĩnh trong rừng
để tâm tình. Còn cô Sa thì anh em quây kín lại tíu tít chuyện trò... cứ như
người thương nhớ, tận bên kia thế giới mới về...
Mỵ hờn dỗi, trách anh đi biền biệt không
viết thư về cho cô. Anh đã phải tìm mọi lý do biện bạch cho mình: Nào là chiến
trận liên miên, nào là bom đạn nên thư hay thất lạc?... Mỵ nói là rất yêu anh!
Ngồi bên anh trong rừng, cô nằm vào lòng anh cho bõ nhớ - Cô bảo vậy.... Quả
thật khi gặp lại Mỵ, lòng anh không khỏi choáng váng. Ngồi ôm em trong vòng
tay, anh cũng thấy chính mình hạnh phúc! Thôi, cứ để cho em nghĩ rằng: Anh vẫn
chỉ là của riêng em. Cả anh và em cứ tận hưởng những khoảnh khắc ân ái đang dào
dạt tâm hồn. Nhưng giây phút anh man mê trên tấm thân nõn nà của người con
gái...
Mỵ cũng khao khát và trong lòng cô không thể
nào cưỡng nổi. Cô cứ để tấm thân trần mà tận hưởng với anh, giữa một khu rừng
chỉ có hai người và tiếng chim kêu...
.... Bỗng một ý thức nào đó vụt đến trong đầu,
anh dùng toàn bộ lý trí của mình vùng đứng dậy: "Tình yêu của em dành cho
anh thiêng liêng, cao cả quá! Anh không thể dối lừa em được nữa" - Một ý
nghĩ nhân ái lớn lao hơn đến trong anh, đã đến lúc anh phải nói thật với em tất
cả.
... Hoàng bế Mỵ ngồi lên. Anh cứ để tấm thân
trắng ngần của người con gái trong vòng tay mình, kể cho cô nghe tất cả mối
tình của anh đã có với Thu. Anh cũng nói rõ với Mỵ là, anh không thể phụ lại
tình yêu của người bạn gái thưở thiếu thời ấy!
...
Nghe Hoàng nói, Mỵ cũng lặng đi và rơm rớm nước mắt, nhưng cô không khóc. Giây
lát, Mỵ ngước lên nhìn anh khẽ hỏi:
-
Anh có yêu em không?
-
Anh quí mến Mỵ! Anh thương Mỵ nhưng anh không thể...
Hoàng bảo vậy rồi ôm chặt lấy cô, tỏ nỗi cảm
thông với người con gái bản Mường. Mỵ không buông một lời trách móc nào với
anh. Cô nói: Nếu anh cũng có tình thương yêu với cô, cô không giận anh - Bởi vì
người con gái anh yêu đầu tiên, mà anh gọi là "Thu" ấy... đã đến với
anh trước cô. Cô không oán thán anh. Cô kể, ở bản Mường cũng không thiếu gì
những người đàn ông hai vợ, mà vẫn sống êm đềm, hạnh phúc. Nhất là chiến tranh,
con trai ra tiền tuyến bị chết nhiều, đàn ông lấy hai vợ cũng là sự thường tình.
Mỵ bảo: Cô chấp nhận Thu đã đến với anh trước
nên chị ấy sẽ là vợ cả, Mỵ làm vợ hai của anh cũng được. miễn là anh vẫn yêu cô
- Em còn nói, em tha thiết yêu anh và không thể bỏ anh...
Đến lượt Hoàng bất ngờ, đến mức sững sờ...
khi nghe thấy Mỵ lại giải quyết vấn đề nan giải ấy một cách nhẹ nhàng như thế!
Anh ôm ghì lấy người con gái, tỏ lòng cảm phục cô về cả lý trí và tình yêu. Mỵ
kéo Hoàng nằm xuống... ".
Ôi, chuyện tình yêu của hai anh chị vẫn còn
nhiều thú vị - Mời bạn đọc hãy xem trong tiểu thuyết, kẻo bài viết của tôi dài
quá.
Nhưng rồi trong chiến dịch đánh vào Kon
Tum sau đó, quân giải phóng bị thất bại phải rút lui - Mỵ bị thương rồi...
chết!
Thế là, cả hai mối tình của Nguyễn Hoàng với
hai người con gái: Một ở lại hậu phương - Một ra tiền tuyến, đều bị cuộc chiến
tranh cướp đi, không ai còn ở lại được với anh. Một cái kết thật bi thương! -
Đấy chính là cái giá mà nhân dân Việt Nam và những người chiến sỹ đã
phải trả cho sự độc lập! Ta lại nghe Phạm Ngọc Thái nói về cái chết của
người con gái chiến sỹ ấy, khi em trút hơi thở cuối cùng trên cánh tay anh:
".... Cô ấy chết rồi! Cô ấy không
bao giờ tỉnh lại được nữa... Như hoa lá, bầu trời - Tâm hồn em thật cao
thượng! Ý nghĩ của em cũng thơm mát như những cánh hoa tươi. Tất cả ở trong em,
người con gái bình dị mà cao cả biết bao nhiêu. Em là cái đẹp thiên nhiên nhất
của thiên nhiên! "con người" nhất của con người! Nơi tập trung sự đẹp
đẽ của lòng nhân ái, của khao khát và hy vọng!... Anh ghê tởm nguyền rủa cuộc
chiến tranh phi nghĩa do Mỹ gây ra. Em vượt lên điểm đỉnh của phẩm giá, của chủ
nghĩa nhân văn - Một người nữ chiến sĩ bình dị, trong cuộc chiến tranh tàn khốc
này. Người liệt sĩ vô danh.".
Một bộ tiểu thuyết tâm lý chiến tranh sâu sắc,
sống động, ngôn ngữ đẹp và không kém vẻ ly kỳ... về thời kỳ chiến tranh đánh Mỹ
- Của một nhà văn chiến binh, từng sống trọn tuổi trẻ của đời mình trên chiến
trường Tây Nguyên máu lửa. Theo tôi: Bộ tiểu thuyết có giá trị lịch sử
cũng như đối với nền văn học nước nhà.
Hà Nội, tháng 8.2020
Trần Đức
Nguyên CB Viện Ngôn ngữ & Văn hóa dân gian
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét