(Trích hồi ký LÀM
BÁO Ở CHIẾN TRƯỜNG của Lê Văn Hy )
Tôi vào đến Bộ
Tư lệnh B3 ngày 27/6/68, trải qua 47 ngày đêm đi xe và đi bộ. Chúng tôi có 8
người: Trần Quý Giang, đại úy, phân xã
quân đội, Lê Văn Hy, Nguyễn Thế Viên. Lương Biên, Ngô Xuân Tường, Nguyễn Hữu
Nền, phóng viên tin, ảnh của TTX, Lưu Đức Hiệp báo Nhân dân và hai báo vụ.
Chúng tôi phải tạm ở phân đội Điện ảnh (chiếu bóng) của B3 để chờ nghe trưởng
ban Tuyên huấn ra nói chuyện.
Đã trải qua hơn một tháng nằm trên xe,
nằm ngoài bến, nằm trong rừng, nằm trên trạm giao liên nhưng đêm đó là đêm đầu tiên tôi ngủ ở khu
vực bộ tư lệnh B3, tuy đó chỉ là một nhà lá thấp lè tè và ẩm ướt.
Buổi
tối, cũng là lần đầu tiên tôi được nghe con gì đó nó kêu oang oang như tiếng
kèn kéo dài vừa buồn vừa ghê sợ. Kính, quản lý của phân đội điện ảnh nói với
tôi: Đó là con thổi kèn, nó vẫn kêu vào lúc trên 6 giờ tối.
Ngay sáng hôm sau, tôi và Nguyễn Thanh
Tùng (báo vụ) theo Kính đi Q7 để lĩnh
hàng, vì trong đó có cả phần sữa của chúng tôi. Thông thường thì mới vào, chúng
tôi mỗi người được một hộp sữa nước. Trong 7 ngày đầu mỗi ngày còn được ăn thêm
một lạng gạo, gọi là để bồi dưỡng cho những người mới vào chiến trường.
Chúng tôi đi theo con đường thồ quanh co
trên các triền núi, khu vực rất nhiều suối, hơn nữa trong mùa mưa phải đi qua
nhiều chiếc cầu gỗ lát phên nứa. Quá trưa mới về đến nhà, người mệt phờ. Kính
còn nói chuyện nhiều lắm. Chúng tôi được biết phòng Chính trị còn có đội văn nghệ xung kích đang đi biểu
diễn, ở nhà chỉ còn Thời là quản lý, đơn vị cũng ở ngay gần đó.
Kính còn cho biết phòng Chính trị cũng có
rẫy trồng sắn, cách đó những hơn một ngày đường. Ở gần đấy cũng có khu vực của
phòng nhưng chỉ ở vào mùa mưa còn mùa khô không có nước. Ở đấy gọi là Cánh
Trung. Cho đến tháng 5 năm 1970, phòng Chính trị chúng tôi vẫn đi đi về trên
hai địa điểm Q8 và Cánh Trung.
Sau khi nghe anh Nguyễn Đằng, Thiếu tá,
trưởng ban Tuyên huấn ra nói chuyện, tôi và Lương Biên được lệnh lên đường đi phục
vụ chiến dịch ở Cánh Nam, vì vậy tôi và Lương Biên được vào Phòng trước. Anh
Giang và anh Viên cũng vào để dự chỉnh huấn tổng kết chiến dịch mùa khô của Bộ
Tư lệnh. Chờ họp xong, chúng tôi sẽ theo đoàn cán bộ ở Cánh Nam về. Còn lại
ở phân đội điện ảnh là Lưu Đức Hiệp, Ngô Xuân Tường, Nguyễn Hữu Nền, Nguyễn
Thanh Tùng thì đi làm nhà ở Cánh Trung
chờ Phòng di chuyển. Trong khi chờ đợi ở
Q8, tôi chỉ có ngày hai bữa ăn rồi chơi. Dạo đó vẫn được ăn ngày 6 lạng gạo,
không phải độn vì ở xa rẫy sắn. Tôi ở với anh em báo Quân giải phóng Tây
Nguyên, do anh Thanh, Đại úy làm Tổng bien tập. Phóng viên có anh Nguyên, các
anh Nguyễn Khắc Quán, Nguyễn Văn Minh, Hoàng Khắc Nhu, Lê Sĩ Hành (Còn Nguyễn
Đình Thảo, Đinh Ngãi lúc đó đi công tác vắng, tôi chưa gặp). Hành cũng trong
danh sách đi Cánh Nam
với bọn tôi. Mùa mưa đã được gần một
tháng, suối vẫn chẩy ầm ầm. Tôi theo Hành đi đào măng. Hành tỏ ra tháo vát biết
chỗ nào có măng và đào măng như thế nào.
(Sau này tôi cũng có kinh nghiệm lấy măng và được anh em gọi là trạng măng đấy).
Chúng tôi hành
quân vào Cánh Nam ,
xuất phát ngày 7/7/1968, gồm Lê Văn Hy, Lương Biên, Lê Sĩ Hành (phóng viên) và
Du báo vụ. Hành được chỉ định làm đội trưởng còn Biên làm tổ trưởng Đảng. Ngay
đêm đầu tiên của đợt hành quân chúng tôi
nghỉ ở khu vực rẫy của Đại đội trinh sát gần T9. Thường ở B3 mỗi đơn vị để ra
vài ba người trông coi rẫy của đơn vị. Tổ sản xuất này còn có nhiệm vụ săn bắn
đánh cá, chăn nuôi lợn gà cho đơn vị. Du quen với một đồng chí bộ đội ở đây nên đưa chúng tôi vào nghỉ đêm. Tất cả chúng
tôi đều thèm rau, ở phòng thì không có rau, chỉ có rau rừng thậm chí rau sắn
cungxkhoong có. Anh em bàn nhau ra rẫy xin rau sắn.
- Rau muống thì thiếu gì mà phải ăn rau
sắn - Một đồng chí trong rẫy nói.
Và sáng hôm sau chúng tôi đã thấy một rổ
rau muống luộc non xanh, lại còn có cả thịt máng (lúc đó tôi vẫn chưa biết con
mang là con gì. Sau mới biết mang tức là hoẵng, con vật trông giống con nai
nhưng chỉ to bằng con chó tây nhưng thịt ngon hơn thịt nai). Chúng tôi ăn một
bữa thịt mang, gan tim thoải mái. Ăn đến mức mà hôm qua chỉ thèm rau sắn thì hôm
nay rau muống cũng bỏ thừa. Hành nói với tôi:
- Ở trong này chỉ được no đủ từng bữa
thôi, còn khổ thì triền miên lâu dài.
Ở lâu trong
này tôi mới thấy câu nói của Hành là đúng.
Đã đến bờ sông
Pô –Cô, con sông đã có tên tuổi gắn liền với các chiến công chảy từ Kon-Tum qua
Gia Lai rồi đổ vào sông Cửu Long. Sông rộng đá mấp mô, nước chẩy xiết, nghe nói
còn có cả cá sấu nữa. Qua sông Pô Cô chúng tôi đi thuyền gắn máy, phải đợi đến
chập tối mới dám chạy vì tránh máy bay
địch. Qua sông Pô Cô chúng tôi đi trên một vùng bằng phẳng toàn rừng khộp và cỏ le và kéo dài cho đến Cánh Nam . Rừng
Kon-Tum núi dựng đứng bao nhiêu thì rừng Gia Lai Đắc Lắc lại bằng phẳng bấy
nhiêu. Những cây khộp lần đầu tiên tôi trông thấy là những cây có thân hình hơi
cong, nhiều nhánh, lá to như lá bàng. Chỉ về mùa mưa mới có còn về mùa khô, cỏ
khô héo vì bị cháy trụi, chỉ cần một tàn lửa nhỏ trong rừng đủ làm cả rừng cỏ le cháy trụi, đêm lửa sáng
rực cả một vùng. Đó cũng chỉ là nghe nói thôi, còn sau này trong những mùa khô
ở Tây Nguyên, tôi vẫn chưa có dịp qua rừng cỏ le. Trước mắt lúc đó tôi chỉ thấy
các cây khộp có vỏ bị cháy đen nhưng lá
cây vẫn xanh tốt. Cháy đen đó là do ảnh hưởng của rừng cỏ le bị cháy, nhưng cây
khộp chỉ cháy vỏ, thân có sức sống bền bỉ, dai dẳng nên chịu đựng được.
Trải qua 18
ngày hành quân chúng tôi đến Cánh Nam . Bộ Tư lệnh ở đây là sở chỉ huy
nhẹ tách ra, chức phó làm chức trưởng. Cũng có ba phòng Tham mưu Chính trị Hậu
cần. Phòng Chính trị Cánh Nam
do ông Định làm chủ nhiệm. Trưởng ban Tuyên huấn là ông Thạch. Trong ban có anh
Nhân quê Nghệ An, Hiền, Tuấn và các đồng chí ở các ban khác. Việc đầu tiên cũng
là lần đầu chúng tôi làm nhà ở. Tôi, Biên, Du, Hành, Hiền làm một cái nhà lợp
tranh trong 3 ngày là xong. Ở đây, tôi cũng lần đầu tiên đi gùi gạo. Từ phòng
phải đi lộn về đến Trạm Mười chín. Đi
một ngày căng mới tới. Còn khi về gùi nặng phải đi 2 ngày. Tôi gùi hơn 30 kg.
Lúc đầu mà gùi thế là khá. Lúc đó tôi chưa bị sốt rét nên da đỏ trắng khỏe. Hành
thường tị với nước da của tôi nhưng anh tiên đoán rằng chỉ một vài trận sốt
rét da lại bủng beo xám xịt ra mà xem.
Biên đi dự hội nghị thi đua ở Trung đoàn Hồng Lĩnh. Tôi ở nhà viết tin. Ở đây
được mười ngày tôi đã được ăn một bữa thoải mái do Hiền và vệ binh bắn được.
Ban Tuyên huấn được một nửa buồng gan, cộng một phần lá lách voi, ăn hai, ba
bữa mới hết. Ở đây chúng tôi còn được ăn thịt lợn rừng, dộc, vượn, chồn đều do
Tuấn, Hiền săn bắn được. Rừng ở đây bằng phẳng rất nhiều thú, các anh chỉ săn
vào buổi sáng. Suốt những năm ở B3, tôi chỉ thấy ở đây là săn vào ban ngày, còn
ở nơi khác đi săn phải đội đèn soi vào ban đêm.
Ở đây khoảng
hơn nửa tháng thì phòng di chuyển sâu hơn để tiện chỉ đạo đánh Đức Lập. Lê Sĩ
Hành và Lương Biên đã đi phía trước, tôi được phân công ở nhà viết tin nên đi
với Phòng. Tôi và anh Nhân đi trước vài hôm vì còn qua chỗ “Khẩu”. Đi đường tôi
phải dùng hộp sữa nước mà Phòng bồi dưỡng hôm mới vào vẫn còn đeo theo hôm nay
mới dùng. Anh Nhân còn bảo tôi lấy “gô “ pha trà. Đi suốt một ngày vẫn trên
đường bằng đá sỏi, chung quanh là những tảng đá to xen lẫn cây thưa. Đến tối
thì gặp đường ô tô. Dọc theo đường ô tô là đên nhà của bộ phận ở Cửa khẩu. Từ
Cửa khẩu về nơi trú quân của phòng chỉ vài tiếng đồng hồ. Đoàn cán bộ các ban
cũng vừa đến. Anh em đang làm chỗ căng tăng mắc võng. Tôi lúc đó cảm thây mệt
mỏi và sau đó thì lên cơn sốt. Cái sốt đầu tiên ở chiến trường mới ê ẩm làm
sao. Kéo dài suốt mấy ngày liền. Tuy vậy tôi vẫn viết tin và bản tin Giải phóng
quận lỵ Đức Lập vẫn là tin tôi viết.
Sốt ngày càng nặng không ăn uống được mấy. Tuy lúc đó còn được
ăn 6 lạng gạo/ngày và còn có cả thức ăn
đồ hộp nữa. Vẫn sốt nặng nóng hầm hập. Anh Vỹ nói với anh Thạch trưởng ban
Tuyên huấn phải gấp rút cho tôi đi viện
thôi. Tôi được đi vào viện 79C. Viện này là của B2 nhưng cán bộ chiến sĩ B3 đang
đánh Đức Lập vẫn được điều trị. Cũng là người của Phòng Chính trị với tôi đang
điều trị sốt rét ở đây có anh Ruẩn, cũng ở Nam Hà.
Ở
Viện 79C có một sự kiện có lẽ tôi không
bao giờ quên được. Đó là vào một buổi sáng, anh Ruẩn rủ tôi xin phép về Phòng
chơi. Xa Phòng mấy hôm tôi cũng muốn về thăm anh em. Thế là tôi đi theo anh
Ruẩn. Anh dẫn tôi đi cắt rừng mà anh bảo là gần lắm. Đi một lúc ,tôi thấy anh
Ruẩn cứ nói lảm nhảm không đâu vào đâu mới biết là anh bị sốt rét đã mất trí
nhớ. (Một hiện tượng của sốt rét ác tính). Tôi kéo anh về nhưng anh cứ nhất
định đi. Thế là tôi cứ phải theo anh. Mình về một mình bây giờ mà để anh đi
trong lúc như vậy thì không đành lòng được nên cứ phải theo anh đi hết đường
mòn này đến đường mòn khác. Trời thì gần tối, tôi rất lo. Lại nghĩ giá mình
mang khẩu súng đi thì lúc này mình sẽ bắn hêt băng đạn để báo hiệu cho các đơn
vị nào đó đến để cưuus mình. Chúng tôi đành đốt lửa. Chẳng may chiếc bật lửa
của anh Ruẩn cũng hết dầu hết đá. Nằm
không trên một khu rừng hoang vắng mà tôi lo làm sao ngày mai tìm được đường
về. Càng lo càng không ngủ được, tôi nằm ôm lấy anh Ruẩn chỉ muốn khóc thôi.
Tảng sáng, anh Ruẩn đã hơi tỉnh lại, chúng tôi đi tìm đường giao liên phát hiện
ra một đường nhỏ rõ ràng là mới có người đi qua, vì trên đó còn một cành lá
tươi mới bứt làm chỗ ngồi. Bụng đói nhưng khổ nhất là khát. Cả hai chúng tôi
đều không ai mang bi đông nên mỗi khi qua một cái suối lại uống thật no để dự
trữ. Quả thật đi qua đường mới phát hiện
đó thì chúng tôi gặp được hai anh bộ đội trinh sát của Phòng Tham mưu gần đó
nhưng đang đi công tác. Thấy chúng tôi đói đã hơn một ngày một đêm hai anh lấy
gạo rang đưa cho chúng tôi ăn. Ăn gạo rang uống nước suối mà sao thấy ngon thế.
Hai anh chỉ đường cho chúng tôi về trạm giao liên A5 và từ A5 chúng tôi tìm
đường về viện 79C.
Hết sốt, tôi ra Viện tiếp tục viết tin.
Được mười ngày sau thì Bộ Tư lệnh Tiền phương
cũng rút về chuẩn bị mở chiến
dịch đường mười chín An Khê.
Khi đi chỉ có 4 anh em chúng tôi nhưng khi về thì đông vui gồm cả ba phòng Tham mưu Chính trị Hậu cân. Có cả Thiếu tướng Hoàng Minh Thảo và
Thượng tá Đặng Vũ Hiệp mới ra họp ở ngoài Bắc vào. Các đồng chí đi máy bay từ
Hà Nội qua Nông Pênh nên về theo lối này.
LÊ VĂN HY
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét