(Trích Hồi ký Làm báo ở chiến trường)
Cái Tết năm
1970 đến nhanh quá, nhưng chúng tôi vẫn chuẩn bị được đến
bẩy con gà để luộc và nấu cháo.
Phải nói là Têt năm ấy hơn Tết năm 1969 nhiều. Tết năm 1969 cả tổ Thông tấn quân đội chúng tôi chỉ có một
con gà nhép không quá 5 lạng. Đáng lẽ con gà này còn để nuôi. Nhưng chả nhẽ cái
tết Kỷ Dậu (năm con gà) lại không có thịt gà thì cũng buồn. Thế là chúng tôi
làm thịt gà nấu cháo được mỗi người một
bát. Nguyễn Thanh Tùng, báo vụ trong khi làm thịt gà còn bắt được một con chuột, luộc lên mỗi
người được thêm một miếng thịt chuột ăn cũng ngon lành.
Còn tết năm 1970 thì đàng hoàng quá, ngã
bảy con gà, nhà cửa cũng rồng và đẹp mà
chỉ có tôi, Nguyễn Hữu Nền, Nguyễn Phú Tuấn làm đấy. Cái nhà có thể nói là đẹp
và rộng nhất kể từ năm vào Tây Nguyên đến nay. Nhưng đối với tôi, tết năm 1970
cũng có chuyện buồn. Số là vì đêm 29 tết, Nguyễn Mạnh Dần, quay viên của tổ
đài rủ tôi đi săn xem có được con thú gì
để ăn không. Tôi đi theo. Đi đêm không có đèn (vì chỉ có người đi trước cầm
súng săn mới có đèn đội trên đầu để soi vào mắt con thú) chiếc dép lỏng quai
dẫm lên đá gồ ghề làm tôi bước hẫng gây bong gân. Về đến nhà thì bàn chân sưng
to nhức nhối. Sáng hôm sau 30 tết tôi phải chống gậy lê ra suối ngồi ngâm
chân cũng không khỏi. Tết khi đón giao
thừa, tục lệ của phòng Chính trị và cả Bộ tư lệnh B3 nói chung là suốt cả đêm đi thăm hỏi nhau, nhưng tôi
chỉ ngồi ru rú ở nhà, thậm chí việc làm
thịt gà nấu nướng cũng là do Ngô Xuân Tường, Nguyễn Hữu Nền làm
cả. Còn Lương Biên, Hoan, Tám thì sau khi uống rượu tối 30 ở Ban về còn đang
nằm say bí tỉ. Giữa lúc giao thừa, anh Trần Quý Giang, Nguyễn Hữu Nền, Ngô Xuân
Tường và tôi đang chúc tụng lẫn nhau thì đoàn Văn nghệ xung kích đến chúc tết.
Gồm cô Minh Tỵ, Nguyễn Hộ… Tôi có tỏ lời
cảm ơn Đoàn đã giúp tôi đi viện trong
cái đợt sốt rét ác tính vừa qua. Sau tết tôi vẫn ở nhà với anh Giang. Anh Giang
thì mải mê viết bài “Loại khỏi vòng chiến đấu chiến đoàn 22 ngụy“ mà anh mới
tài liệu ở trận đánh Pubrăng- Đức Lập. Tôi vẫn phải tập tễnh sang ban tác chiến
Phòng tham mưu lấy tin, viết tin. Khoảng nửa tháng sau thì tôi khỏi chân, lại
được lệnh đi làm rẫy. Cái rẫy 2 ha bên sông Tà Dạt mà tôi đã phát le trước đây, nay đã chặt đến
cây to. Ở đây chỉ có tôi, Tuấn, Bản phát. Ba anh em chặt đổ hết cây to này đến
cây to khác. Từ đó tôi mới biết cầm dìu chặt cây to. Chặt cây to có cái sướng
là lúc nó gần đổ dùng dìu chặt mấy nhát
phía sau gọi là “tra gáy“ cây to đổ đè cành
lá lên các cây nhỏ phía trước (cây nhỏ cũng đã chặt được từ ½ đến 1/3 thân cây).
Thế là cả một dàn cây đổ theo dây chuyền, tiếng ầm ầm vang động cả một góc rừng.
Lúc đầu thì cũng hơi chờn, nhưng sau thì quen, vì chặt cây to mà cứ đứng ở phía
sau cây thì không bao giờ việc gì cả. Lúc
đó vẫn ở thời kỳ ăn một lạng gạo một ngày. Một lạng gạo lại nấu làm ba bữa nên nồi cơm trông không thấy gạo đâu chỉ toàn
thấy sắn. Thức ăn cũng chỉ có chút mắm kem muối vừng. Đọ này săn bắn cũng ít.
Chỉ có Hiều vệ binh săn được một con cáo. Một con cáo mà cả phòng
gồm hơn 20 người ăn.
Tết năm 1971 Tân Hợi cũng là cái tết vui.
Giữa giao thừa, thủ trưởng Trần Hà, chủ nhiệm chính trị B3 đến chúc tết tổ Thông tấn quân đội chúng tôi.
Tôi uống đến gần ba bát rượu, đến mức thủ trưởng Hà cũng phải khen là uống giỏi
quá. Ăn tết xong tôi ở nhà viết tin, vì lúc đó đang chuẩn bị chiến dịch Ngọc Tô
Ba. Đáng lẽ anh Giang đi chiến dịch này nhưng trên đường đi thì quay về vì Bộ
tư lệnh có chủ trương mới. Anh Giang về nhưng tôi vẫn nhắc viết tin vì cứ dịp chiến dịch thì phải cả hai người ở nhà mới bảo đảm đưa
được tin kịp thời.
Tháng 3 năm 1971 B52 đánh sát khu vực rẫy. Ban Tuyên huấn phải
rút về họp rồi lại vào sản xuất bám rẫy. Vì phòng chủ trương hoàn cảnh nào cũng
phải bám rẫy tự túc lương thực. B52 đánh vào khu vực phân đội chiếu bóng, có
đồng chí đã hy sinh. Tôi đến khu vực Tà Dạt vừa biết tin B52 vừa đánh khu vực rẫy trùm cả vào chỗ ở của phòng. Ngô Xuân Tường
treo võng nằm vừa kịp xuống hầm thì bom
nổ mảnh cắt đứt cả dây võng. Có một sự kiện mà tôi không bao giờ quên được. Đó
là một buổi sáng chúng tôi đang làm cỏ sắn rẫy 10 ha. Trời về mùa khô trong
xanh, im lặng gió, không khí mát dịu, phia xa xa rạng đỏ ánh hồng. Tôi vừa nói
với anh Ngãi là: “Trời hôm nay đẹp quá anh Ngãi à” thì 3 loạt bom B52 nổ phía xa xa, cách chỗ
chúng tôi khoảng vài giờ đi bộ. Dứt tiếng bom, thì Bản ra báo một tin buồn
là bom đánh vào rẫy nhà in, làm cho 4 đồng chí hy sinh, một đồng chí bị
thương. Thế là Ban Tuyên huấn phân công
tôi, Mai Văn Kế và Nguyễn Hữu Tặng
về cùng phòng giải quyết hậu quả
chôn cất 4 đồng chí nhà in. Đó là đồng chí Du mà tôi đã quen từ cuối năm 1968. Khui đi cùng
Nền ở rẫy về.
Tết Quý Sửu 1973, báo năm đó làm theo khả
năng hòa bình. Tôi vẫn làm câu đối như những năm trước. Nhưng lần này làm câu
đố nói về con trâu:
Quý trẻ em/ Thèm rau cỏ? Đàn dẫu có/
Chẳng muốn nghe/ Hỏi sợ gì?/ Cô mười bẩy.
Tết Quý Sửu ăn cũng to, nhưng cả cơ quan báo
không có lấy một con gà nào, các thức ăn đều dựa vào nhà bếp của phòng. Nhưng
phải nói là rất nhiều kẹo. Ăn kẹo lạc, kẹo sữa suốt mấy ngày Têt. Tết này vui
vì là Tết đầu tiên hòa bình ở chiến trường. Gọi là hòa bình nhưng anbh em bộ
đội ở phía trước, Tết này là Tết giữ chốt, chiến đấu còn ác liệt. Ở hậu cứ như
chúng tôi thì mới được yên ổn mà ăn tết như thế này...
Kết thúc đoạn trích hồi ký này tôi xin
trình làng một bài thơ:
MỘNG CHIẾN
TRƯỜNG
Đã hay đâu cũng say tiền
tuyến?
Mà vẫn
bâng khuâng mộng chiến trường”_
(Thơ Tố Hữu)
Có
phải anh đang mộng chiến trường
Bao
chục năm rồi vẫn vấn vương
Nhớ
đêm gùi gạo ven đồn địch
Trảng
trống rừng thưa vai cáng thương
Có
phải miếng ngon mà nhớ lâu
Gian
khổ rèn cho ý chí cao
Hành
quân chiếc cúc còn e nặng
Đi
bằng chân lại nói bằng đầu
Nhớ
chiến trường xưa nhớ những ngày
Cơm
độn sắn canh rau tầu bay
Ở
rừng đâu có mơ giường chiếu
Nằm
hầm nằm võng mắc lên cây
Ai
hỏi vì sao hỏi tại sao
Đường
ra mặt trận lắm gian lao
Vì
miền Nam
niềm vui toàn thắng
Mộng
chiến trường xưa mãi tự hào.
Lê Văn Hy
Phóng viên TTX
quân đội tại Mặt trận B3 Tây Nguyên.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét