(Kỷ niệm 75 năm thành lập VNTTX- Nay là TTXVN 15/9/1945-15/9/2020)
Đi chiến dịch Bắc
Kontum mùa Hè năm 1972.
…Ở cái thời kỳ
sôi nổi bước vào chiến dịch lịch sử
này ai cũng háo hức đi phía trước. Nhưng
cũng có một số người có vẻ bi quan nghĩ
tới khả năng xấu nhất trong tương lai
đối với cá nhân họ. Chẳng hạn: “Năm nay chúng ta phát rẫy vui thế này, nhưng
đến vụ rẫy sau, trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt xẩy ra biết có còn đông đủ
thế này không.” Khi chụp ảnh chung làm kỷ niệm, cũng có anh nói: “Bây giờ có
điều kiện chụp ảnh thì chụp đi. Sau chiến dịch này biết có còn đâu mà chụp”. Đúng
là chiến tranh ác liệt người ta thường nghĩ tới chuyện hy sinh mất mát, nhưng
tôi thì tôi vẫn cứ lạc quan và tin tưởng
dù thế nào thì cuối cùng ta cũng thắng.
Trong khi địch ném bom tràn vào khu căn cứ, Phòng chính trị B3 chúng tôi phải
di chuyển lên vùng núi cao để chuẩn bị mở chiến dịch Bắc Kontum.
Trước khi đi chiến dịch, anh Trần Quý
Giang, Tổ trưởng tổ Thông tấn quân đội còn giao cho tôi và Nguyễn Công Chính (quay
máy 15W) đi lấy pin chuyên dụng ở khu
kho S4 gần Binh trạm Bắc. Hai anh em chúng tôi không biết đường đất nào cả. Cứ
theo đường mòn giao liên mà đi, qua sông qua suối gần một ngày đường mới tới
được khu kho S4 Ban Thông tin B3. Ở đây là khu kho chứa các loại pin, ăc quy,
biến thế và dây điện thoại. Chỉ có một đồng chí bộ đội coi kho. Ở B3 một số kho
nhỏ chỉ có một đồng chí bộ đội coi kho là chuyện thường. Cố nhiên là đồng chí
đó phải có tinh thần trách nhiệm cao mới chịu được hoàn cảnh một mình ở một khu
rừng như vậy. Thế mà khi chúng tôi đến, đồng chí đó còn nói: “Lấy pin xong phải
đi ngay không được ngủ qua đêm. Đây là lệnh của trên“. Tôi rât thông cảm không
phải đồng chí đó không muốn cho mình ở lại lâu. Muốn quá đi chứ. Đang ở một
mình mà có người đến chuyện trò cho vui, dù chỉ một lúc cũng vui chứ sao. Chẳng
qua cũng chỉ vì tính tổ chức tính kỷ luật cao đó thôi.
Về đến “nhà”, tôi được phân công đi trước với Tổ đài 15W gồm tôi, Bản, Vượng,
Dần, Trà, Thoát… Hành quân đợt đó có thể nói là mang nặng nhât, vì ngoài vũ khí
tư trang còn phải mang máy 15w và các phụ tùng cơ khí… lại phải đi xa hàng mấy
ngày đường, mới tới chân núi Chư Chóc bên sông Sa Thầy. Chúng tôi ở chỗ hậu cứ
của Trung đoàn 66 (có mật danh là đoàn Chi Lăng). Mấy ngày đầu chẳng có việc gì
làm, vì chưa nối được đường dây với Chỉ huy sở. Muốn gọi điện hay nhận tin, Bản
phải ra phân đội thông tin, cách đến 3
tiếng đồng hồ đi bộ. Chúng tôi ra sông Sa Thầy ngắm cảnh. Sông Sa Thầy rất
nhiều cá. Anh em ở một đơn vị thuộc Trung đoàn 66 đã đánh lưới được nhiều cá lắm.
Máy bay địch lúc này đang quần đảo dữ dội ném bom liên tục ở con đường mới mở
cách chỗ chúng tôi chỉ vài giờ đi bộ. Chúng tôi còn lên núi tìm xoài ăn. Phải
nói là ở chiến trường rừng núi này, việc tìm kiếm quả rừng ăn cũng là một thú
vị. Thông thường thì có xoài, chôm chôm, vải rừng, gùi (gùi là một thứ cây dây
leo có quả chín vàng như quả thị, ăn rất ngon mà ăn no được). Dạo anh Giang đi
làm rẫy (tháng 5 năm 1971). Nói Dần, Số, Hóa đi lấy hàng bồ gùi. Lúc tôi vào
sản xuất đã cuối mùa gùi, Hóa chỉ còn vớt vát lấy cho tôi 2 quă mà vẫn thấy ngon đến nay.
Ở
trên là nhắc lại chuyện cũ, chứ lúc chúng tôi ở Chư Chóc này đã là tháng 3 năm 1972,
chuẩn bị đánh lớn rồi. Khi bắt đầu chiến dịch
thì Bản ra nhận điện của anh Trình (trưởng ban Tuyên huấn B3 gọi tôi ra
chỉ huy sở ngay để viết tin. Lúc đó tôi
nghĩ thầm. Sao không cứ để tôi làm quay máy đi, sao bây giờ phải gọi ra. Và tôi
tự nghĩ thấy việc anh Giang phân công là quá trái khoáy đi mất rồi. Anh Chế Viết Trình cũng đã thấy
rõ điều đó. Thế là ngay chiều hôm đó, tôi một mình ra đi, nghĩ cũng lo. Tính
mình rất sợ lạc đường, nay một mình ra Chỉ huy sở cách những hai ngày đường không biết đi thế
nào đây. Tôi cứ tạm thời đến chỗ Bản thường ra gọi điện. Đi theo đường Bản vẽ,
đi đến đó thì vừa gần tối. May sao gặp
anh em C36 thông tin cũng vừa tới. Tôi còn được ăn bữa cá chưa từng thấy do anh
em đánh lưới được đến 20 kg cá, mà cũng chỉ có hơn 10 người ăn thôi. Sáng sau
tôi theo đoàn về chỉ huy sở. Tôi ở với anh Châu. Anh Châu là thiếu tá, phái
viên của Tổng cục chính trị mới vào. Hồi
tết Nhâm Tý vừa qua, tôi và anh Châu đã ăn đón giao thừa với nhau. Anh Châu là
một cán bộ hoạt bát có trình độ lý luận. Tôi và anh Châu nằm chung một nhà hầm
có sạp tre khô ráo. Hai anh em ở với nhau rất hợp. Lúc này tôi hiểu Ban gọi tôi
ra là đúng, vì không có ai viết tin cả.
Có anh Kim Đồng, báo Quân đội nhân dân
mới vào phục vụ chiến dịch, nhưng anh ấy chỉ quen viết báo chứ viết tin
có quen đâu. Vả lại anh Đồng bây giờ
phải đi theo sư đoàn 320 ra phía trước. Mấy ngày đầu bước vào chiến dịch, tin
chưa nhiều nên tôi cũng nhàn. Sau tin chiến sự nở rộ, Ban điều anh Nguyễn Văn
Minh bên báo QGP Tây Nguyên ra cùng với tôi
viết tin. Nhưng suốt trong chiến dịch mùa Hè năm 1972 đó, chỉ có tôi viết tin
là chủ yếu. Anh Minh chỉ viết người thật và mẩu chuyện. Viết tin phải nói là
tôi quen hơn và có tín nhiệm hơn. Cứ anh Trình giao ban bên Bộ tư lệnh về là
gọi tôi ngay để viết tin. Tôi vẫn còn phải sang Ban tác chiến lấy thêm tài
liệu về mỗi trận đánh. Công việc rất là bận rộn. Có khi yêu cầu tin
Tổng hợp. Có khi chỉ tin ngắn chiến sự
tôi chỉ viết trong mươi mười lăm phút là xong, rồi phải tự gọi ra tổ
Đài kịp phát ra Hà Nội nên không trưa
nào tối nào mà tôi không có việc làm. Tuy làm việc bận nhưng các tin chiến
thắng phía trước cổ vũ tôi thấy được tác
dụng của mình.
Thêm vào đoạn cuối trích Hồi ký làm báo ở
chiến trường, tôi có bài thơ sau đây.
NGHỊCH
LÝ THỜI CHIẾN
Bộ đội Bê Ba mỗi lần
chỉnh huấn
Phê và tự phê ngán ngẩm chiến trường
Ngại gian khổ sợ hy sinh ác liệt
Chớm tư tưởng này cạo gọt tới xương
Nhưng yêu chiến trường nghe như nghịch lý
Bởi nơi này chất ngất mọi gian lao
Ở thời điểm toàn dân ta đánh Mỹ
Nghịch lý ngọc lành nghịch lý giá cao
Phương ngôn: Ngọc lành
còn đợi giá cao.
Lê Văn Hy, PV TTXVN tại Mặt trận B3 (TN)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét