Nhà
nghiên cứu người Pháp Léopold Sabatier (1877-1936), người
chuyển ngữ ‘Trường ca Đăm săn’ (phiên âm KLei khan Y Đăm Săn) của dân tộc
Ê Đê sang tiếng Pháp năm 1929 không nghĩ rằng rất lâu sau bước chân ông
có những học giả Việt nam cũng làm công việc tương tự.
Tôi muốn nhắc đến tên tuổi Léopold
Sabatier vì việc thiếu may mắn hay lệch lạc trong học hành, dạy dỗ
đôi khi lèo lái chúng ta đến bến bờ khinh bạc, xem thường những dân tộc
không phải như mình. Chúng ta vô tình hay quên những công lao của những
người đã đổi tuổi trẻ của họ để giữ lại những vốn liếng văn hóa
quý giá của các dân tộc sống dưới mái nhà chung các dân tộc Việt
nam?
Chúng ta đã vui mừng nông nổi quá
chăng khi một cái gì đó được UNESCO công nhận là những giá trị vi vật
thể, những giá trị văn hóa. Có nên hiểu đó là vì những báu vật văn
hóa ấy đang mai một, mất dần và mai sau sẽ chẳng còn ai biết rằng những
điều quý giá đó đã từng tồn tại?
Vẻ đẹp bước ra từ Trường ca Đăm San
Mới đây thôi, có người còn miệt thị
một đứa con của dân tộc ấy vì cô tự hào với chiếc vương miện của
cuộc thi sắc đẹp. Một việc làm thô
thiển và đáng trách. Song nỗi buồn đó như được khỏa lấp với thành
công vượt trội của ‘Đêm vô thức bản địa’ của đạo diễn âm nhạc Nguyễn
Nhất Lý mà tôi đã có dịp giới thiệu gần đây.
Tại sao một ‘kẻ thực dân’ như Léopold
Sabatier trong con mắt dung tục, hời hợt của những điều dạy dỗ sai lệch,
của sự ấu trĩ lại bỏ 15 năm sống một mình với cộng đồng 150.000 người
dân tộc, chỉ bảo họ, cùng họ xây đắp 600 km đường, trường học, bệnh
xá? Những tư liệu này tôi tìm thấy trong những thư viện ở Paris, mà sao không phải
ở Việt Nam? Ông đã cặm cụi chuyển
ngữ từ tiếng Rhade sang tiếng La Tinh một sử thi mà ngày nay chúng ta
được cầm trên tay. Một cuốn sách
mà người Pháp từ năm 1929 đã được đọc.
Nếu không có truyền thuyết ‘Sơn tinh,
Thủy Tinh’, ‘Bánh chưng, bánh dầy’ ‘Đăm Săn’, sau đó ‘Đẻ đất, đẻ nước’
và gần đay nhất ‘Sống chụ son san’ (Tiễn dặn người yêu), gia tài văn hóa
Việt Nam có côi cút lắm không? Chắc chắn.
Và hôm nay, tôi muốn đề cập tới một
tác phẩm vừa được thêm vào trong kho tàng văn hóa dân tộc bản địa, để
nhắc nhở rằng, sự miệt thị những di sản nghệ thuật ấy thật đáng
trách biết bao.
Đến Sống chụ son sao’
Tôi
gặp nhà văn Nguyễn Khôi tại Hà Nội.
Bài thơ "Về Hà Nội" của ông sáng tác năm
2005 nhân dịp kỷ niệm1000 năm Thăng Long nhận giải thưởng Hội
Liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội, bộ sử "Cổ Pháp Cố Sự" đoạt giải thưởng Văn học nghệ thuật Thủ đô 2008.
Gần đây ông cho ra mắt tác phẩm ‘Chân dung 99 nhà văn Việt
Nam đương đại’. Nhận định và đánh
giá một số lượng đến chóng mặt (99 nhân vật), những cá nhân làng văn
theo đúng lời nói ông, là mến mộ, tạc chân dung những người tài,
thành danh. Kể từ những soái ca của
thi đàn như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Sóng Hồng, Lê Đức Thọ… đến những nhà thơ mới chạm ngõ làng văn như
Phạm Lưu Vũ.
Nghĩa cử can đảm, khó khăn khi phải
cô đọng mỗi người trong bốn khổ thơ cả văn tài và dấu ấn của các
khuôn mặt góp sức dựng lên hình hài văn học Việt nam đương đại.
Khi
ông tặng tôi ‘Sống chụ son sao’, tôi đã cầm nó hờ hững. Cảm giác đối nghịch, xấu hổ thế chỗ
cho điều này sau khi đọc hết cuốn sách.
Xấu hổ về nhận thức mông muội, mang chất thực dân khi đánh giá
các sắc dân khác. Điều day dứt ấy
bắt tôi phải đi đến những bản dân tộc miền núi phía Bắc, gặp gỡ người
dân và ngắm những phong cảnh núi rừng bằng một cảm nhận hoàn toàn mới,
như thu nhận sự rộng lượng của đất trời mà chiếu sáng cho những góc
còn tăm tối trong suy nghĩ. Tôi còn
quay lại gặp nhà văn Nguyễn Khôi thêm một lần nữa, trao đổi với ông để
đoạn tuyệt với những ấu trĩ cá nhân.
Từ
những vần thơ trong ‘Sống chụ son sao’, tôi cảm động như bắt gặp
một giọt mưa dung dị, theo cánh mây mầu cánh bạc rơi xuống lòng bàn
tay. Giọt nước phôi thai cả
ngàn năm trước, hoặc xa xưa hơn nữa đã một lần chạm xuống trái đất này, thấm
qua những tầng đất, róc rách theo dòng suối
nhỏ, nhập vào đại dương cuộn sóng, hẹn hò với những cơn dông vần vũ, rồi
chợt nhớ đến mảnh đất đầu tiên đã đáp xuống mà lần tìm về. Và hôm nay, tôi may
mắn thấy giọt nước ấy, long lanh trong bàn tay mình, bồi hồi lật từng
trang thơ cổ, được ví như 'Truyện Kiều' của dân tộc Thái.
Những
vần thơ không giấy giáng sinh, những vần thơ người nghệ sĩ viết lên không để lại một chữ ký. Và cả ký tự lưu giữ cuộc đời, lưu giữ khắc
khoải, đau đớn viết về thân phận, về ngang trái ấy có bao nhiêu năm tuổi ?
Tôi không biết. Tôi chỉ đọc được những vần thơ cổ như lịch sử của mảnh đất Việt từ một bản dịch. May thay, còn những người tìm lại hình hài của một văn hoá thể hiện qua ngữ nghĩa, hình hài một dân tộc ghi nhận thăng trầm, thơ ca của họ qua chữ viết. Không nhiều dân tộc, đất nước có may mắn như vậy. Nếu không, việc biết đến những câu chuyện thần thoại, những vần thơ chỉ tồn tại từ thế hệ này qua thế hệ khác qua văn học truyền miệng. Và ai khẳng định vốn liếng đó không bị méo xệch đi?
Tôi không biết. Tôi chỉ đọc được những vần thơ cổ như lịch sử của mảnh đất Việt từ một bản dịch. May thay, còn những người tìm lại hình hài của một văn hoá thể hiện qua ngữ nghĩa, hình hài một dân tộc ghi nhận thăng trầm, thơ ca của họ qua chữ viết. Không nhiều dân tộc, đất nước có may mắn như vậy. Nếu không, việc biết đến những câu chuyện thần thoại, những vần thơ chỉ tồn tại từ thế hệ này qua thế hệ khác qua văn học truyền miệng. Và ai khẳng định vốn liếng đó không bị méo xệch đi?
Bây
giờ tồn tại một dị bản, Thánh Gióng thắng giặc xong, đi tắm ở Hồ Tây đấy sao?
Người
mắc nợ lịch sử
Người dịch thơ đôi khi như người mắc nợ cái nghiệp của lịch sử. Làm thơ, ừ thì chỉ phải nhận câu khen, câu trách. Dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác chữ khen chưa thấy đâu, đã ám cái bóng của kẻ giết người, tội đồ tan hoang gia tài mang nặng đẻ đau của nhà văn, nhà thơ đi trước. Dịch hỏng, chuốc hoạ vào thân, nhận gạch đá tanh lòng, đắng mật.
Thơ mà dịch là mắc nợ bậc tiền bối, kẻ đương thời. Hiểu cái ý của người xưa, đong đầy câu chữ mà xao xuyến lòng người nay. Bước từ thời con người chỉ lấy trăng làm bạn bắc cầu qua thời đương đại, con người khắc khoải nhìn vào không gian xanh thẳm, băn khoăn ‘không lẽ chỉ trái đất này sự sống là độc nhất’.
Nhọc nhằn, gian truân ấy, dễ ai tỏ mà sẻ chia ???
Kiếp
hoa rơi vương mầu ca dao
Hiếm có một
trường ca nào có cái tên ‘ngộ nghĩnh’ như vậy.
Nói
là trường ca vì ‘Sống chụ son sao’ gồm tới 1840 câu thơ. Cái tên cũng gây tò mò ‘Tiễn dặn người
yêu’.
Yêu
là yêu, là trái tim xẻ nửa, là nền dân chủ thánh thiện, nhường nhịn,
đam mê. Tình yêu là phiêu lưu, chiếm
đoạt, nhà đề biển ‘Có chó dữ’ cũng mặc.
Tình
yêu ấy ở đây đẹp, tinh tế, hình tượng như trong không gian ba chiều, cuộn
xoắn, quấn quýt khát vọng ngày trầu cau. Viên ngọc ấy, ai đã được nâng
niu?
Dây
trầu leo cuốn hồn yêu.
Ai
lại tiễn dặn người yêu đi lấy chồng?
Nhường đam mê, nhường một nửa của mình cho tình địch mà còn
tỉnh, căn với dặn? Hay đó là cao thượng
giả dối, biết thân, biết phận? Hay
sự lên gân dối trá được viết thành lời?
Không
phải! Đằng sau những câu chữ ấy là một nền văn hóa mộc mạc, sơ khai,
không bị Hán hóa, Kinh hóa, tha hóa… Vẫn nguyên sơ, kỳ ảo như Loa
thành An Dương Vương và nàng Mỵ Châu thẫn thờ chờ Trọng Thủy. Ừ mà những câu thơ này chắc cũng được
viết cùng thời đó, thời vương quốc Mân Việt hoang tàn, Thục Phán xuôi
gềnh sông Đà, có Long Môn, nước sâu ‘trăm tầm’, cá chép vượt lên hóa
thành rồng. Mảnh đất nhờ núi sông che chắn mới tồn giữ được
nền thanh bình trầm tĩnh đi qua thời gian, với ngọn gió khô sảng
khoái không làm mục nát những trang chữ, để bây giờ dưới ánh mặt trời
uể oải mà sinh trở lại trong những âm vực khác.
Dịch
giả Nguyễn Khôi là người mắc nợ ấy.
Nợ
21 năm trai trẻ xứ Thái, nợ cái chữ, vần thơ mà ít ra ba lần các bậc
lắm chữ, bén duyên càng lần càng thấy tơ vò, chưa đi hết chiều sâu
con chữ ngàn xưa để lại. Xuyên từ
bản dịch đầu tiên ‘Sống chụ son sao’ với Điêu Chính Ngâu (1914-1958), ra
mắt năm 1957, một năm trước khi ông mất.
Bản thứ hai của nhà văn Mạc Phi (1928-1996) ra mắt 1960, chỉ ba
năm sau bản dịch lần đầu của nhà thơ Thái Điêu Chính Ngâu. Bản này bổ sung thêm 242 câu thơ, so sánh
và chỉnh lý từ các văn bản sưu tầm trong các năm 1957, 1958, và năm bản
chép tay khác tìm thấy được ở Thuận Châu, Mai Sơn, Mường La.
Nguyễn
Khôi đã chuyển thể khác góc chuyển ngữ của hai tác giả trước, mà
xuôi theo dòng dân ca, như cái chất quan họ trong ông, để cái hồn, cái
chất mộc mạc xứ Thái vào dòng chảy dân ca đất Kinh Bắc, đất Thăng
Long, đất Việt.
Phảng
phất đâu đây một nàng Kiều của Nguyễn Du.
Cũng
'những điều trông thấy mà đau đớn lòng’ phận bạc kiếp hoa rơi người thiếu
nữ sinh ra không phải ngày:
Cúng gà người cũng chẳng xem
Cúng voi người ngoảnh mặt xem gọi là
Những thứ ấy sao mà em có
Phận nghèo hèn khốn khó kiếm đâu
Người xui chồng nện thật đau
Gậy phang chập tối, đêm thâu sáng mờ
Chồng đánh em như vồ nện bịch
Như Tạo Mường vui thích đánh chuông
Đuổi em, dao quẳng xuống sàn
Guồng tơ khung cửi đạp tan ... đuổi về
Người con gái về làm dâu bàng hoàng khi thấy lưỡi dao oan nghiệt ném trước mặt như một lời đe dọa sinh tử của kẻ thất phu. Phận bẽ bàng như khung cửi hàng ngày cúi mặt, nuốt tủi cực vào câm nín, mong yên bề trong tan hoang, kiếp rạc, thân đợ nhà người.
Rời nhà này, về làm dâu nhà khác, cũng vẫn chỉ ‘phận mỏng cánh chuồn’
"Về chồng mới em buồn, cáu gắt
"Phơi thóc thì mắng cót chửi sân
"Hạch chồng giữa chốn làm quan
"Vào nhà cười bác, ra sàn khích anh
"Nói xấu mẹ, đành hanh với bố
"Vào bếp chân đá đổ chậu nồi
"Dỡ xôi làm vỡ mâm xôi
Khách vào, mặc áo để lòi vú ra
Vú quả mướp vòng ba vòng bảy
Ngủ đệm chê... rận chấy như sung
Tỉnh ra lại mắng nhiếc chồng
Tóc em chải ngược, ghế lồng lật ngang
Cha mẹ than :mua nàng dâu dữ
Nhà chẳng yên, xấu hổ, cơm toi
Bạc mười ta trả đủ rồi
Thôi tống ra chợ lấy mươi ba đồng
Đổi gạo chẳng ai màng đến đổi
Đổi muối chẳng ai tới đổi cho
Nghìn lần, chín chợ vòng vo
Lá dong một cuộn đổi cho xong đời...
Con đường nghệ thuật làm dâu trầy trật trong uất ức, tủi nhục. Cô gái Thái mong ngày cưới để được búi tóc lên đỉnh đầu như vệt son đỏ của cô gái Ấn bên dòng sông Hằng, cái hãnh diện yên bề gia thất, lại bị nhà trai coi như cái ‘chải ngược’, bất cần đời. Cái giá nhà trai mua cô con dâu từ 10 đồng bạc trắng ngày đầu thoắt cái đem ra chợ bán không được nắm gạo, nhúm muối. Thân gái dặm trường chỉ còn mỏng tang như những chiếc lá dong cắt bìa rừng gói tròn một bó.
Cái 'duyên mơ' bồng bềnh tình đầu úa tàn trong xa xôi, chợt thức với nghịch cảnh. Người tình thất thế không lấy được vì cái nghèo không đồ sính lễ ngày nào thành kẻ đứng ra mua, đứng ra chuộc 'phận lá dong' gói những đau buồn, nhức nhối. Cay đắng hơn, thoắt sau thời để yêu, thời để say, thời lấy tiếng khèn bên suối, đầu nương trấn yểm khao khát gặp gỡ thì nay gặp lại cũng chẳng còn nhận ra mặt. Chỉ còn biết gửi lòng vào vô định, gửi hy vọng vào một hẹn hò kiếp sau.
Cúng gà người cũng chẳng xem
Cúng voi người ngoảnh mặt xem gọi là
Những thứ ấy sao mà em có
Phận nghèo hèn khốn khó kiếm đâu
Người xui chồng nện thật đau
Gậy phang chập tối, đêm thâu sáng mờ
Chồng đánh em như vồ nện bịch
Như Tạo Mường vui thích đánh chuông
Đuổi em, dao quẳng xuống sàn
Guồng tơ khung cửi đạp tan ... đuổi về
Người con gái về làm dâu bàng hoàng khi thấy lưỡi dao oan nghiệt ném trước mặt như một lời đe dọa sinh tử của kẻ thất phu. Phận bẽ bàng như khung cửi hàng ngày cúi mặt, nuốt tủi cực vào câm nín, mong yên bề trong tan hoang, kiếp rạc, thân đợ nhà người.
Rời nhà này, về làm dâu nhà khác, cũng vẫn chỉ ‘phận mỏng cánh chuồn’
"Về chồng mới em buồn, cáu gắt
"Phơi thóc thì mắng cót chửi sân
"Hạch chồng giữa chốn làm quan
"Vào nhà cười bác, ra sàn khích anh
"Nói xấu mẹ, đành hanh với bố
"Vào bếp chân đá đổ chậu nồi
"Dỡ xôi làm vỡ mâm xôi
Khách vào, mặc áo để lòi vú ra
Vú quả mướp vòng ba vòng bảy
Ngủ đệm chê... rận chấy như sung
Tỉnh ra lại mắng nhiếc chồng
Tóc em chải ngược, ghế lồng lật ngang
Cha mẹ than :mua nàng dâu dữ
Nhà chẳng yên, xấu hổ, cơm toi
Bạc mười ta trả đủ rồi
Thôi tống ra chợ lấy mươi ba đồng
Đổi gạo chẳng ai màng đến đổi
Đổi muối chẳng ai tới đổi cho
Nghìn lần, chín chợ vòng vo
Lá dong một cuộn đổi cho xong đời...
Con đường nghệ thuật làm dâu trầy trật trong uất ức, tủi nhục. Cô gái Thái mong ngày cưới để được búi tóc lên đỉnh đầu như vệt son đỏ của cô gái Ấn bên dòng sông Hằng, cái hãnh diện yên bề gia thất, lại bị nhà trai coi như cái ‘chải ngược’, bất cần đời. Cái giá nhà trai mua cô con dâu từ 10 đồng bạc trắng ngày đầu thoắt cái đem ra chợ bán không được nắm gạo, nhúm muối. Thân gái dặm trường chỉ còn mỏng tang như những chiếc lá dong cắt bìa rừng gói tròn một bó.
Cái 'duyên mơ' bồng bềnh tình đầu úa tàn trong xa xôi, chợt thức với nghịch cảnh. Người tình thất thế không lấy được vì cái nghèo không đồ sính lễ ngày nào thành kẻ đứng ra mua, đứng ra chuộc 'phận lá dong' gói những đau buồn, nhức nhối. Cay đắng hơn, thoắt sau thời để yêu, thời để say, thời lấy tiếng khèn bên suối, đầu nương trấn yểm khao khát gặp gỡ thì nay gặp lại cũng chẳng còn nhận ra mặt. Chỉ còn biết gửi lòng vào vô định, gửi hy vọng vào một hẹn hò kiếp sau.
Dù thành vợ người ta, cứ xẻ lòng chờ, em ạ
!
Mùa hoa bưởi ngắt hoa bưởi ngồi mong
Mùa hoa vông ngắt hoa vông ngồi đợi
Mùa hoa mạ, ngắt hoa mạ ngồi chờ
Hoa sắp héo, sương mai em nhúng
Hoa sắp tang, nước rượu em ngâm
Hoa gói khăn đào 20 năm không phai
19 đời Tạo quan vẫn thắm
Mùa hoa bưởi ngắt hoa bưởi ngồi mong
Mùa hoa vông ngắt hoa vông ngồi đợi
Mùa hoa mạ, ngắt hoa mạ ngồi chờ
Hoa sắp héo, sương mai em nhúng
Hoa sắp tang, nước rượu em ngâm
Hoa gói khăn đào 20 năm không phai
19 đời Tạo quan vẫn thắm
Những
câu chữ ấy tìm ở đâu, trong bể sóng văn học các nhánh dân tộc khác?
Cô gái ấy đáp gì với những dòng nhắn nhủ người tình, lúc kiếp đời
chung tách bến?
Đôi ta yêu nhau, anh gửi chiếc đàn môi đồng
Còn thương anh, đàn môi đồng nhớ mãi
Duyên mai sau, đàn môi đây, hãy lấy nhận người
Cất kỹ trong lòng, em ơi, đừng nhầm lẫn nhận sai !
Con khóc giơ đàn môi dỗ nín
‘Sống chụ son sao’ như đi vào một cuộc vong thân ngậm ngùi, có hàng nghìn giọt nước mắt, con đường đi tìm một hạnh phúc không thật. Song phải chăng, chính cái hư thực ấy là giá trị thực của tác phẩm.
Ngày về Trời theo cánh ngựa bay
Lời thương em nhớ đừng phai
Hồn thương đừng có đổi thay cõi trời
Như hóa phép vàng tươi cánh bướm
Qua hè về đông đến cưới nhau
Còn thương anh, đàn môi đồng nhớ mãi
Duyên mai sau, đàn môi đây, hãy lấy nhận người
Cất kỹ trong lòng, em ơi, đừng nhầm lẫn nhận sai !
Con khóc giơ đàn môi dỗ nín
‘Sống chụ son sao’ như đi vào một cuộc vong thân ngậm ngùi, có hàng nghìn giọt nước mắt, con đường đi tìm một hạnh phúc không thật. Song phải chăng, chính cái hư thực ấy là giá trị thực của tác phẩm.
Ngày về Trời theo cánh ngựa bay
Lời thương em nhớ đừng phai
Hồn thương đừng có đổi thay cõi trời
Như hóa phép vàng tươi cánh bướm
Qua hè về đông đến cưới nhau
Lên cao nguyên Mộc Châu, tôi gặp
nhiều nụ cười của những cô gái Thái.
Ai
cũng biết ‘Sống chụ son sao’.
Phải
chăng những câu thơ ấy có thể chữa lành và an ủi nỗi đau tâm hồn từ
thế hệ này, qua thế hệ khác?
Cám
ơn nhà văn Nguyễn Khôi và công sức của ông đã bỏ ra để chúng ta có một
tác phẩm cho ngày hôm nay.
Phạm
Cao Phong
Nhà báo tự do ở Paris (Pháp)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét