Chủ Nhật, 21 tháng 1, 2018

Sách mới: VANG VỌNG TRƯỜNG SƠN



        Trang chủ nhận được sách tặng của nhà thơ Vương Văn kiểm tác phẩm:

        1- Vang vọng Trường Sơn / Nhiều tác giả. – H.: Nxb. Hội Nhà văn, 2017. – 271 tr. : Nhiều ảnh minh họa ; 21 cm. – Trên đầu trang tên sách ghi: Văn học Nghệ thuật Trường Sơn tỉnh Nam Định.

        Tác phẩm tập hợp một số thơ văn viết về Trường Sơn trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của gần bốn chục cây bút Nam Định như Phạm Trọng Thanh, Vương Văn Kiểm, Bùi Bình Thanh, Trần Văn Lợi, Nguyễn Danh Khôi, Trần Thị Nhật Tân…

        Trân trọng trích giới thiệu một số tác phẩm tác giả trong tập sách:


                   LỜI NÓI ĐẦU

 Trong vòng 5 năm (2013 – 2017), các cuộc thi sáng tác văn, thơ... do Hội Truyền thống Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh Việt Nam phát động đã nhận được sự hưởng ứng của đông đảo các cây bút cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong toàn quốc. Hoạt động văn học nghệ thuật của Trung ương Hội đáp ứng được tâm tư nguyện vọng của những người từng có “một thời để nhớ” ở Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây; với cả những người qua Trường Sơn trên con đường huyền thoại Hồ Chí Minh lịch sử... khi Trường Sơn còn tươi ròng trong ký ức, khi Trường Sơn đã hóa những tâm hồn (1).
Các bút ký, truyện ngắn, bài thơ, tập thơ, trường ca...viết về Trường Sơn – dải trường thành hùng vĩ qua các cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại của những người trong cuộc, với lối viết chân thực, góp phần phản ánh vẻ đẹp lý tưởng cùng tình cảm cao đẹp của lớp lớp thanh niên thời đại Hồ Chí Minh, lớp người đã cống hiến cả tuổi thanh xuân và sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, không lùi bước trước bất kỳ khó khăn gian khổ nào.Vẻ đẹp nhân văn ấy được biểu lộ trong tình đồng đội thiêng liêng, tình nghĩa tiền tuyến hậu phương thủy chung thắm thiết, tình cảm trong sáng của anh bộ đội cụ Hồ với bộ đội và nhân dân các nước anh em trong khối đoàn kết chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia thế kỷ vừa qua.
Hưởng ứng cuộc thi sáng tác văn học Ký ức Trường Sơn năm 2013 – 2014 do Trung ương Hội tổ chức, Hội Truyền thống
Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh tỉnh Nam Định vinh dự được nhận giải Nhất tập thể với thành tích hưởng ứng cuộc thi khá bài
bản. Hội đã gửi thông báo mời dự thi đến các chi hội cơ sở trong toàn tỉnh, có cả Hội Văn học nghệ thuật Nam Định cùng tham gia phát động. Các “sĩ tử tỉnh Nam” gồm các cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh, hội viên các Câu lạc bộ Thơ...gửi bài qua Ban tổ chức của Hội Truyền thống Trường Sơn Nam Định tập kết, chuyển lên Trung ương Hội dự thi.
Kết quả, cùng với giải Nhất tập thể, Nam Định còn có các giải cá nhân, đó là Giải Nhất với chùm thơ 3 bài của Phạm Trọng Thanh: Cây bồ kết bên đường, Bên kia đỉnh dốc, Cảm nhận từ Đức Cơ; giải Nhì về văn: truyện ngắn Tập kỷ yếu dang dở của Nguyễn Văn Bổng; giải Khuyến khích: truyện ngắn Giám đốc lò của 2 đồng tác giả Nguyễn Đức Hòe, Trần Phong Nhã. Ngoài ra được chọn vào vòng chung khảo còn có  7 tác giả Nam Định với các tác phẩm:  Kỷ vật Trường Sơn của Nguyễn Văn Bổng; Cô gái mở đường Trường Sơn Tây của Nguyễn Đức Tài; Thời gian xanh, Vòng tay xoa dịu của Trần Thị Bích Liên; Chị tôi của Trần Trọng Nghiêm; Trường Sơn ngày ấy của Trần Hồng Hải, Chị tôi của Nguyễn Thị Lúng; Cô gái chống lầy của Nguyễn Thanh Hải.
      Năm 2015-2016, cuộc thi Lục bát Trường Sơn do Hội Văn học Nghệ thuật Trường Sơn tổ chức, các tác giả Nam Định dự thi đạt 4 giải thưởng: Giải Ba bài thơ Đời mẹ của Vương Văn Kiểm; 2 giải Khuyến khích được trao cho các tác phẩm: Ký ức Trường Sơn của Nguyễn Ngọc Hoài, Vào hội Trường Sơn của Hoàng Kiền. Nhiều tác phẩm cả các tác giả cũng được chọn vào chung khảo và được in vào sách của Hội Trường Sơn Việt Nam: Cánh võng Trường Sơn, Màn đêm và ngọn lửa của Vương Văn Kiểm; Chợ Viềng, Bản Đông, Mưa của Lê Lợi; Chuyện cô tôi của Ngô Xuân Thanh; Một nét bình yên của Nguyễn Ngọc Hoài; Vào thơ của Hoàng Kiền; Anh ở đâu của Trần Thị Nhật Tân; Đợi của Trần Văn Giai; Hành trang ra trận của Vũ Quách Thịnh, Anh nghe em hát chầu văn của Nguyễn Đình Thảo.
Trong bài viết “Văn học Nghệ thuật Trường Sơn thuở ấy... bây giờ” mở đầu tập tuyển tập Trường Sơn thuở ấy...bây giờ  (2), đại tá, nhà thơ Nguyễn Hữu Quý, Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật Trường Sơn khẳng định:
Qua các cuộc thi này, Hội truyền thống Trường Sơn đã phát  hiện ra những tác giả mới (hội viên của Hội) như Phạm Đăng Kiểm, Nguyễn Thanh Liêm, Lê Thúy Bắc, Phạm Cao Phong, Tạ Bá Hận, Vương Văn Kiểm, Trần Công Sản, Nguyền Tất Đình Vân, Phạm Thị Nhung, Đặng Thanh Nghị, Vũ Minh Vỹ, Chu Công Đậu, Đinh Thanh Niên, Lê Lợi, Lê Đình Tâm, Đậu Trung Thành, Nguyễn Văn Khải, Hoàng Kiền, Phạm Thành Long, Trần Văn Phúc, Nguyễn Thị Thu, Lê Đức Triều, Lê Trung Khiên, Sỹ Nhiếp, Nguyễn Đức Bình, Hoàng Đình Thi, Hồ Văn Chi, Nguyễn Ngọc Hoài... (Thơ)”...
Từ những kết quả bước đầu qua các cuộc thi sáng tác, qua nhận định được lưu ý như trên, chúng tôi, những Hội viên Văn học Nghệ thuật Trường Sơn ở Nam Định cùng chung ý tưởng: tập hợp những tác phẩm đã được khẳng định cuốn sách Vang vọng Trường Sơn với ý thức góp phần vào việc ghi nhận những kết quả bước đầu của các tác giả cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong từ những trang viết chân thực còn nguyên vẹn trong ký ức những ngày ra trận, hoàn thành nhiệm vụ, từ Trường Sơn trở về. 
 Chúng tôi kỳ vọng qua ấn phẩm đầu tay này, Văn học Nghệ thuật Trường Sơn tỉnh Nam Định có thêm những hội viên mới, chung tay góp sức làm phong phú thêm những hoạt động hữu ích của Hội, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ mới trên quê hương Nam Định thân yêu.
Do khuôn khổ tập sách với số trang in có hạn, các tác phẩm của các tác giả đã gửi, xin được giới thiệu trong các tập sách kế tiếp.
Những người thực hiện tập sách trân trọng cảm ơn Hội Văn học Nghệ thuật Trường Sơn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Nam Định, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã động viên, giúp đỡ chúng tôi ấn hành tập sách này nhân kỷ niệm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam và chào mừng Đại hội lần thứ II của Hội Truyền thống Trường Sơn đường Hồ Chí Minh - tỉnh Nam Định.
         Xin cảm ơn các tác giả và các nhà tài trợ động viên vật chất và tinh thần Vang vọng Trường Sơn được thực hiện trong thời gian rất ngắn, lại được thực hiện bởi những người không chuyên và được in lần đầu nên không tránh khỏi các thiếu sót. Rất mong bạn đọc gần xa cùng đồng chí, đồng nghiệp góp ý để những tập sách sau được hoàn thiện hơn.
----                                                                       
(1) Mượn ý thơ Chế Lan Viên trong bài thơ Tiếng hát con tàu: “Khi ta ở chỉ là nơi đất ở/ Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn”...
(2) Nhà xuất bản Thanh Niên – Hà Nội

 
Nhà thơ Phạm Trọng Thanh
  
Vị tướng và những khoảng cách

Kính tặng Thiếu tướng Hoàng Kiền
    Anh hùng LLVT ND Việt Nam
                           

1. BIỂN ĐẢO MUÔN TRÙNG

Mười năm Trường Sa
mấy nghìn cây số
biển đảo đội đầu trời sao Tổ quốc
đêm thông luồng Hồ Lớn
những chiến sĩ Trung đoàn Tám Ba
kề vai nhau hò reo và hát                                                 
Đô đốc Hải quân bước xuống cầu tàu
choàng ôm người chỉ huy từng trải                     
giọng ông nghẹn ngào                                                        
mừng rơi nước mắt
 trời đen kịt
cơn lốc biển ù ù tập kích
mù mịt sóng gầm                                                                           sóng đổ
bão tràn qua.

Những người lính Công binh gan dạ
kiến tạo những công trình chưa có trong sách sử
tựa vào ngực biển -  đua với sóng triều
trên thềm san hô khởi thủy

nơi sắt thép làm mồi cho nước mặn
bàn tay sần chai máu ứa
thắt ruột chờ nước ngọt nhớ rau xanh...

Những cội phong ba điềm nhiên tỏa bóng
thuở Đội Hùng binh Kiêm quản lên đường         
Hoàng Sa - Trường Sa vút tầm đất nước                           
biển từ chối những gì nông nổi
những gì ở thì ăn xổi
Trăm nghìn lần không-bao-giờ-chấp-nhận
những mưu mô Ngụy-tạo-bá-quyền
Biển chờ đợi tầm cao Chủ-quyền-sáng-tạo
bắt đầu từ những lo toan
Mười năm băng qua sóng cả
thuộc trời sao quen ngọn bấc ngọn nồm
             tàu xuồng chông chênh đầu duềnh gió giật                                
Thương chiến sĩ
                       san sẻ niềm mong ước
nhận tin yêu từ Đất quê nhà
lênh đênh hải trình kết tình yêu đất nước
với biển trời tầm vóc bốn nghìn năm
cập nhật hải triều
                       nhích lên từng thước                          
những người lính dầm mình
                                                                                                                  Kê Cao Thềm Tổ Quốc
phía mặt trời thay phiên trực vầng trăng
Có người chỉ huy biết Nối vòng tay lớn                    
hợp sức trăm quê xây biển đảo muôn trùng

2. ĐƯỜNG BIÊN NGHÌN DẶM

Huyền thoại nào cũng cất cánh từ một sự thật
cùng tôi bạn tin điều này chăng
không phải bay trên không mà bắt đầu từ mặt đất
mười nghìn cây số đường biên
liền mạch trường tồn câu thơ Nam Quốc...
kỳ công muôn đời với muôn vàn thách thức
đặt trên vai những người lính thời bình               
dốc đá đèo sương đỉnh trời miệng vực
cuộc việt dã của trùng trùng đội hình
                                               phân minh cột mốc
một nghìn năm trăm cây số về đích chặng đầu
mở lối bản nghèo heo hút
với trăm miền giao kết ngược xuôi.
Con đường hòa bình xuyên vùng mây nguyên thủy
qua rừng nguyên sinh thầm lặng dấu chân
né lũ mở đường vắt cơm đầu núi                              
những cỗ máy nhường gốc cây cao tuổi             
đêm thông ca đất đá quyện hơi người
triệu khối bê tông trộn mồ hôi chiến sĩ
con đường đánh thức Trường Sơn hùng vĩ
xuyên đại ngàn gặp lại chiến trường xưa
gặp lại tình thân thuở cha anh kề vai đuổi giặc
sắc áo biên phòng hai phía lại chào thưa.

Công văn thảo trên xe
kỹ thuật soạn cùng thơ
ngủ võng băng rừng gặp lại thời trai trẻ
gác bữa ăn trưa để kịp vào hội nghị
cuốc bộ trèo đèo thăm bản chào dân                  
không lầm lẫn vàng tâm núc nác
mệnh lệnh từ trái tim
tri thức cộng trăm nhà...

Tôi đang nghĩ về ông - Vị tướng
từ thầy giáo làng thành người lính công binh
người thân thiết của rừng xanh biển thẳm
trên bốn mươi năm
                                                suốt một hành trình.

3. NGÀY HỌP MẶT

Tôi đứng vòng ngoài bóng rợp tán dù Trường Sơn
để được thấy những bàn tay xiết chặt
những tâm tình bừng tươi từng nét mặt
những cựu chiến binh mang phiên hiệu đời mình
  từ Đá Tây, Đá Lớn, Cô Lin
  từ công sự tiền tiêu Bạch Long Vĩ
  từ Cốc Bó, Đồng Đăng, Lũng Cú, Ca Lăng,
  từ Tây Trang, Xê-pôn, Kon Tum, Nậm Bạc…
chiến sĩ nuôi quân hát lại bài “Nổi lửa”

những người thợ xây Bỉnh Di
giọng còn vang tiếng chuông Trường Sa sóng bủa
người thủy thủ tuần dương từ phía đảo Sinh Tồn
từ thành cổ Quảng Trị
thầy giáo già nghiêng mắt kính rưng rưng
mừng người học trò học hay - thầy Kiền dạy giỏi
sách lèn ba lô thẳng tới chiến trường
trọn vẹn cuộc đời binh nghiệp
người lính Cụ Hồ tóc hoa râm về quê...
 Một người xông pha trận mạc
một người đảm đang miền bảng đen phấn trắng
trao cho con ngọn đèn bên trang giáo án
thắp sáng đêm thâu                                                                          góc biển nhớ chân trời

Về đây
làng Bỉnh Di bình dị êm đềm
hồng sóng biển Đông
                       Cồn Tàu phía trước
Người lặng lẽ sau những tấm huân chương
                kết nối điệp trùng bao nhiêu khoảng cách
trên tấm bản đồ bốn nghìn năm Đất Nước
Vị tướng qua cổng trường
                                         tiếng trẻ lại ùa reo…
                                                                                                            Nam Định, 19/ 12/ 2015
                                                                                                            Đà Nẵng, 03/ 04/ 2016
                                   PHẠM TRỌNG THANH


  
TRƯỜNG SƠN VẪN THỨC

Lướt qua cửa sổ máy bay
Bỗng xanh ký ức những ngày Trường Sơn
Một thời cháy đỏ đạn bom
Những cơn sốt rét dài hơn cuộc đời
Bao nhiêu đồng đội của tôi
Tung hoành ngang dọc rồi thôi chẳng về
Bao nhiêu biển hẹn non thề
Mãi thành chờ đợi chẳng nghe tin mừng
Để nay xanh núi xanh rừng
Để nâng cánh én lưng chừng trời mây
Xưa hành quân lẻ trăm ngày
Mà nay phút chốc đã bay qua rồi
Ơi đồng đội của tôi ơi!
Dưới kia vẫn thức một thời Trường Sơn.

Hè 2010
NGUYỄN VĂN BỔNG


Nhà thơ Vương Văn Kiểm

           Đời mẹ
Giải ba cuộc thi LBTS 2015 - 2016


Vẫn phong phanh áo bạc mầu
Vẫn quen bỏm bẻm miếng trầu nồng cay
Biển lừng không sợ gió xoay
Thúng dằn mái tóc ... đò đầy… chợ xa

Cò ơi, mỏi cánh lỡ đà
Đoạn trường mẹ yếu, có qua được cầu (*)
Mẹ đau, đau cả cơi trầu
Mẹ buồn, buồn cả biển dâu kiếp người
  
Bao ngôi biệt thự cao vời
Căn nhà tình nghĩa mẹ ơi khiêm nhường
Ngoài kia nhốn nháo thị trường
Nơi đây mẹ sống cương thường thẳng ngay.

Người ta mâm cao cỗ đầy
Mẹ nghèo, bếp lạnh, túi gầy đồng lương
Cảnh đời sống động quê hương
Mà con yên nghỉ dặm đường Trường Sơn

Với đời - dâng hiến lòng son
Vì con - lòng mẹ nén dồn yêu thương
Một thời bát cháo mẹ nhường
Bây giờ áo đỏ nhớ thương nâu sồng
                                            15/4/2015
 (*) Kiều: “ Đoạn trường ai có qua cầu mới hay
VƯƠNG VĂN KIỂM
0127. 723. 0806

 

  Một nét bình yên
   Chung khảo cuộc thi LBTS
  
Tay anh cuộn nắng ban mai
Cho xe lăn suốt rộng dài quê hương
Đôi chân gửi lại chiến trường
Trường Sơn một thuở ngoan cường chí trai
Với đôi chân gỗ miệt mài
Tập đi trong ánh “mắt nai” phố phường
Trái tim đập nhịp yêu thương
Mừng vui đất nước trên đường đổi thay
Yêu từng góc phố hàng cây…
Bình minh thức giấc ken dầy bước chân
Xe lăn như giữa hàng quân
Giọt mồ hôi vẫn trong ngần như xưa
Vẹn nguyên lời Bác sớm trưa:
“Tàn nhưng không phế” gương đưa khắp miền
Đôi tay hai cánh thần tiên
Bóng anh một nét bình yên giữa đời
                                          
 NGUYỄN NGỌC HOÀI



Đồng Lộc lời ru ngân mãi
Bài đoạt giải thưởng cuộc thi thơ chủ đề Đồng Lộc
  
Nay trở về thăm Ngã Ba Đồng Lộc,
Kính cẩn tri ân mười nữ anh hùng.
Trong khói hương bảng lảng hư không,
Như dội lên những tiếng bom khô khốc.

Kìa bóng ai thoăn thoắt trên lưng dốc,
Tay phất cờ chỉ dẫn đoàn xe qua.
Trong đêm tối, ánh pháo sáng lập lòa
Đất rung gầm những loạt bom hủy diệt

Gan dạ kiên cường trong “tọa độ chết”
Nối con đường chi viện tiền phương
Rồi một ngày đi vào cõi khói hương
Để ngàn đời sau chuyện còn nghe kể...

Tiểu đội Bốn, mười cô gái trẻ
Anh dũng hy sinh bên núi “Trọ Voi”
Em út mười bảy, chị cả hăm hai
Đã viết lên “Khúc tráng ca bất diệt”

Cây bồ kết đứng tần ngần da diết
Rủ hương thơm gội chải mái tóc xanh
Nén tâm nhang Đồng Lộc luôn cháy đỏ
Trong lời ru ngân mãi khúc quân hành
                               Đồng Lộc 23/7/2013
                               BÙI THANH BÌNH

 


    Chợ Viềng

Một năm chỉ có một phiên
Mong anh về với chợ Viềng cùng em
Để bao năm tháng anh tìm
Hàng năm mùng Tám, tháng Giêng anh về

Xôn xao ruộng lúa hàng tre
Thập phương trẩy hội, người về thật đông
Áo quần xanh, đỏ, tím, hồng
Vạn người đi chợ, chỉ mong một người

 Trăm tiếng nói, ngàn tiếng cười
Mà sao không thấy có lời của em
Lời hẹn ở Sê băng hiêng
Em ơi, còn nhớ hay quên mất rồi

Nam Lào dẫu có xa xôi
Bao nhiêu kỷ niệm đầy vơi nghĩa tình
Chợ Viềng năm có một phiên
Mỗi năm anh lại tìm em chợ Viềng
                                     Nam Định, 1987
                                           LÊ LỢI



Khóc một giấc mơ

Chị gửi lại mùa xuân giao liên
cung đường mười bảy tuổi
vai tròn và ngực căng
mái tóc từ mùa khô gội xuống mùa mưa
hoàng hôn chải ra hương bồ kết
mượt mà những cái nhìn ao ước
câu chuyện bông đùa nắc nẻ Trường Sơn
lấp đi những tiếng bom
lấp đi những đêm muốn được làm con gái…
đi-ô-xin phát quang tiếng chim
thì các chị cấy vào lòng mình tươi non giọng hát
“Đường ra trận mùa này đẹp lắm!..”
câu hát dài hơn những chuyến xe đi …

Trai làng cùng đợt giao quân
những dòng tên trở về đỏ ngực từng bia mộ
đám bạn tóc đuôi gà “trồng hoa trồng nụ”
đứa nằm lại rừng, đứa đề huề trên phố
gia tài của chị còn đôi nấm mộ song thân
ký ức Trường Sơn
và những đêm vầng trăng đứng nhìn ngoài cửa sổ…

Hơn bốn mươi năm
chiến tranh thường trú trong ngôi nhà nhỏ
ngôi nhà dựng tường bằng mưa
mái lợp bằng gió
cái cột, cái kèo chẳng định rõ tên
nhưng gánh vác nhiều hơn phần đời
                                             của kèo, của cột
nắng, mưa đều dột
để bốn mùa mùa đông…
lặng thầm khoai lúa hiểu không!
làm sao xanh lại nỗi lỡ thì mùa vụ
còn được bao nhiêu tiếng cười
chị đem chia hết cho bầy trẻ nhỏ…

Bảy mươi tuổi, chị ơi!
sớm nay làng ta khóc một-người-con-gái
khóc một giấc mơ thường lặp đi lặp lại
khóc một cung đường xanh
                    mê mải những tiếng hát giao liên…

Trần Văn Lợi
Đt: 0942. 579. 222


ÁO LÍNH

Áo lính là áo lính ơi
Đã từng xanh biếc một thời mộng mơ
Mà còn xanh mãi đến giờ
Là khi ta lại bất ngờ gặp nhau
Gió sương lấm tấm mái đầu
Má tròn căng đã rám màu thời gian
Nhắc làm chi những gian nan
Nâng li ta cứ hát tràn cung mây
Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây
Cua rung khe đá, lá bay cổng trời…

Áo lính à! Áo lính ơi
Đừng phai bạc nhé dẫu đời lỡ quên
Đã từng chân cứng đá mềm
Thì thêm đôi chút gian nan sá gì!
Áo lính ơi hát nữa đi
Khúc quân hành tiến thẳng về tương lai!
Tháng 12 – 1992
NGUYỄN DANH KHÔI


TẬP KỶ YẾU DANG DỞ

 Truyện ngắn Nguyễn Văn Bổng
(Giải Nhì cuộc thi viết Ký ức Trường Sơn)

 Chuyện của lính Trường Sơn vốn ào ào như mưa tháng tám, chẳng đầu đuôi mỗi dịp gặp nhau, thế mà cứ diễn mãi chả thấy chán. Cả chuyện hội đồng ngũ ngày 28- 8-1969 định làm một tập kỷ yếu cũng vậy. Những cái tên Thon “dúm”, Rinh “bát”, Tý “la de”, Cư “cắt tút”, Hùng “pháo bầy”, Liên “cuốc chim”, Khoa “cơm nguội”, Ry “thơ”, Việt “vú”, Tiến “hậu môn”, Hà “đầu lâu”…mỗi lần tếu táo nhắc tới và điểm danh kẻ còn, người mất lại ôm nhau cười ha hả, rồi lặng đi, rồi bỗng khóc òa lên, khóc tức tưởi như đứa trẻ bị đòn oan. Khi tất cả đã ở cái tuổi ngoại lục thập bất nhập đình chung, nhớ nhớ, quên quên, rồi không bệnh nọ cũng tật kia và cứ gạch tên dần…nên tập kỷ yếu vẫn chỉ là ý tưởng.
Mọi chuyện từ Khoa “cơm nguội” hội trưởng đồng ngũ liên huyện Hải Hậu- Trực Ninh mời dự cỗ cưới con trai duy nhất đang tại ngũ.
Ngày 28-8-1969, ngày nhập ngũ của chúng tôi lấy làm ngày gặp mặt hàng năm từ khi thành lập đầu thập kỷ 90, cái năm sau một đêm thức dậy đã thấy mất Liên Xô. Ngày nhập ngũ biên chế 113 chiến sỹ huấn luyện chưa đầy tháng đã đi B mà như mới hôm qua. Do yêu cầu của chiến trường mà anh em bị phân tán, rồi hy sinh, rồi ngày về đời thường thành lập hội chỉ gom được 25 đứa bằng một phần tư khi biên chế đi B. Tiếp đó do tái phát vết thương, ung thư, tháo đường, tim mạch…cứ như mọt gặm danh sách chỉ còn 15 đứa.
Hôm nay, tin tới tin lui, hết đợi lại chờ đến chùn chân, nóng mặt vẫn chỉ được năm anh em đi dự cỗ cưới.Việt “vú” Ry “thơ”bỗng dưng dở chứng bất khả kháng do huyết áp tăng đột ngột. Hùng “ pháo bầy” không kìm chế nổi bỗng xẵng giọng cáu kỉnh: Hẹn tập trung rồi đi, có năm “bố” mà nuốt của “ con” hơn hai tiếng.
  Ngày xưa giờ G mà thế này thì…
Thôi mà! Lên lão cả rồi, so gì với tuổi trai tráng cách đây cả hơn bốn chục năm mà giờ G với giờ giếc! Rinh “ bát” vội xua tay cắt ngang sự bực dọc của Hùng.
Tôi với tư cách hội phó dẫu sao cũng phải làm chính trị viên bất đắc dĩ; Được răng nào cào răng ấy. Trước hết xin hoan nghênh anh em đã có mặt. Dự đám cưới tạm chấp nhận chứ đám tang mà lèo tèo thế này người ta cười cho đấy! Ai vắng không chính đáng, rút kinh nghiệm sau! Giờ ta xuất phát kẻo trễ. Khoa chắc đang chờ cánh ta.
Từ xa đã phát hiện ra nhà của Khoa. Buồm bạt, loa đài, người ra kẻ vào. Vào đến ngõ, bốn cái xe máy bỗng phanh chết sững khi thấy lạ hoắc! Chúng tôi tháo mũ bảo hiểm. Rõ ràng tiếng kèn trống đám ma. Có cả mấy người chít khăn tang! Một ý nghĩ thoáng qua đầu tôi. Hay anh Khoa chuyển chỗ ở mà không kịp thông báo anh em...? Hay nhầm ngõ? Chợt có một cụ già chừng ra đón chúng tôi. Tôi vội lên tiếng;
- Dạ thưa cụ đây có phải…
Chưa chờ hết câu, cụ đã vội lên tiếng bằng cái giọng rầu rầu:
 - Dạ phải. Chú Khoa đi chiều hôm qua! Cái giống ung thư phổi là tỉnh đến lúc trút hơi thở nhẹ.Chú ấy giấu biệt… Biết chắc chắn các chú sẽ tới ăn cưới cháu, chú ấy dặn;” Chớ ai để rơi nước mắt, tóc bạc cả rồi, khóc trông tội lắm. Người chết vẫn tiễn đưa, rước dâu vẫn cứ đón như phương án chú ấy đã chuẩn bị, sinh dữ tử lành mà. Tóm lại là; một bữa cỗ được hai việc,cứ thế mà làm là tôi mừng, thanh thản, mát mẻ đi tiền trạm”!
    Năm 1970. Đúng giữa mùa mưa, địch mở trận càn lớn liên quân Việt- Mỹ nhằm cắt đứt sự viện trợ từ Bắc vào Nam theo tuyến đường 559. Chúng siết chặt vòng vây chia cắt các đơn vị thuộc đường Trường Sơn, hòng tiêu hao, chờ chết đói, mất sức chiến đâu thực hiện ý đồ bắt sống hàng loạt cán bộ chiến sỹ ta. Mặc dù hết sức dè sẻn, nhưng đến tuần thứ ba thì cả trung đội chỉ còn vài lon gạo dành cầm hơi cho những anh em số rét nặng không thể đi lấy măng, đào củ nâu, củ mài củ chụp thay cơm. Trong tình thế trời mưa như thối đất, mưa sầm sập suốt ngày đêm không ngưng hạt, muỗi có thể bốc được, vắt ngóc đầu dầy như xơ mít, thừa bom đạn và những trận sốt rung rừng nhưng thiếu lương thực, thuốc men và đặc biệt không hạt muối nên cả trung đội đã bị phù thũng và có nguy cơ buông xuôi! Tôi chỉ còn khoảng già 30 ký, còn anh em đều mắt trắng, môi thâm, da xanh như đít nhái sút
cân nặng. Hà được cử đi điều nghiên trở về lắc đầu, anh kể; xe tăng Mỹ rất dầy, lính Mỹ và ngụy ken đặc các vành đai, không còn chỗ nào hở, tôi đành rút nhẹ. Về gần cứ, vừa đoi, rét, ướt sũng đành dựa ụ mối thiếp đi. Khi trời sáng, giật mình tỉnh giấc. Anh ngồi bên một đống xương trắng hếu, cái sọ người nhe răng bêu cao nửa mét, tìm kỹ thấy có miếng kim loại thẻ lính. Hóa ra một tên lính dù Mỹ bị thương, lạc rừng rồi chết cữ mùa khô, lũ mối và kỳ đà đã xơi sạch, cái đầu bị mầm măng đội lên đúng hốc mắt. Hà giật miếng dù pháo sáng vương trên cành cây đùm mớ xương, hạ cái đầu lâu cho vào và chôn ngay lòng hố pháo. Dẫu sao nó cũng là con người, một thằng giặc cách ta nửa vòng trái đất đã ngã ngựa. Từ đấy Hà có biệt danh là; Hà “đầu lâu”. Nhiều phương án tác chiến Hà đưa ra mở đường máu đều không khả thi. Không còn sức mà đi, nói chi đánh đấm với lũ nhà giầu đông và mạnh gấp nhiều lần. Đúng lúc bĩ cực nhất, người được coi là khỏe nhất là Tiến đổ gục bởi một căn bệnh đi ngoài ra máu. Suốt ngày không mặc quân, hết chổng đít hô hô lại ngồi ôm gốc cây mà rặn đến lồi cả hai con mắt đỏ hoe. Nguyên nhân cũng đơn giản. Do có sức hơn anh em nên Tiến thường nhường phần cơm ít ỏi cho người ốm giành lấy phần củ nâu, củ chụp, môn thục về mình và kết cục bị táo bón, kiết lị nặng. Mỗi lần như thế, anh em phải dùng lá cây tiết dê vắt nước thụt vào hậu môn, đào ngoáy moi cái của nợ ấy ra cùng với máu. Tiến bảo: “Ngày ở nhà mỗi lần đi lị, chỉ đánh bữa gỏi cá mè có mẻ chua chưng lên cùng mật mía, mắm tôm, lá sung, lá mơ lông…là khỏi tắp lự”. Bây giờ thì đào đâu ra! Thôi, mày cứ ăn tưởng tượng  đi, thế nào bệnh cũng đỡ đấy. Tôi động viên Tiến. Cả trung đội ngao ngán nhìn nhau bế tắc, chỉ còn trông chờ vào may rủi. Sáng nay Khoa dậy sớm hơn, quán triệt lần nữa; Bằng giá nào cũng không để bị bắt sống. Mỗi người giữ lại một quả lựu đạn, không còn lựa chọn nào nữa thì chia đôi với kẻ thù. Anh dõng dạc nói như ra lệnh:
- Mỗi tiểu đôi cử một người về hầm tôi lấy cơm cho anh em ăn. Có thể đây là sinh lực cuối cùng.
Cả trung đội đều sáng mắt lên rồi vội cụp xuống nhìn nhau rầu rĩ…tỏ ý nghi ngờ! Đói thâm niên, đói lưu cữu cả tháng trời, vàng mắt, xanh bụng, phân chả có mà ỉa, mà có ỉa cũng chả thối, đến củ mài củ nâu, môn thục cũng chả còn mà ăn, nói chi đến gạo với cơm!
Cư nghiêm mặt, chỉ vào Khoa gây gắt;
- Đang sống dở, chết dở, còn bỡn được sao?
Thật không thể ngờ! Khoa về hầm mở ba lô, lôi ra một bọc.
 Tất cả mọi con mắt thâm quầng, trũng sâu, trắng dã đổ dồn về cái bọc. Và bỗng sáng mắt lên khi được chia mỗi người một nắp hăng gô cơm khô. “Cơm khô”! Chúng tôi khẽ đồng thanh rên lên trong cổ họng, trong nỗi mừng khó tả! Những hạt cơm,  không phải là một nhúm mà được cả một nắp cà mèng. Không phải cơm nữa mà là ngọc. Hạt ngọc này đã nuôi sống cả nhân
loại bao đời trong nền văn minh của nó. Thế mà lần đầu tiên từ khi cha sinh mẹ đẻ chúng tôi bị thử thách tới hai mươi bảy ngày không có nó trong dạ dày, trong huyết mạch để sống. Chúng tôi phải dè sẻn. Nhẩn nha nhai từng hạt một, sợ nó nhanh hết. Có thể đây là những hạt cơm cuối cùng…! Phải để cảm nhận cái dai dai, dẻo dẻo, ngòn ngọt, thơm bùi trong từng hạt cơm tan ra ngấm dần vào chân răng rồi từ từ vào sâu hơn, truyền vào huyết mạch như một thứ thần dược để cải tử hoàn sinh. Chưa bao giờ những hạt cơm khô lại trở thành bữa tiệc tuyệt vời như thế.
Và thế rồi đêm ấy, một đơn vị đẫ mở đường máu cứu chúng tôi. Trong đánh ra ngoài đánh vào. Do bí mật bất ngờ trong đêm mưa rét, ta và địch cận chiến, giáp lá cà, thằng địch thừa xe tăng, súng pháo hiện đại, bộ binh ken dầy vẫn không kịp trở tay, vòng vây bị chọc thủng. Trung đội cũng hy sinh mất Liên “vổ” tức Liên cuốc chim, Hà “đầu lâu”. Khi bắn hết đạn, Liên dùng lê đâm thẳng ngực một tên, máu nóng phọt vào đầy mặt. Nó rống lên”Vi xi”. Như con trâu điên nó giơ chân đạp vào ngực anh rồi đổ vật vào anh khi anh kịồi tiếp một đường lê nữa. Liên bị một băng tiểu liên cực nhanh A R15 quét trúng hy sinh. Hà “đầu lâu” khi hết đạn cho nổ quả lựu đạn cùng chia với ba tên xông vào ôm bắt sống anh. Rinh bị trúng miểng M79 lòi ruột, vẫn bình tĩnh tự ấn ruột vào úp bát sắt B52 và băng lấy. Việt bị thương vào đầu, hai tay ôm vết thương, máu tuôn đầy mặt, Việt rít lên:
- Báo cáo tôi bị trọng thương vào đầu
   Tôi sờ vào đụng đám bầy nhầy, thấy nguy quá đành lấy đèn ngoéo soi cận. tôi vội báo cáo trung đôi trưởng;
- Báo cáo anh Khoa, Việt bị thương vào đầu. Có óc trắng đã phòi ra một đám.
Tiếng Khoa sắc nhọn:
 - Băng bó khẩn cấp. Chuyển nhanh ra theo hướng pháo sáng. Tôi bắn yểm trợ.
         Tôi hoảng quá vội cởi phăng áo, trùm cuộn luôn cả cái đầu Việt cho một người cõng ra. Tý vừa đạp lên xác địch cõng bạn, vừa tiện tay vơ một ba lô lính Mỹ. Nhờ sức mạnh của những hạt cơm khô của “ Bồ tát” Khoa, chúng tôi đủ sức nổ súng chống trả đich, khiêng cáng nhau thoát khỏi vòng vây quân thù chỉ trong vòng nửa tiếng.
Về sau chúng tôi mới vỡ lẽ; Những lần dừng nghỉ vài ngày ở các trạm Khoa phát hiện ra những hốc cây cơm thừa lẫn cháy các đơn vị trước bỏ lại. Thấy xót quá. Mỗi hạt gạo từ đồng chua nước mặn chắt chiu, vượt bao bom đạn, máu xương mới vào tới chiến trường, thế là anh lặng lẽ rang khô, cất giữ từng ít một vào đáy ba lô… Cũng từ việc làm đầy nghĩa cử ấy mà anh em từ đấy gọi anh với cái tên mộc mạc trìu mến Khoa “cơm nguôi” Và tất nhiên, Tiến cũng có tên mới toe là: Tiến” hậu môn”, Rinh có tên là; Rinh “ bát”. Có người hỏi, trong đêm tối nhập nhoạng, mịt mùng sao Tý lại phát hiện ra ba lô Mỹ mà thu hồi. Anh cười và hài hước chỉ vào cái răng cửa bịt vàng bảo; Nhờ nó đấy. Có chiếc ba lô trung đội có thêm sữa, thuốc tăng lực, sốt rét cho anh em nhưng có một phiền toái đã xảy ra. Thon thấy có tuýp thuốc đẹp, anh liền lấy kem đánh răng. Nào ngờ nó làm rúm ró hết miệng lại. Nhìn anh như đang huýt sáo, như trúng gió nói không thành lời. Hoảng hốt chạy tìm y tá. Anh y tá bảo đây là loại kem co cơ dùng cho lính Mỹ chơi gái. Chẳng phải điều trị, sau 1 tiếng tự nó trả lại xinh như cũ. Đúng là văn minh kiểu cao bồi Mỹ. Cũng từ đấy Thon có cái tên Thon “dúm” Tý “ la de” Việt được chuyển về tuyến sau phẫu thuật. Người ta phải gỡ hết lớp óc dính bệt máu trên đầu  mới biết anh mất một mảng sọ nhưng vạn phúc chưa bị lòi óc như báo cáo.Có rất nhiều giả thiết về đám óc trên đầu Việt. Có lẽ kinh nghiệm của các bác sĩ đưa ra khả thi hơn. Do óc của một tên địch nào đấy cùng hưởng chung quả lựu đạn khi cận chiến đã phụt sang.
Việt được đưa về Cam pu Chia điều trị rồi trở về K32 ăn dưỡng chờ ra Bắc.Nói là trạm điều dưỡng cho oai, thực ra chỉ là nơi tập trung thương binh nặng đã tạm ổn vết thương về điều trị tiệp ở vùng hậu cứ. Việt mất trí nhớ, dở chứng tâm thần. Mỗi khi anh lên cơn thường hô hét chửi bới, nửa đêm hô xung phong rồi chạy vào rừng làm cho nhiều người vất vả. Một buổi sáng nọ, nghe tiếng la hét om sòm, nữ trạm trưởng vội tới.Chị tái mét mặt khi nhìn thấy Việt trần truồng đang vắt vẻo trên chạc ba cây bứa cạnh hầm ngủ. Chỉ cần một sơ suốt rơi xuống, điều chắc chắn sẽ không còn cơ hội cứu sống. Mặc cho bác sỹ năn nỉ , anh em khẩn khoản động viên khuyên bảo, Việt vẫn không chịu xuống. Việt đe, nếu ai tới gần anh sẽ nhẩy vào đầu. Cuối cùng sau mấy tiếng, cô y tá chuyên chăm sóc cho anh đã thuyết phục được…nhưng với một điều kiện.
Bây giờ đã thở phào tìm ra giải pháp nhưng thực hiện thì chẳng dễ chút nào. Bao nhiêu lời động viên, khẩn cầu nhưng Hoa vẫn không thể đáp ứng yêu cầu vô lý có phần thô thiển ấy. Hoa tự ái bỏ vào rừng để lại bao ánh mắt, bí bách, bức xúc dõi theo phía sạu. Nhiều người đã lắc đầu tỏ ý vô vọng… Thế rồi bất ngờ Hoa cô y tá đã quay trở lại. Cô yêu cầu mọi người dãn ra, tạm lánh mặt để cô thi hành nhiệm vụ. Hoa hồi hộp nhẹ nhàng gọi Việt và từ từ, run run mở nút áo. “Đôi gò bồng đảo sương còn ngậm” vốn chưa một người con trai nào dù chỉ một lần trộm thấy đã dần lộ ra cho Việt ngắm. Và không ngờ Việt đã ngoan ngoãn đu cành cho Hoa đỡ xuống an toan.
Ngày toàn thắng, Việt và Hoa đều là thương binh gặp nhau ăn dưỡng ở Hà Bắc. Đó là một Thiên duyên như tạo hóa đã xắp đặt. Cô gái xứ Thanh hạnh phúc làm dâu ngay trên quê lúa Hải Hậu, Hà Nam Ninh. Và hôm nay trời mưa rét, vết thương tấy  lên, Việt “ vú” bị Hoa “quản thúc” không thể đi ăn cưới. Có lúc vui chuyện cũ, Hoa hóm hỉnh bảo; “ Ngày ấy, trót để lộ hàng… rồi thì lấy chứ báu gì cái ông dở hơi mà duyên trời với đất. Tâm thần thế có mà khối anh đăng ký cả đời.” Ry “thơ” huyết áp tăng cao, chắc giờ đang cuộn chăn sáng tác thơ, bắt vợ chép đi xóa lai. Nói là sáng tác cho oách chứ thực ra cái bố nhiễm da cam vô sinh này còn biết làm gì ngoài việc làm thơ in tặng bầu bạn cho vui. Ngày ở miền đông Nam Bộ, Ry cũng làm được những vần thơ hay đáo để, làm sáng danh dân Nam Định đấy. Nhiều em giao liên, văn công, được tặng thơ như bị bỏ bùa mê, say như điếu đổ làm ối anh gen ra mặt chứ chả chơi. Hơn 40 năm rồi những câu, những vần đến bây giờ bập bõm mỗi người cũng còn nhớ dăm ba câu mỗi dịp gặp nhau vẫn ồn ào tán tụng vui ra trò. Nó cũng là niềm vui, ấn tượng một thời để càng yêu mến nhau hơn lạc quan hơn trong đời thường.
Đoàn văn công tay nhị vai đàn
Đỉnh núi lớn xòe phông xanh phông đỏ
Đồng bằng hiện lên trong câu quan họ
Em nâng sông Cầu đặt giữa Trường Sơn
Rồi bài;
Em gái giao liên đâu biết làm thơ
Cái miệng xinh nói câu nào cũng đẹp
Thấy trên đường dọc ngang dấu dép
Em bảo rằng; mặt đất nở đầy hoa
Đưa bộ đội hành quân trong mưa
Dép tụt quai em xách tay lủng lẳng
Đất thì đỏ mà chân em thì trắng
Hoa dấu chân em để lại trên đường
Năm cánh xòe về một hướng tiền phương.
Cả bài thơ chả có tí tị mùi đạn bom nào, nhưng chỉ nhõn cái việc, huy động đến người đẹp ra trận, người đọc đã hiểu cuộc chiến tranh khốc liệt nhất, tàn bạo nhất, lâu dài nhất, toàn diện nhất… rồi cũng sẽ kết thúc, thì bài thơ ấy cũng tuyết “cú mèo” rồi. Ông Ry xứng đáng được lính Trường Sơn đặc cách phong danh hiệu; nhà thơ là xứng đáng.
Và còn đây sẽ thiếu sót nếu không điểm danh hai anh bạn”Pháo bầy” và “Cắt tút”.  Thực ra Hùng và Cư chả dính dáng gì đến pháo cối. Ngày ấy mua khô 1970, cả trung đội đi phục kích đánh địch càn trên cao nguyên Pô Lô Ven đất bạn Lào tạo điều kiện kéo địch ra tiêu hao để bạn công đồn. Bọn địch hình như nghi ngờ, đột ngột thay đổi hướng hành quân. Chúng nã pháo không tiếc đạn để dọn đường rồi tung biệt kích, thám báo đi tìm dấu vết các đơn vị chủ lực vừa hành quân từ Bắc vào. Chúng tôi khi vào Trường Sơn đã được quán triệt rất kỹ khẩu hiêu; “ Đi không dấu, nấu không khói, ỉa không thối, nói không tiếng”. Bọn biệt kích rất ranh ma. Chỉ một mẩu bông băng trôi suối nó sẽ lần ra  nơi có thương binh. Nếu sơ xuất để một ngọn khói vương trên tán cây. Thằng trinh sát VO10, L19 sẽ chẳng bỏ qua. Chỉ sau quả pháo khói dựng lên 5 phút , thằng A 37 đã bổ nhào cắt bom, và tất nhiên tiếng đề pan của các loại pháo sẽ nổ giòn như trống dàn không tiếc đạn. Mặc dù khi đi đại tiện mỗi người đều dùng xẻng đào hố, xong việc sẽ lấp lại, lính còn quen gọi là “ hố mèo”. Thế mà bọn biệt kích còn láu cá khai quật lên, bới ra mà ngửi, mà thẩm định xem phân mới hay cũ. Xảo quyệt hơn, nó còn phân loại được mùi phân của bộ đội đặc công  hay dùng lương khô 701 và 702 với cá hộp Hải Phòng, khác với lính bộ binh hay dùng cơm nắm với ruốc bông, thịt hộp Trung Quốc, khác cả với thương binh ăn cơm nóng, uống sữa, bột trứng và có nhiều mùi thuốc kháng sinh…Và thế rồi có một lần bất cẩn. Mấy anh lính trẻ mới từ Bắc vào bổ xung họ đi lấy măng, trên đươngf về vừa đi vừa bóc, vô tình những vỏ măng đã thành những chiếc “ “lông ngỗng” để bọn biệt kích lần theo về tận nơi trú quân.
 Cư bị sốt rét, được phân công ở nhà nấu cơm. Đúng lúc cơm sôi thì anh phát hiện lố nhố áo rằn ri đang lom khom tới sát bếp. Không kịp báo động. Chợt trông thấy cái cắt tút đạn pháo to cỡ bắp đùi dựng sát bếp để đựng đũa, có lúc còn cắm hoa rừng. Cư dùng hết sức bình sinh tung qua vách nứa, miệng hô to; “ Hàng thì sống, chống thì chết này”. Cái cắt tút đen sì như quả bom lăn lông lốc một đoạn rồi khựng lại một gốc cây. Tiếng kim loại va đập, thần chết đột ngột xuất hiện làm toán biệt kích hồn bay phách lạc, chỉ kịp nằm xuống chờ tiếng nổ tan thây. Khi trấn tĩnh, biết bị lừa bon chúng lồm cồm bò dậy bắn đuổi theo như vãi trấu. Cư bị thương nhưng cố cầm chiếc vung nhôm gõ phèng phèng và chạy theo đường mòn xuống suối!
Cả trung đội Hùng đi mật phục hai ngày, nay được lệnh rút. Bụi đỏ của đất, nắng khét đá làm quần áo cứng như mo cau, mặt anh nào cũng đầy bụi đỏ, lông mi như một thứ nhựa màu, không chớp nổi, mồ hôi dẻo quánh. Về gần cứ, con suối trong tận đáy có thể nhìn rõ từng hòn sỏi hạt cát đang mời gọi hút hồn chúng tôi. Như mọi lần Hùng ra lệnh:” Tất cả tranh thủ tắm giặt nhanh còn kịp bữa tối”. Không ai bảo ai, như mọi lần chúng tôi cởi bỏ hết quần áo lao xuống ngụp lặn vùng vẫy trong làn nước mát vào tận tim gan. Bỗng rẹt…rẹt…rẹt…từng tràng súng A R 15 rộ lên điểm xen vào tiếng cọc… oành…cọc…/oành… cuaM 79, tiếp đó là tiếng mìn định hướng Đ H 8 Đ H 12 của ta nổ đinh tai chát chúa rung chuyển đất đá. Tất cả chúng tôi đều hiểu ra, quáng quàng nhào lên bờ, chụp nhanh lấy vũ khí, dàn đội hình chiến đấu. Do thông thạo địa hình, chúng tôi hoàn toàn chủ động vận động đánh địch theo sự chỉ huy của Hùng. Mạt khác do trung đội biệt kích đã bị Cư anh nuôi lừa vào bãi mìn của ta tiêu hao phần lớn đặc biệt trời sắp tối và thằng đeo máy bộ đàm đã tan thây nên không thể liên lạc bom pháo hỗ trợ nên chỉ sau chưa đầy nửa tiếng chúng tôi đã hoàn toàn làm chủ trận địa. Kết quả ta diệt 35 tên, bắt sống 3 tên, thu một máy bộ đàm và nhiều vũ khí. Trung đội tôi, một trung đội hy hữu trong chiến tranh, tấn công địch trong tư thế của những thiên thần, không mảnh vải trên người trần như nhộng. Khi kết thúc trận đánh Hùng sực nhớ quát to. “ Quay lại suối lấy quần áo, kiểm tra lại súng pháo có sây sát gì không” Tất cả phá lên cười và cúi  xuống nhìn nhau. Cũng từ đấy Hùng có tên là;Hùng “ pháo bầy” . Một trận đánh tuyệt vời, biến rủi thành may nhưng bữa cơm hôm ấy đắng ngắt không ai nuốt nổi. Chúng tôi đứng lặng cúi đầu. Nước mắt nhòa đi , lòng quặn thắt khi vĩnh biệt Cư, người anh nuôi mưu trí, dũng cảm đã vì đồng đội mà dẫn địch vào bãi mìn của ta cài sẵn và anh dũng hy sinh, thân đè lên xác địch, tay vẫn còn nắm chiếc vung nhôm lợi hại…
Thế mà hôm nay, thoắt đấy đã hơn bốn mươi năm. Thay cho nhận lời mời đám cưới con anh Khoa để cụng ly, chúng tôi lại hẫng hụt, bất ngờ phải đứng lặng cúi đầu, vĩnh biệt người anh, người đồng đội cùng chiến hào năm xưa vô cùng yêu quý. Anh Khoa ơi! Anh có quyền hoàn toàn sở hữu bọc cơm khô  cất giữ đáy ba lô. Nhưng không! Anh thà nghiến răng chịu cơn đói dày vò chứ không  tơ hào một hạt cho riêng mình. Anh, người chỉ huy biết dự trữ phòng xa, và biết khi nào thì dùng chúng hiệu quả nhất… Tôi run run nói lời vĩnh biệt anh đúng lúc con trai anh đưa cho tôi một tờ giấy. Dòng chữ nguệch ngoạc nhưng rắn rỏi, chủ đông, lạc quan như bản lĩnh của anh, như ra lệnh, như khẩn khoản yêu cầu chúng tôi;
“Anh em hội đồng ngũ nhất mực yêu thương! Tôi đã chuẩn bị kỹ cho việc ra đi này! Sinh có hạn, tử chẳng có kỳ, âu cũng là quy luật. Mình tâm đắc nhất câu Hùng “ Pháo bầy” nói; Nhà văn Nguyễn Thi ở Hải Hậu ta có câu nói nổi tiếng trong nhân vật Chị Út Tịch “ Còn cái lai quần cũng đánh”. Xuống dưới kia mình sẽ gặp Cư “cắt tút” Liên “cuốc chim” Hà “đầu lâu”…gặp đồng hương Nguyễn Thi mình sẽ báo cáo; Trung đội ta tự hào quê nhà văn còn vận dụng sáng tạo đến tuyệt vời” Không còn mảnh quần nào cũng đánh thắng”. Về việc hội. Bổng hội phó lên thay tôi làm hội trưởng. Bổng có chút năng khiếu và có vốn sống phong phú, lại là hội viên hội văn học nghệ thuật tỉnh, hãy viết một cái gì đấy về hội ta. Coi đấy là của cải riêng, chung để lại cho con cháu chúng mình. Phấn đấu làm tập kỷ yếu Trường Sơn cho hoàn chỉnh nhé! Mong sao, những cái tên Khoa “cơm nguội” Rinh “bát” Tý “la de” , Cư “cắt tut”, Hùng “ pháo bầy” …Hãy cứ giữ những cái tên mộc mạc, có vẻ thô thô nhưng đã trở thành tài sản vô giá rất thiêng liêng đứng đằng sau cái tên cúng cơm bố mẹ đặt cho để được mãi mãi bên nhau! Để câu thơ của Tố Hữu mãi là bức thông điệp gửi tới muôn sau; “ Trường Sơn đông nắng tây mưa/ Ai chưa tới đó như chưa rõ mình” Gửi lời chào tạm biệt. Sẽ có ngày về đấy… gặp nhau!
Ký tên; Khoa.
Vâng! Anh Khoa ơi!...Anh thanh thản đi tìm đồng đội đang dập dìu khắp bạt ngàn Trường Sơn xanh. Anh thật xứng đáng với niềm tự hào của chúng tôi Làm sao quên được 113 thanh niên phơi phới tuổi thanh xuân gác bút nghiên lên đường ra trân  ngày 28 tháng 8 năm 1969. Tất cả họ đều chưa một lần cầm tay bạn gái. Những chân dung, những cái tên, những bí danh gắn với mỗi địa danh, mỗi chiến công do chính chúng ta lập lên, tự đặt tên, có thể không thể hiện trên bản đồ, không nằm trong những cuốn sử vàng được biên soạn, nhưng nó đang trở thành của cải riêng, chung vô giá của con đường Trường Sơn huyền thoại, đường Hồ Chí Minh lịch sử góp phần cho non sông “ Nở hoa độc lập, kết trái tự do”, trở thành những nốt nhạc trầm trong bản tráng ca của mùa xuân đất nước. Chúng tôi và con anh, con cháu chúng ta sẽ tiếp tục hoàn thành tập kỷ yếu về một thế hệ đã sống và chiến đấu cho hôm qua, cho hôm nay và mãi mãi.                                                                 

Hải Tây, hè 2013
Nguyễn Văn Bổng



Người anh hùng lái xe đường Trường Sơn năm ấy
                                                                            
 Trong bộ tổng tập Chân dung Anh hùng thời đại Hồ Chí Minh do Hội đồng Thi đua - Khen thưởng Trung ương và Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương biên soạn, ấn hành năm 2000, tôi "gặp" một người khá điển trai, không phải trong bộ áo giáp mũ sắt của bộ đội lái xe Trường Sơn mà trong bộ quân phục sĩ quan với quân hàm quân hiệu tề chỉnh. Một gương mặt cương nghị, sáng tươi: Anh hùng lái xe Nguyễn Quang Hạnh.
Trong tiết trời thu mát mẻ, nắng trải dài trên những cánh đồng lúa mùa đang vào độ mẩy, sau hơn một giờ rong ruổi xe máy, chúng tôi về huyện Hải Hậu, xã Hải Đường, hỏi đường về xóm 25. Mấy bác người làng vui vẻ chi lối cho khách xa. Chúng tôi lại được ông Phạm Ngọc Ruyến một bác sĩ cựu chiến binh Trường Sơn, bạn học của Nguyễn Quang Hạnh từ thời còn để chỏm đi trước dẫn đường. Khuôn viên nhà ông Hạnh cạnh đường trục vào xóm, gần ngôi nhà thờ xứ đạo Nam Đường. Bà Nguyễn Thị Lụa,  phu nhân người anh hùng vui vẻ chào hỏi. Biết khách hẹn đã về, ông Hạnh hồ hởi bước ra. Cánh cổng mở rộng, nếp nhà mái bằng, hiên có dàn hoa leo kề gian nhà mái ngói cao ráo. Trước nhà, một khoảng sân gạch, thửa vườn thấp cao các cây thế, chậu cảnh la đà vui mắt. Chủ khách phân ngôi trên bộ sa lông gỗ sẫm màu. Cái bắt tay của một người ở tuổi bảy mươi vẫn còn phong độ, vẫn cử chỉ, cốt cách một người lính, một cán bộ chỉ huy ngày nào. Tôi ngước lên bàn thờ gia tiên. Ảnh cụ cố nội, ảnh hai cụ thân sinh lồng trong khung kính trên tường. Tôi ngước lên ban thờ kính Chúa trên cao, biết rằng chủ nhân là người trọng lễ nghĩa, một gia đình đạo gốc nền nếp ở vùng quê văn hóa Hải Hậu. Chủ nhân ngôi nhà được vinh danh tên thánh: Phêrô Nguyễn Quang Hạnh.vinh danh tên thánh: Phêrô Nguyễn Quang Hạnh.
Chưa học hết trung học, Nguyễn Quang Hạnh đã tham gia công tác thuế vụ của xã. Tuổi trẻ nhiệt thành và năng động, chàng thanh niên xứ đạo đã được cấp ủy và ban quản trị hợp tác xã tin cậy giao việc để anh sớm được thử thách, rèn luyện. Nguyễn Quang Hạnh trở thành trưởng xóm rồi đội trưởng đội sản xuất hợp tác xã nông nghiệp quê nhà, đối tượng cảm tình Đảng trước ngày nhập ngũ.
Tháng 5 năm 1965 có một ngày còn nhớ mãi trong đời người cựu chiến binh Nguyễn Quang Hạnh. Ngày ấy, đứa con trai đầu lòng mới ba tháng tuổi, oặt oẹo, thương lắm. Đêm thời chiến nhà chong đèn, anh em chòm xóm ra vào, chuyện trò rôm rả. Cha mẹ thức thâu đêm, các cụ cân nhắc đắn đo nghĩ gần nghĩ xa trăn trở nhiều điều. Nhà có mấy người thân, ông cậu, bà dì đã di cư vào Nam từ năm 1954. Họ ở phía bên kia rồi. Nay người con cả của gia đình nhận lệnh nhập ngũ, có thể một ngày, người một nhà chĩa súng vào nhau thì sao? Hạnh nhà này lại do ban quản trị hợp tác "cử" đi bộ đội hẳn hoi, tính sao đây...
Sáng hôm sau, ông chào cha mẹ để kịp lên đường. Ngày con trai nhập ngũ, các cụ không tiễn. Vợ ông, bà Nguyễn Thị Lụa bế cả đứa bé đỏ hỏn lên huyện tiễn chồng trong dòng người kéo về ngày lễ giao quân của huyện.
Nhập ngũ, Nguyễn Quang Hạnh được chọn đi học lớp lái xe  6 tháng. Ông được xếp thứ 3/150 học viên. Tốt nghiệp, Nguyễn
Quang Hạnh được biên chế về đội lái xe Sư đoàn 312. Có 5 người được chọn lái xe chỉ huy, Phòng kỹ thuật Sư đoàn chọn rất kỹ. Ông "trượt" không phải vì điểm kỹ thuật mà có thể còn cần thêm những tiêu chuẩn nào đó. Từ đây con đường Trường Sơn gian khổ phía trước đã "chọn" Nguyễn Quang Hạnh làm người cầm lái tin cậy trong đội hình "Quả đấm thép" của bộ đội lái xe Trường Sơn.
Tháng 7 năm 1967, Nguyễn Quang Hạnh về Đoàn 559, vào Binh trạm 35, trên con đường chiến lược ngã ba nam sông Bạc, Hạ Lào. Thử thách đầu tiên với ông là khai thông chuyến xe xuyên đêm vượt dốc Pô Phiên vô cùng hiểm trở. Con dốc sừng sững thách thức các  đồng chí lái xe đã từng vận chuyển hàng hóa trên cung đường này. Được giao nhiệm vụ, Nguyễn Quang Hạnh bước lên buồng lái chiếc Mônô 2 cầu, nổ máy. Bình tĩnh, quả cảm, ông xử lý các tình huống mau lẹ, chính xác, đưa chiếc xe dã chiến đi đầu vượt dốc Pô Phiên thành công.                                                                    
Ông tâm sự: "Người lái xe mặt trận không chỉ bình tĩnh vững vàng trong buồng lái, mà cần cả mưu lược, linh hoạt  trong việc xử lý các tình huống trên thực địa, có khi còn phải biết làm "tham mưu" đề xuất với chỉ huy cấp trên các phương án khai thông khi tắc đường, phải biết hợp đồng tác chiến với công binh, với bộ đội phòng không, phải hiểu rõ thủ đoạn và qui luật hoạt động của kẻ địch trên trời dưới đất để đưa hàng tới đích".
Không thể nhớ hết bao nhiêu tình huống trên đường vận chuyển. Những chuyến xe lấy đêm làm ngày vượt qua những bãi bom phá, bom từ trường, bom bi trong vòng lượn của lũ OV10, AC130 suốt ngày đêm lồng lộn xoi mói, oanh kích bắn phá các trọng điểm dọc đường Trường Sơn. Những quả đồi đất thành bột, vách đá thành vôi, những sông bùn, những vực thẳm chồng chất xác xe cháy đổ. Lính xế có câu cửa miệng "gò méo, kéo đổ", để chỉ công việc của người lái xe, phải tác chiến mau lẹ, thành thạo cả việc sữa chữa khi xe gặp sự cố. Nguyễn Quang Hạnh kể chuyện có lần mình dùng chiếc xe 2 cầu 2,5 tấn, có đầu tời và bộ pa-lăng xích, kéo một đại xa 4 tấn vượt dốc chênh vênh, khiến cánh lính xế trầm trồ bảo Nguyễn Quang Hạnh biểu diễn trò "chuột tha mèo". Ông cười bảo đấy là kiến thức vật lý phổ thông, "lợi về lực thì thiệt về đường đi", mặt phẳng nghiêng mà! Để đảm bảo đủ đầu xe, bù vào những chiếc xe bị bắn cháy, Nguyễn Quang Hạnh lập cả "tổ lính xế phụ trợ công binh" kích kéo những chiếc xe đổ đèo, đến chỗ những xe "nằm bãi", tháo gỡ máy móc, phụ tùng còn dùng tốt để thay thế dọc đường khi cần, đưa về cứ để dự phòng trong những "mùa mưa bảo dưỡng". Vậy nên đơn vị ông luôn có đủ số xe lên mặt đường với các tay lái thiện chiến sẵng sàng nhận lệnh xuất phát. Khi ở cương vị chỉ huy, ông vẫn tự mình xông pha đi đầu, giúp đỡ, động viên, chia sẻ mọi khó khăn với từng chiến hữu. Nguyễn Quang Hạnh được đồng đội, cấp trên tin tưởng, một người 6 năm liền lái xe xung trận trên cung đường 120 km tây Trường Sơn chồng chất hiểm nguy thách thức.chồng chất hiểm nguy thách thức.
- Bom đạn Mỹ rình rập đánh phá như thế, bao nhiêu lần thay xe, ông có lần nào bị thương? - Tôi dè dặt hỏi. Lập tức ông bác sĩ cựu chiến binh Phạm Ngọc Ruyến, ngồi kề chủ nhân, lên tiếng:
- Có, nhiều chứ! Lần thoát hiểm cây đổ đè chẹt buồng lái, lần bom hất cả người lẫn xe văng vào vách ta-luy, những phen ù tai choáng óc do sức ép bom, rồi bom bi vướng nổ, rồi xe cháy... Ông Hạnh là thương binh 4/4 đấy!
Tôi nhìn ông, thầm cảm phục một bậc nam nhi thời chiến.
   Đọc bảng vàng thành tích được ghi trong cuốn sách vinh danh hơn một nghìn anh hùng lực lượng vũ trang trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc, chống Pháp và chống Mỹ, tôi được biết đầy đủ hơn về người anh hùng này:
    "Anh hùng Nguyễn Quang Hạnh sinh năm 1941, dân tộc Kinh, quê ở xã Hải Đường, huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định. Khi được tuyên dương anh hùng, đồng chí là đảng viên, thiếu úy, đại đội trưởng đại đội I ô tô vận tải, thuộc tiểu đoàn 59, trung đoàn 35, Đoàn 471, Bộ tư lệnh Đoàn 559. Nguyễn Quang Hạnh làm nhiệm vụ vận chuyển trên tuyến đường phía nam sông Bạc từ năm 1967 đến năm 1972. Trong 2 năm 1968, 1970, Nguyễn Quang Hạnh thường vượt định mức 25% trở lên. Ngày 2 tháng 11 năm 1967, trên đường vận chuyển, một xe kéo pháo bị máy bay địch bắn cháy, Nguyễn Quang Hạnh nhanh chóng lao vào dập lửa và cõng 2 thương binh đưa về nơi an toàn. Mùa khô năm 1968 - 1969, trên cung đường vận chuyển dài 120 km, anh là người đầu tiên đạt kỷ lục cao nhất của trung đoàn 35. Mùa khô sau đó, trong 60 ngày đêm tổng công kích của chiến dịch vận chuyển, anh chạy xe liên tục, không nghỉ đêm nào. Ngày 17 tháng 3 năm 1969, đoàn xe đơn vị đang chạy thì chiếc đi đầu bị trúng bom, lái xe bị thương. Nguyễn Quang Hạnh xung phong lái chiếc xe đó để thông đường. Khi xe chạy, 6 quả bom nổ chung quanh, anh vẫn chắc tay lái, cả đoàn xe 19 chiếc vượt qua bãi bom an toàn. Ngày 25 tháng 11 năm 1972, một chiếc xe chở xăng bốc cháy. Nguyễn Quang Hạnh không quản nguy hiểm, lái chiếc xe này tiến lên trước, đi vào đường tránh,  thu hút hỏa lực địch rồi chạy bộ trở lại chỉ huy đoàn xe chở người vượt qua trọng điểm. Đồng chí được tặng thưởng 1 Huân chương chiến công hạng nhì, 4 Huân chương chiến công hạng ba, 3 lần là chiến sĩ
quyết thắng, 5 lần là chiến sĩ thi đua, 18 bằng khen. Ngày 31 tháng 12 năm 1973,
Nguyễn Quang Hạnh được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân." (trang 60- tập II, sách đã dẫn).
        Trong cuộc "hội quân" những điển hình xuất sắc ở Hiền Ninh, Quảng Bình, tháng 10- 1973, đứng ở hàng đầu, Nguyễn Quang Hạnh được Đại tướng Tổng Tư lệnh bắt tay. Ông coi đây là một vinh dự lớn trong đời.
    Chúng tôi nối mạch câu chuyện "huyền thoại Trường Sơn" sau một tuần trà tại nơi sinh trưởng người trai xứ đạo anh hùng. Ông Hạnh bùi ngùi nhớ lại chặng đường qua với những kỷ niệm chưa phai mờ. Đó là trường hợp hy sinh của đồng chí Nguyễn Minh Châu, chính trị viên phó Tiểu đoàn 59, quê ở Nam Trực: “Ngày ấy, đầu mùa khô năm 1968, sau một đêm vận chuyển, trên đường đi ra, trời sáng, đơn vị phải giấu xe che mắt địch. Chiều, bọn thám báo đã "đánh hơi", gọi máy bay ném bom. Dứt đợt oanh kích của địch, 3 đồng chí công binh gọi anh Châu, cán bộ chỉ huy cùng đi kiểm tra hiện trường. Tôi ngăn anh, để tôi đi trước, nhưng anh  không chịu. Đến nơi giấu xe, anh Châu đụng bom bi vướng nổ. Lúc hy sinh, anh chết đứng, tựa vào cây rừng. Chúng tôi đỡ anh, đặt vào võng, đưa anh về giao cho bệnh xá Trạm 120, cạnh sân bay Chà Vằn, thuộc Binh trạm 35, Đoàn 559. Ảnh, giấy báo tử, cơ quan chính sách đã gửi về gia đình anh. Nay chỗ chôn không còn nhớ, mộ mất, gia đình anh mấy lần cất công đi tìm vẫn chưa thấy… Cũng năm 1969, sau ngày kết nạp Đảng, tôi được tin đứa con đầu đã bỏ chúng tôi mà đi. Năm 1970, mẹ tôi mất khi tôi đang ở chiến trường. Sinh thời, mẹ tôi thương quý con cháu biết chừng nào. Hai cụ sinh hạ 7 anh em, 3 trai 4 gái, tôi là trai trưởng, có một em gái là vợ liệt sĩ”.
  Tôi lựa lời hỏi thêm về ông cụ thân sinh. Ông Hạnh tiếp lời:
 “Ngày tôi được phong anh hùng, cán bộ xã đến nhà báo tin vui. Ông cụ mừng nhưng vẫn cứ bình thản như thường. Hôm tôi về, khi cha con bên nhau, cụ bảo "Anh được bề trên che chở, được quân đội rèn luyện nên người, thế là được". Cha tôi còn ở với con cháu đến tuổi chín mươi. Tôi ơn cha mẹ đã dạy dỗ cho các con tính tình ngay thẳng, độ lượng”. Ông Hạnh còn nhắc cả chuyện tao ngộ giữa Sài Gòn sau ngày giải phóng với bà dì, ông cậu, những người “đi B 54”, họ đều làm ăn lương thiện. Gặp họ, ông phải trả lời nhiều câu hỏi rất thật thà. Khi biết cháu mình là anh hùng lái xe quân đội, các vị ấy “ngộ” ra nhiều điều thật vui.
     Tháng 5-1975, Nguyễn Quang Hạnh được cử đi học văn hóa ở Lạng Sơn. Sau 2 năm học tập, được thăng hàm trung tá, Nguyễn Quang Hạnh về làm tham mưu phó, rồi tham mưu trưởng Trung đoàn 17, Binh đoàn 12 - đơn vị nhận lệnh vận chuyển vật tư kỹ thuật xây dựng tuyến đường  279 trên phòng tuyến biên giới phía bắc, hoàn thành vượt mức khối lượng được giao. Nguyễn Quang Hạnh được đề bạt làm trung đoàn trưởng Trung đoàn 17, chỉ huy đơn vị triển khai đồng thời 2 nhiệm vụ: củng cố quốc phòng và phát triển kinh tế. Rồi ông được cử làm giám đốc xí nghiệp cung ứng vật tư vận tải thuộc Tổng Công ty xây dựng Trường Sơn. Lại có thời gian làm chỉ huy đơn vị bộ đội thi công san lấp mặt bằng xây dựng ở Thủ đô. Quản lý người, vật tư kỹ thuật với hàng trăm phương tiện vận tải, máy móc chuyên dụng, Nguyễn Quang Hạnh thể hiện một năng lực điều hành vững vàng, một phẩm chất liêm chính của người cán bộ quân đội thời mở cửa. Không thu vén lợi lộc cho cá nhân, gia đình mình, không nhận những thứ không phải của mình. Ông là người chỉ huy biết chăm lo đến đời sống cán bộ chiến sĩ, quan tâm giúp đỡ những gia đình đồng đội gặp khó khăn.
      Bà Nguyễn Thị Lụa, phu nhân của ông là một trong những người phụ nữ chuyên cần, đảm đang ở xứ đạo Nam Đường. Hơn ba mươi năm ông tại ngũ, ở nhà, bà chăm lo nuôi nấng các con nên người. Ông bà có 2 hai con trai nối nghiệp cha, người anh sau 17 năm quân ngũ, nay đang cùng vợ con sống ở Hà Nội. Người em là sĩ quan, đang công tác tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Nam Định. Cô gái cả cũng có một gia đình yên ấm thuận hòa ở gần nhà bố mẹ. Nhớ lại những tháng năm Trường Sơn, những đêm thao thức trên cánh võng  bên bờ sông Bạc, lắng nghe tin quê nhà qua sóng phát thanh. Hải Hậu ngày ấy là  "đất đầu sóng" trên phòng tuyến biển tỉnh Nam Định đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại của máy bay Mỹ. Người người "tay lưới tay súng" ra khơi vào lộng, "tay cày vai súng" trên đồng ruộng thâm canh. Ông thương người vợ hiền vất vả tối ngày lại còn lo cả cho người đang ở chiến trường xa.
     Rời quân ngũ ở tuổi 55, đại tá Nguyễn Quang Hạnh về sinh hoạt ở chi bộ, nơi ông mang theo giấy giới thiệu cảm tình Đảng thẳng tới chiến trường, thực hiện lời hứa thiêng liêng một cách trọn vẹn trong ngày trở về. Là thành viên chi hội Cựu chiến binh, Hội truyền thống Trường Sơn của địa phương, ông chu đáo mọi việc được tham gia, gương mẫu góp công vào việc xây dựng nông thôn mới ở quê nhà. Lối sống  khiêm nhường, tác phong sinh hoạt giản dị, chân thành, ông được mọi người ở quê hương quý trọng.                      
    Trong các buổi sinh hoạt của đội Ca đoàn xứ đạo Nam Đường, ông Trùm xứ đạo thường hay mời đại tá Nguyễn Quang Hạnh lên giáo đường kể chuyện rèn luyện phấn đấu, những thử thách ở chiến trường Trường Sơn, phía nam sông Bạc. Đấy là niềm vinh dự của chiến công với những gian khổ hy sinh, hun đúc nên phẩm chất "anh bộ đội Cụ Hồ" trong tình đồng đội đồng chí bền chặt, trong mối cảm tình đặc biệt của nhân dân  các bộ tộc Lào anh em.
     Năm 2015, đại Tá Nguyễn Quang Hạnh được bầu là chủ tịch Chi hội Truyền thống Trường Sơn huyện Hải Hậu, một chi hội mạnh trên miền quê biển anh hùng.               
(Báo Nhân Dân cuối tuần số 36 (1386) ngày 6-9-2015)                              
                Phạm Trọng Thanh



Người lính đặc công quả cảm nghĩa tình với bầu bạn quốc tế

      Nhân ngày vui liên hoan - mừng thiếu tướng Hoàng Kiền được Chủ tịch nước tặng giải thưởng Hồ Chí Minh - đồng tác giả cụm công trình khoa học phòng thủ trên quần đảo Trường Sa (1976 - 2011). Buổi ấy, thượng tá Trần  Thanh Tú - Chủ tịch Hội Cựu Chiến Binh Hải quân huyện Hải Hậu, phó Chủ tịch hội Truyền thống Trường Sơn Hải Hậu giới thiệu với chúng tôi: đ/c Đỗ Quốc Trịnh - người Cựu chiến binh xã Xuân Ninh, Xuân Trường Nam Định, dũng cảm trong chiến đấu, về quê hương năng nổ trong sản xuất làm giầu cho gia đình, đóng góp với xã hội. Ngày hôm sau hai người lính già - tôi và anh Phạm Trọng Thanh (là hội viên hội Nhà Văn Việt Nam) từ thành phố Nam Định đi đường 21 qua cầu Lạc Quần tới xã Xuân Ninh, vào nhà anh Đỗ Quốc Trịnh. Hai anh chị đón tiếp chúng tôi niềm nở. Bàn tiếp khách dưới tượng Chúa thiêng liêng. Đối diện với ban thờ là các khung kính trang trọng: huân chương các loại và một số bằng khen. Thoáng qua đã biết gia đình anh Trịnh kính Chúa yêu nước. Biết chúng tôi đang cần một số tư liệu thời chống Mỹ cứu nước, giúp nước bạn, anh kể cho tôi kỷ niệm sâu sắc một thời gian nan của đời mình:
      Năm 1966, học xong Phổ thông cấp 2, Đỗ Quốc Trịnh vào bộ đội (trung đoàn 83), huấn luyện ở Hòa Lạc rồi tham gia xây dựng sân bay Hòa Lạc. Quá trình xây dựng sân bay, Đỗ Quốc Trịnh làm việc trách nhiệm, có sức khỏe nên cấp trên chuyển sang đoàn đặc công K28, chiến đấu miền Đông Nam Bộ. Khoảng năm 1967 – 1968 Đỗ Quốc Trịnh tham gia đánh Đồng Soài, sân bay Minh Hòa, Phước Long, Bình Long. Ngày 18/3/1970 Lon Non đảo chính ông Quốc trưởng Xi Ha Núc. Ngày 24/3/1970 Mặt trận Dân tộc Cứu nước Cam Pu Chia được thành lập. Lực lượng bạn - quân khu 304 ban đầu có một tiểu đoàn, lớn mạnh dần. Theo yêu cầu của bạn, đơn vị đ/c Trịnh đánh sân bay Lăng Cò Bơ (quận Mi Mốt, tỉnh Công Pông Chàm), phá hủy 30 máy bay, tiêu diệt hơn 400 ngụy Lon Non. Lúc dó đ/c Trịnh làm nhiệm vụ “điều nghiên” (trinh sát), vào tận hang ổ của địch vẽ sơ đồ, báo cáo với cấp trên. Đánh tiếp sân bay Công Pông Chàm. Chẳng may trời mưa tầm tã. Một mũi đặc công vào được. Ở phía khác, hai mũi không thể vượt nước lũ của con sông ôm lấy sân bay. Chờ mãi không thấy lệnh phát hỏa, gần sáng, mũi xung kích (vào trước) lợi dụng địa hình địa vật, nhảy xuống các hố pháo (do ta bắn vào hôm trước), kéo lá cây và cỏ héo che lên người. Thấy dấu vết người vào sân bay, chúng lùng sục gắt gao. Hố chúng tôi ẩn chỉ cách đường băng khoảng 15 đến 20 mét, mà chúng không phát hiện ra. Chúng chỉ đi tuần tra trên bờ chửi đổng bâng quơ, chẳng lùng sục dưới hố bom, hố pháo làm gì. Năm ngày, chúng kiểm tra cả ngày lẫn đêm, chúng tôi không thể nào ra được. Cái đói cái khát hành hạ ghê gớm. Phải lấy nõn cỏ nhai, dưỡng sức để về với đồng đội, bà con. May mắn cho chúng tôi: vớ được một số hộp sữa bò dưới hố, dùng tạm sữa còn sót ở đáy hộp, kéo dài sự sống, chờ ngày trở về. Năm hôm liên tục bị vây hãm trong vòng vây địch. Tối thứ sáu, chúng lơ là. Anh em bò ra khỏi vòng vây giây thép gai, về hậu cứ. Đúng là từ địa ngục trở về. Già làng Khơ Me thấy chúng tôi về, gọi bà con đến chia vui. Già làng sai các con nấu cháo, quạt hơi cháo vào mũi chúng tôi, tỉnh dần, sau đó bón từng thìa, không cho ăn vội vã (tránh bội thực).
 Nuốt được năm thìa cháo, mồ hôi tứa ra đầm đìa. Nghỉ một chốc. lại ăn. Nếu không có kinh nghiệm cứu chữa, thì chúng tôi đã về với Tổ Tiên rồi. Xa quê hương, bố mẹ; nay có già làng - người bố mẹ thứ hai chăm sóc, còn gì hạnh phúc bằng!  
      Nghỉ ngơi cho khỏe, rồi đánh chốt Tà Ong, đánh sập cầu Công Pông Thơ Mo, cản quân tiếp viện (cầu này nằm giữa tỉnh Công Pông Chàm và tỉnh Công Pông Thom). Cuối 1971 đánh thị trấn Sa Tôm (Công Pông Thom) sát tỉnh Xiêm Riệp.
        Năm 1970 giải phóng phum Tà Ong, một kỷ niệm, anh không thể nào quên, bộ đội ta giải phóng cho một cháu gái tên là Ái người Cam Pu Chia gốc Việt 14 tuổi thoát khỏi vòng tay một lão già ích kỷ hiểm độc - sa thải người vợ già, bắt cháu Ái là con gái riêng của vợ làm vợ thứ hai của mình.
      Cuối 1971 đánh thị trấn Sa Tôm (Công Pông Thom) sát tỉnh Xiêm Riệp.
      Tôi hỏi: “Anh tham gia đánh nhiều trận, trận nào... anh có kỷ niệm sâu sắc nhất? Đỗ Quốc Trịnh không thể nào quên trận đánh năm ấy. Ngày 12/12/1972 cấp trên triệu tập 9 đ/c bộ phận “điều nghiên”, giao nhiệm vụ: vào chốt núi Ba Khèn (trước đền Ăng Co), vẽ sơ đồ, đưa về, đắp sa bàn. Nửa đêm, đầu đội mũ đặc công (ôm gọn mái tóc trên đầu), mặc quần đùi, dùng đất nâu đỏ, bột mầu xanh  trộn với mỡ lợn (làm chất kết dính) trát đầy người, hóa trang hợp với mầu sắc địa hình - nơi anh và đồng đội sắp bò qua. Đặc công chúng ta phải hòa nhập như thế mới chiến thắng được bọn Lon Non. Bộ phận chia làm ba mũi, mỗi mũi 3 người tiến vào chốt, bí mật bất ngờ.... Đèn pha sáng suốt đêm, “điều nghiên” ta bò sát hàng rào, cắt giây thép gai, chống giây thép gai lên, tiến dần. Bỗng thấy một quả mìn phía trước, Đỗ Quốc Trịnh cầm chắc lấy, khóa chốt lại, để lăn lóc chỗ cũ, nó chẳng tác oai tác quái được nữa, tiếp tục cắt giây thép gai, rồi trườn vào hướng hang ổ địch. Phát hiện quả mìn thứ hai... quả mìn thứ ba, anh tiếp tục vô hiệu hóa, bò dần vào trong chốt . Bọn địch ngủ như chết. Ba mũi trinh sát gặp nhau, rất phấn khởi, mà vẫn phải im lặng.Ghi vào trong óc từng mục tiêu: chỗ này lô cốt, chỗ kia giặc ngủ, nơi khác kho súng đạn, hỏa lực đại liên, trung liên, xe tăng, hầm trú ẩn, lương thực thực phẩm...Quan sát xong, mũi trinh sát rút ra, những cây cỏ là là mặt đất cao 15- 20 cm đổ rạp (do bị đặc công đè lên) dựng lại ngay ngắn, kéo giây thép gai lại như cũ, tránh địch phát hiện có Việt cộng bò vào. Ngày hôm sau, tổ đặc công đắp sa bàn, báo cáo cấp trên, cả đơn vị  đến quán triệt, định phương án tác chiến. Đêm hôm sau một trung đội đặc công (27 đ/c) dưới sự chỉ huy trực tiếp của đại đội trưởng Nguyễn Văn Hiến (người Nghệ An) chia làm ba mũi, mang theo dao găm, thủ pháo, B40, B41... bò theo lối đi mà trinh sát đã tiến vào... tối hôm trước (mìn đã vô hiệu hóa, không lo bị thương vong). Đến giữa chốt, giặc vẫn ngủ khò khò, đại đội trưởng ra lệnh. Một loạt thủ pháo phát nổ chát chúa. Những con rồng B40, B41 phụt lửa. Tiếng nổ đột ngột giữa hang ổ, giặc hốt hoảng không kịp cầm vũ khí, nhảy xuống hầm, liền bị ăn thủ pháo của ta. Lô cốt, hỏa điểm bay bắn tung tóe; bồn xăng, xe tăng bốc cháy ngùn ngụt. Ta dùng mưu kế: “đánh trong đánh ra, đánh nở hoa trong lòng địch”. 370 tên ngụy Lon Non bị tiêu diệt. Ta đánh lướt qua, rồi đánh lại (gọi là tảo trừ). Số chưa chết... bị bắt hết, giao cho quân đội bạn. Trước khi đánh, đ/c Nguyễn  Ngọc Thảo - trung đội trưởng được cấp trên xây dựng thành hạt nhân để phong anh hùng, chưa có quyết định thì đ/c vấp mìn địch, hy sinh, các đ/c khác vô sự. Đỗ Quốc Trịnh  bị thương hai chỗ, mảnh thủ pháo vào phần mềm (ở tay, vai). Điều trị khỏi, anh lại tiếp tục làm nhiệm vụ “điều nghiên”. Đánh xong, đặc công giao cho quân khu 304 (Cam Pu Chia - ký hiệu riêng là K đỏ), giao cho bên ta: đoàn 500 (của đường giây 559) và đoàn bộ binh quân khu C40. Đ/c Đặng Vũ Hiệp - Tư lệnh phó miền Đông Nam bộ kiêm chính ủy quân khu C40, đ/c Đức - Tư lệnh phó quân khu C40, rất phấn khởi đến tiếp thu chiến lợi phẩm, thu dọn chiến trường
      Sau khi đánh chốt Ba Khèn, đánh tiếp sân bay Xiêm Riệp. Mìn và giây thép gai dầy đặc bảo vệ sân bay. Một đêm, 30 máy bay nổ cháy đỏ rực khoảng trời Cam Pu Chia, xác giặc ngổn ngang (khoảng 200 tên). Giao lại cho quân khu 304 của bạn, đoàn C40, đoàn 500 của ta thu dọn chiến trường. Đ/c Trịnh lại bị thương 2 vết  phần mềm (vào lưng, vào chân). Đặc công chúng ta xuất quỷ nhập thần, chúng không kịp trở tay, lúc đó có tin đồn đại địch mặc cả với ta: Nếu Việt cộng không đánh đặc công thì Mỹ không dùng B52
    Chiến thắng nối tiếp chiến thắng. Thời gian sau, 83 bộ đội đặc công tiêu diệt gọn 930 tên địch tại chốt Tà Chí (tỉnh Công Pông Chơ Năng)
      Quân ta phá cầu Tà Trí, cắt đường viện trợ từ Ph Nông Pênh đến Công Pông Chơ Năng. Xóa sổ chốt Phum Ruột, Phum Cô. Mấy đ/c bị thương nhẹ. Đồng chí Trịnh bị thương 2 vết: ngón thứ ba bên phải, ngón cái bên trái đứt gân (nay ngón tay đó bị ngoẹo), một vết trên đầu. Trong 1 tháng, giặc rất lúng túng, chúng dồn hết lực lượng, chuyển các thiết bị từ  Tân Cảng Sài Gòn đến..sửa cầu. Rồi ba giờ chiều cuối tháng 12/1972 hoàn tất. Bốn giờ sáng sớm hôm sau 200 xe chở vũ khí lương thực từ Ph Nông Pênh ung dung chuyển bánh về phía Công Pông Chơ Năng, phục vụ các tỉnh Đông bắc Cam Pu Chia. Đặc công ta dùng thủ pháo và B40, B41 với kỹ chiến thuật chốt đầu khóa đuôi tiêu diệt 195 xe (5 xe đi đầu chạy thoát vào thị xã Công Pông Chơ Năng). Địch ở nơi khác phản pháo, quả đạn nổ bên cạnh, Đỗ Quốc Trịnh bất tỉnh. Hôm sau mở mắt, thấy nhiều áo trắng lảng vảng quanh anh. Đầu tê váng, chân tay mỏi nhừ, thân bải hoải, anh tự hỏi: những người mặc áo trắng kia là họ hàng thân thuộc đang đưa ma mình à? Câu hỏi ấy tan biến ngay... khi thấy họ nói với nhau: “anh Trịnh sống rồi”, lúc đó Đỗ Quốc Trịnh mới biết mình bị thương, từ cõi chết trở về. Đ/c tiểu đòan trưởng Phạm Thơ vào viện phấn khởi thấy Trịnh bình phục. Đơn vị đặc công xứng đáng 16 chữ vàng: “đặc biệt tinh nhuệ, anh dũng tuyệt vời, mưu trí sáng tạo, đánh hiểm thắng lớn”
      Đầu năm 1973 anh Trịnh được cấp trên cho đi học lớp quân y ở quân khu C40 tại Công Pông Thom.
      Cuối năm 1973 do yêu cầu của quân đội, Đỗ Quốc Trịnh vui vẻ nhận sự phân công làm trợ lý tài vụ tại phòng Quản lý xăng xe miền Đông Nam Bộ (tức phòng 8 Cục Hậu Cần miền Đông Nam Bộ). Ở đây, Đỗ Quốc Trịnh gặp lại cháu Ái ( người được bộ đội ta giải thoát khỏi vòng tay của lão già ích kỷ hiểm độc). cháu thành nữ chiến sĩ Giải phóng quân dũng cảm, công tác tại phòng quân nhu Tổng cục Hậu cần.
      Tôi hỏi tiếp về quan hệ giữa bộ đội ta với nhân dân bạn? Anh vui vẻ kể:
    Thời kỳ đầu bộ đội ta đến, nhân dân Cam Pu chia sợ sệt. Trên  đường, đồng bào gặp chúng tôi, họ quỳ xuống ôm khăn mũ vào ngực, cúi rạp người, nói: “Lục thum ạ” (chào ông lớn ạ). Đ/c biết tiếng Cam Pu Chia giải thích cho họ về đường lối chính sách của ta:nhằm đòan kết hai dân tộc giành độc lập, chống Lon Non thân Mỹ. Chúng ta bình đẳng với nhau, không phải quỳ xuống “Lục thum” nữa. Từ đó bộ đội ta với đồng bào Khơ Me hòa quyện nhau như cá với nước. Chúng tôi ở chung với dân bản... được già làng quan tâm trong sinh hoạt rất chu đáo. Chúng tôi nói với già làng: chúng con tự lực được trong đời sống hàng ngày. Xin đừng phiền bà con. Các cô gái rất quý bộ đội Việt Nam. Mấy chúng tôi trở thành học trò ngoan của cô gái Khơ Me dạy tiếng đất nước Chùa Tháp. Ánh mắt và tiếng nói là sợi giây vô hình níu buộc con người lại với nhau! Đồng bào tặng bộ đội hoa quả: soài (tơ lê sa vai), dừa (tờ lê đoong), chuối (tờ le chuếch), gà (côn mon), vịt (côn pia), có khi tặng con lợn to (côn chu rúc). Khi thu dọn chiến trường, tiếp thu chiến lợi phẩm, sẵn có lương thực, ta giúp đỡ cho đồng bào nghèo khó trong phum.
      Đ/c Đỗ Quốc Trịnh nhớ rất rõ trong một buổi tối liên hoan: bộ đội ta và nhân dân phum (làng) quây quần xung quanh đống lửa bập bùng. Đông lắm, khoảng 200 người. Đồng bào ca hát, đàn nhạc. Chúng tôi được thưởng thức nghệ thuật bản sắc dân tộc “Chăm riêng chà pây” trên quê hương thứ hai của chúng tôi - đất nước chùa Tháp. Thế rồi hai bên cùng hát chung, múa chung điệu Lâm thôn. Bỗng Già làng nói: “Anh hát cho đồng bào nghe (Boòng chà riêng oi pờ chi chuân lư phoòng)”. Đỗ Quốc Trịnh hát bài “Tính sao”: (lời Đỗ Quốc Trịnh, nhạc dân gian Cam Pu chia - gần giống điệu Lăm Tơi - Lào): “bố mẹ ơi, con chưa có vợ đâu (Puc me ơi, con ót miên pờ buôn); bố mẹ ...tính sao? (Púc me... ... cứt giang mếch)” Một cô gái Khơ Me tinh nghịch trả lời: “Ả lưng boòng, choòng dô nẹ na (bây giờ anh muốn lấy người nào?)”. Trịnh hóm hỉnh trả lời: “Anh em bộ đội giải phóng Việt nam  ..quen biết... lấy hết (Boòng ôn công tóp dùm ro Việt Nam, sa co dô từng o)”. Tất cả đều cười, vui vẻ.
      Đỗ Quốc Trịnh quên sao được hình ảnh bà con vui mừng đón bộ đội ta chiến thắng, trở về an toàn. Một hôm cô gái trẻ Khơ Me nói nhỏ với Trịnh: “Nức bòn chờ rờn (nhớ anh nhiều lắm)”. nàng dấu bố mẹ, trao cho anh tấm ảnh và nói: “ôn nức... ngay ót xi dục ót đết (em nhớ... ngày không ăn, đêm không ngủ)”. Trước một cô gái chân chất có duyên, nói năng dịu dàng, lòng Đỗ Quốc Trịnh xao xuyến, tránh sao khỏi thầm yêu trộm nhớ. Đỗ Quốc Trịnh nhận quyết định về công tác tại Việt Nam (về Phòng Quản lý xăng xe miền Đông Nam bộ). Khi chia tay bà con, các mẹ  các chị bịn rịn... lau nước mắt. 
      Tháng 12/1976 anh được quyết định phục viên  hưởng chế độ thương binh, bệnh binh, chất độc da cam. Lúc rời quân ngũ, tài sản: chiếc ba lô, một khung xe đạp, một chiếc đài bán dẫn. Bố mẹ anh nghèo lắm, sinh hạ 7 con, anh không được mảnh đất cắm dùi. Đỗ Quốc Trịnh bán chiếc đài được 450 đồng , lấy tiền cho em út đi học  (các anh em khác đã thành gia thất cả rồi), và mua vành bánh, xăm lốp... dựng nên một chiếc xe đạp, cho em út đi học. Lúc đó, đời sống nhân dân rất khó khăn: lúa bị rầy nâu phá hoại, cả làng phải ăn “sắn cõng gạo”. Đỗ Quốc Trịnh  lao vào canh tác theo mô hình VAC và còn làm đủ mọi việc: khám chữa bệnh cho bà con (người nào nghèo, khám chữa bệnh, không nhận tiền thù lao), làm ruộng, làm vườn, đi thiến lợn, thiến gà... Mỗi chuyến đi thiến một trang trại lợn (có từ 30 đến 50 con) được hàng trăm đồng tiền công. Ba chuyến như vậy, anh mua được một cái xe đạp Thống Nhất (lúc đó xe đạp rất hiếm, cả làng chỉ có một vài chiếc). Bàn tay cần cù chịu khó của anh... làm vườn - vườn xanh tốt; làm ruộng - lúa mẩy bông cho năng xuất cao. Anh cải tiến kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp. thực hiện đầu tiên trong xã “lúa tráo mạ” (nhổ xong mạ, vãi phân đủ, trồng luôn lúa không để đất nhàn rỗi). Khi cấy lúa, mỗi khóm chỉ 3 đến 5 rảnh, ( nhiều rảnh quá sẽ bị “ung thối”, anh bón lót 70% phân, bón thúc 30%  phân (như vậy khi lúa bén rễ, phát triển rất nhanh, năng xuất cao, nơi “lúa tráo mạ” cấy muộn, nhưng gặt sớm) Vườn trồng sắn giây, sáu khấu - một lần thu hoạch 33 cân bột sắn (9 khấu đất bằng 1 miếng đất), số lượng bột sắn đó quy ra thóc được 6, 3 tạ thóc. Có vồng sắn kỷ lục, cả làng đến xem. Đạt được kết quả đó, anh chăm bón rất kỳ công: băm chuối trộn phân lợn đổ xuống hố, móc bùn trùm lên, tra giây sắn xuống. Năm thứ hai trồng sắn , anh lại thay đất khác. Anh không để thời gian lãng phí, làm vườn xong, một mình đào ao thả cá. Ngày ngày, anh cởi trần, tay cầm cán mai, chân nhấn vai mai. Bẩy liên tục được 10 tảng đất (mỗi tảng nặng 70 - 80kg). Bỏ mai ra, vác đất lên vai, đưa lên bờ.
      Tôi hỏi: “Nặng thế, anh vác sao nổi”. anh trả lời: “lúc đó, khỏe lắm, 70 – 80kg vác ... đi nhẹ nhàng. Mồ hôi nhễ nhại, bàn chân và đôi tay sưng rộp, anh không nản. Cứ thế, một tuần đào xong ao. Một mình đào ao, khách ngạc nhiên, đến xem đông. Báo Nông Nghiệp Hà Nam Ninh đăng tin: “Muôn cách làm giầu – làm giầu muôn cách” ca ngợi cách làm ăn của anh
      Cách làm của anh: “lấy ngắn nuôi dài” để phát triển kinh tế, không phải vay ngân hàng một đồng. Nhà nước mở cửa, tạo điều kiện doanh nghiệp phát triển. Đỗ Quốc Trịnh mua đất cạnh sông Ninh, mở xưởng đóng tầu vỏ thép, tạo  làm ăn cho hàng trăm người.
     Nghề đóng tầu gặp khó khăn, anh quay sang mở công ty Sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng và kinh doanh đầu tư thương mại, bán sắt thép xi măng, gạch ba banh. Hiện nay công ty có khoảng 30 công nhân, hai cẩu sàn, 4 cần cẩu quay, 2 máy xúc (1 xúc đào, 1 xúc lật), một đội xe tải (8 chiếc xe). Mỗi khi khách hàng: “A lô, đưa vật liệu... “, đội xe phục vụ ngay. Hiện tại                                                                                                     doanh số công ty: có khoảng 4, 9 tỷ đồng 
      Người bạn đời của anh – chị  Lê Thị Bính là phụ nữ rất đảm đang, luôn bàn kế hoạch kinh doanh, nuôi dạy con cái chu đáo. Các con anh đều thành đạt.
       Con Đỗ Cao Nguyên đi bộ đội, nay trở về làm công việc kinh doanh trong gia đình Ba người con tốt nghiệp đại học (Đỗ Quốc Hiệu, Đỗ Văn Hóa, Đỗ Thị Ngọc) đều có vị trí trong xã hội                                                                                                                                       
      Khi ăn nên làm ra, công ty ủng hộ các nạn nhân chất độc da cam, tạo điều kiện cho đồng chí đồng đội, bà con  có công việc, ổn đình đời sống. Đỗ Quốc Trịnh tìm  đồng đội chiến đấu năm xưa ở chiến trường, chia sẻ vui buồn với nhau. Đoàn đặc công 117 đa số nghèo, lại bị bệnh tật, thương tật, thỉnh thoảng họp tại nhà anh thường vào ngày 30/4. Hội Truyền thống trung đoàn 83 họp mặt liên hoan ngày 1/1 đầu năm và ngày 19/8 cũng tại nhà anh, anh sẵn sàng tài trợ. Mỗi khi họp mặt đ/c nào khó khăn quá, Đỗ Quốc Trịnh sẵn sàng giúp đỡ (tài trợ cho các đ/c: đ/c Quý – đặc công chuyển ngành làm chi cục phó chi cục thuế Uông Bí - Quảng Ninh, đ/c Thắng đặc công quê ở Hải Phòng – vợ liệt 7 năm ... ). Đoàn 117 sinh hoạt ở miền Bắc kể từ Nghệ An trở ra chỉ còn 9 người (một số hy sinh, một số bệnh tật, già cả qua đời). Anh nhắc lời Bác Hồ cho con cháu hiểu ý nghĩa cuộc đời: “Trung với Đảng. Hiếu với dân. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành. Khó khăn nào cũng vượt qua. Kẻ thù nào - cũng đánh thắng” “Trong chiến trường, bố đã làm tròn nghĩa vụ đối với đất nước. Về đời thường, nhà ta đã đóng góp với quê hương. Nhiều đ/c của bố còn nằm trên đất bạn, bố may mắn còn sống, thật hạnh phúc vô cùng cho nhà ta... có ngày hôm nay. Chúa dạy chúng ta  “phải có lòng thương yêu mọi người” . Nhà mình có điều kiện thì đóng góp giúp đỡ người khó khăn. Kính Chúa và yêu nước  gắn liền với nhau” Đỗ Quốc Trịnh nhắc nhở các con.
      Đ/c được tặng thưởng huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng 2, Huân chương giải phóng hạng 1, hạng 2, hạng 3, huân chương chiến công hạng 2
      Đ/c Đỗ Quốc Trịnh luôn là Cựu Chiến binh mẫu mực, đại diện đoàn Đặc công 117 đi dự lễ kỷ niệm 60 năm ngày giải phóng Điện Biên (báo QĐND đăng...)
      Đ/c xứng đáng danh nghĩa anh bộ đôi Cụ Hồ./.
                                                               
 Ngày 20/8/2017 
Vương Văn Kiểm


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét