Vào
thế kỷ XIII, trong 30 năm (1258 – 1288) quân dân nhà Trần đã ba lần đại thắng
Nguyên Mông, viết lên trang sử vàng chói lọi của dân tộc. Vì sao và bằng cách
nào mà nước Đại Việt nhỏ bé, quân ít, dân không đông, tiềm lực có hạn lại đánh
thắng một đội quân xâm lược khổng lồ, hùng mạnh và tàn bạo nhất trong lịch sử,
có trang bị mạnh, từng chinh phục đại bộ phận lục địa từ Á sang Âu? Để lý giải
triệt để điều này, các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước vẫn tiếp tục phân
tích ngày càng rõ ràng hơn. Một trong những lý giải cho điều đó là Đại Việt đã
vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự “Dĩ đoản (binh), chế trường (trận)” mà Quốc Công
Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn đã tổng kết.
Năm
1300 Trần Quốc Tuấn ốm nặng, vua Trần tới thăm và hỏi ông về kế sách giữ nước.
Trần Quốc Tuấn đã đúc kết kinh nghiệm trong suốt cuộc đời đánh giặc giữ nước
của mình một cách súc tích:
-
“Ngày xưa Triệu Vũ dựng nước, vua Hán cho quân đánh, nhân dân làm kế thanh dã (1), đại quân ra Khâm Châu,
Liêm Châu đánh vào Trường Sa, còn đoản binh thì đánh úp phía sau. Đó là một thời.
Đời Đinh, Lê dùng được người tài giỏi, đất phương Nam mới mạnh mà phương Bắc
thì mệt mỏi suy yếu, trên dưới một dạ, lòng dân không lìa, xây thành Bình Lỗ mà
phá được quân Tống. Đó lại là một thời. Vua Lý mở nền, nhà Tống xâm phạm địa
giới, dùng Lý Thường Kiệt đánh Khâm, Liêm, đến tận Mai Lĩnh là vì có thế.
Vừa
rồi Toa Đô, Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây. Vì vua tôi đồng tâm, anh em hoà mục, cả
nước nhà góp sức, giặc phải bị bắt. Đó là trời xui nên vậy. Đại khái, nó cậy
trường trận, ta dựa vào đoản binh. Dùng đoản chế trường là sự thường của binh
pháp. Nếu chỉ thấy quân nó kéo đến như lửa, như gió thì thế dễ chế ngự. Nếu nó
tiến chậm như cách tằm ăn, không cầu thắng chóng, thì phải chọn dùng tướng
giỏi, xem xét quyền biến, như đánh cờ vậy, tuỳ thời tạo thế, có được một đội quân
một lòng như cha con thì mới dùng được. Vả lại, khoan thư sức dân để làm kế sâu
rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước vậy”. (2)
Trần
Quốc Tuấn cũng từng dạy: “Phàm đánh trận thì đánh chỗ tĩnh yếu, lánh chỗ tĩnh
mạnh; Đánh chỗ nhọc mệt, lánh chỗ nhàn rỗi; Đánh chỗ sợ lớn, lánh chỗ sợ nhỏ;
Đó là đạo lý từ xưa nay vậy”... “Phàm hay lấy ít mà thắng nhiều, lấy yếu mà
địch mạnh, lấy nhỏ mà chế lớn, thế mới gọi là thiện chiến”. (3)
Theo
tinh thần câu nói trên của Trần Quốc Tuấn, ta có thể hiểu:
- Đại quân là quân lớn, quân đông, tức trường trận dùng để đánh những trận lớn.
- Đoản binh là quân nhỏ, quân ít dùng để đánh tập kích và phục kích.
- Đại quân là quân lớn, quân đông, tức trường trận dùng để đánh những trận lớn.
- Đoản binh là quân nhỏ, quân ít dùng để đánh tập kích và phục kích.
Từ
thực tiễn cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông của quân dân nhà Trần hồi thế kỷ
XIII, ta có thể hiểu dĩ đoản chế trường là dùng lực lượng bộ binh nhỏ bé của
Đại Việt để chế ngự kỵ binh hùng mạnh của quân Nguyên, bằng cách tránh cái mạnh
của địch là tác chiến kỵ binh, công phá thành, đánh trên bộ... đồng thời lợi
dụng và khoét sâu cái yếu của địch như thuỷ chiến, cướp lương, buộc địch phải dàn
mỏng lực lượng trên địa bàn nhiều sông ngòi lầy thụt mà không phát huy được thế
mạnh để tiêu diệt chúng.
Tóm lại, thực chất của tư
tưởng quân sự dĩ đoản chế trường của Trần Quốc Tuấn là dùng nhỏ đánh lớn, lấy
ít địch nhiều, lấy yếu đánh mạnh, dùng trang bị kém đánh đối phương có trang bị
mạnh, phát huy mặt mạnh của ta, hạn chế mặt mạnh của địch để đánh thắng chúng.
Tư
tưởng chỉ đạo tác chiến dĩ đoản chế trường được thực hiện trong suốt lịch sử
chống ngoại xâm của dân tộc ta và là một biểu hiện độc đáo của trường phái quân
sự Việt Nam.
Nước ta đất không rộng, người không đông, tiềm lực dựng nước và giữ nước hạn chế, lại luôn luôn phải đối phó với sự xâm lăng của quốc gia phong kiến phương bắc lớn mạnh hơn hẳn. Muốn đứng vững, tồn tại và phát triển với tư cách là một nước độc lập tự chủ, không bị đồng hoá, không bị thôn tính và biến thành nước chư hầu của phong kiến phương Bắc, cộng đồng người Đại Việt phải đoàn kết chặt chẽ, lựa chọn kế sách, tìm ra nghệ thuật giành thắng lợi trước kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần. Dĩ đoản chế trường là một sáng tạo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam được hình thành từ thời Đinh, Lý đến thời Trần, được Trần Quốc Tuấn tổng kết, khái quát, vận dụng và phát triển với chất lượng mới. Thực tiễn ba lần đại thắng Nguyên Mông là một điển hình cho sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả tư tưởng dĩ đoản chế trường của Trần Quốc Tuấn.
Nước ta đất không rộng, người không đông, tiềm lực dựng nước và giữ nước hạn chế, lại luôn luôn phải đối phó với sự xâm lăng của quốc gia phong kiến phương bắc lớn mạnh hơn hẳn. Muốn đứng vững, tồn tại và phát triển với tư cách là một nước độc lập tự chủ, không bị đồng hoá, không bị thôn tính và biến thành nước chư hầu của phong kiến phương Bắc, cộng đồng người Đại Việt phải đoàn kết chặt chẽ, lựa chọn kế sách, tìm ra nghệ thuật giành thắng lợi trước kẻ thù mạnh hơn gấp nhiều lần. Dĩ đoản chế trường là một sáng tạo trong nghệ thuật quân sự Việt Nam được hình thành từ thời Đinh, Lý đến thời Trần, được Trần Quốc Tuấn tổng kết, khái quát, vận dụng và phát triển với chất lượng mới. Thực tiễn ba lần đại thắng Nguyên Mông là một điển hình cho sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả tư tưởng dĩ đoản chế trường của Trần Quốc Tuấn.
Trần
Quốc Tuấn đã chỉ rõ, muốn đánh thắng giặc Nguyên, phải “khoan thư sức dân làm
kế sâu rễ bền gốc”, phải đề cao tinh thần cố kết dân tộc, quân với dân một ý
chí, tướng sĩ như cha con, toàn dân đánh giặc. Để thực hiện được tư tưởng dĩ
đoản chế trường, lấy ít đánh nhiều, đòi hỏi quân đội phải tinh nhuệ, thiện
chiến. Trong việc xây dựng quân đội, Trần Quốc Tuấn coi trọng chất lượng hơn số
lượng. Ông từng nói: “Quân sĩ quý ở chỗ tinh nhuệ, không quý ở số đông. Dẫu đến
100 vạn quân mà như Bồ Kiên thì cũng làm được gì?” (4)
Chính
Trần Quốc Tuấn đã rèn luyện tướng sĩ theo nguyên tắc “quân quý tinh bất quý
đa”, nhờ vậy mà quân Trần đánh thắng quân Nguyên dù chúng đông hơn gấp nhiều
lần. Trần Quốc Tuấn từng soạn Binh thư yếu lược và sưu tập binh pháp các nhà,
làm thành Bát quái cửu cung đồ, đặt tên là Vạn Kiếp tông bí truyền thư để
truyền dạy binh pháp và luyện tập tướng sĩ. (5)
Trước
số lượng đông của đội quân xâm lược, Trần Quốc Tuấn không hề dao động. Ông chỉ
rõ vai trò của người làm tướng và binh lính tinh nhuệ trong chiến đấu: “Kể ra,
tướng là chí, ba quân là khí. Khí dễ động mà khó chế. Do tướng chế mà trấn tĩnh
thì sợ hãi có thể định, phản trắc có thể yên, trăm vạn quân có thể tiêu diệt được.
Chí ngay thẳng mà mưu có một, khí phấn khởi mà dũng gấp đôi thì thắng”. (6)
Rõ
ràng, trong việc xây dựng quân đội, Trần Quốc Tuấn coi trọng yếu tố tinh thần,
quân tinh nhuệ phải là đội quân có lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc
sâu sắc, phải biết biến lòng yêu nước thành hành động thiết thực. Ông đọc Hịch
tướng sĩ kêu gọi mọi người “huấn luyện binh sĩ, tập dượt cung tên, khiến cho
người người như Bàng Mông, nhà nhà đều là Hậu Nghệ; Có thể bêu đầu Hốt Tất Liệt
ở cửa khuyết, làm rữa thịt Vân Nam Vương ở Cảo Nhai ”. Ông chỉ rõ lợi ích thiết
thực của việc đánh giặc giữ nước, lên án những kẻ “lo làm giàu mà quên việc
nước”. Ông đòi hỏi quân sĩ phải đặt lợi ích dân tộc lên trên lợi ích cá nhân.
Ông nêu một tấm gương sáng về lòng trung thành với dân với nước, dẹp hiềm khích
gia đình để chiến thắng quân xâm lược. Quân sĩ nhà Trần đã thích lên cánh tay
hai chữ “Sát thát ” thể hiện quyết tâm không đội trời chung với giặc Nguyên.
Trong
nghệ thuật dĩ đoản chế trường của Trần Quốc Tuấn, vấn đề nổi bật là tránh cái
mạnh của địch, lấy cái mạnh của ta để đánh cái yếu của địch.
Quân
Nguyên Mông vốn quen với yên ngựa, cung tên từ khi năm, sáu tuổi, rất giỏi
chiến đấu bằng kỵ binh, cơ động nhanh, mạnh về tiến công phá thành luỹ. Đội
quân kỵ binh Nguyên Mông đã từng làm mưa làm gió từ á sang Âu mà không hề thất
bại. Ba lần xâm lược Đại Việt, nhất là lần thứ hai và ba, chúng dùng đội quân
viễn chinh thiện chiến đông gấp nhiều lần quân Trần. Đó là cái mạnh cơ bản của địch.
Nhưng vào đất Việt, chúng gặp phải những khó khăn không dễ gì khắc phục được
như đường xa mỏi mệt, vận chuyển lương khó khăn, thuỷ binh yếu kém, gặp địa
hình núi sông ngang dọc nên kỵ binh không thể phát huy ưu thế như tác chiến
trên thảo nguyên đồng cỏ. Đó là chỗ yếu cơ bản của địch.
Quân ta có đội tượng binh
nhưng cơ động chậm, khó thắng được kỵ binh địch, ta phải dùng bộ binh đánh kỵ
binh. Quân ta thông thạo địa hình, quen tác chiến trên sông và vùng ven biển, thuỷ
quân của ta mạnh hơn thuỷ quân địch, huy động toàn dân đánh giặc với tinh thần
cố kết dân tộc cao độ.
Tháng
12 – 1257 quân Trần đánh chặn quân Nguyên ở Bình Lệ. Mặc dù có đội tượng binh
chiến đấu ngoan cường và đích thân vua Trần chỉ huy, nhưng không thắng nổi kỵ
binh thiện chiến của giặc, quân Trần phải làm vườn không nhà trống, bỏ kinh
thành Thăng Long, rút về vùng Thiên Mạc. Khi quân Nguyên lâm vào cảnh thiếu
lương ăn, mất đi cái nhuệ khí ban đầu thì quân Trần phản công, thắng lớn trận
Đông Bộ Đầu, đánh tan cuộc xâm lược Đại Việt lần thứ nhất của quân Nguyên.
Tư
tưởng lấy nhàn chờ nhọc, dĩ đoản chế trường của Trần Quốc Tuấn hẳn đã manh nha
và hình thành từ cuộc kháng chiến chống Nguyên lần thứ nhất, để rồi được bổ
sung và hoàn chỉnh trong lần kháng chiến sau, khi Trần Quốc Tuấn đã toàn quyền
chỉ huy quân đội.
Trong
cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn tổ chức phòng
ngự có chiều sâu nhằm tiêu hao sinh lực địch và không để chúng đánh vu hồi, nếu
có thể thì chặn đứng giặc tại biên giới. Đích thân Trần Quốc Tuấn chỉ huy đánh
thắng trận đầu ở ải Nội Bàng, nhưng thế giặc hung hãn buộc quân ta phải lui về
phòng tuyến Vạn Kiếp, Bình Than, Phả Lại. Tháng 2 – 1285 quân Nguyên tăng cường
đội chiến thuyền lớn, tấn công quyết liệt. Quân ta chặn đánh gây cho địch nhiều
tổn thất, nhưng kéo dài tình trạng này sẽ không có lợi cho ta. Trần Quốc Tuấn
quyết định thực hiện kế “thanh dã” rút khỏi Thăng Long, lui quân về vùng Thiên
Trường để bảo toàn lực lượng, chờ thời cơ phản công. Giặc chiếm được kinh thành
rỗng không. Trần Quốc Tuấn đem 1000 chiến thuyền trở lại Vạn Kiếp đánh vào sau
lưng địch, làm cho Thoát Hoan phải kinh hoàng vì “bị treo lơ lửng ở giữa”. (7)
Như
vậy, từ phòng ngự chiến lược không thực hiện được, mau lẹ chuyển sang rút lui
chiến lược một cách tài tình, Trần Quốc Tuấn đã thực hiện được điều ông suy
nghĩ: “Vì là biết khó mà lui, lường thế không thể thắng được, bèn thu vén quân
mà rút lui, hơn là tiến mà mất vậy ”. (8)
Tư
tưởng này được thể hiện rõ rệt trong cuộc thoát hiểm tài tình vào tháng 3 –
1285, khi Trần Kiệm đầu hàng giặc ở Thanh Hoá, bỏ ngỏ phía Nam, làm cho quân
Trần lâm vào tình thế hết sức nguy cấp là nằm giữa hai gọng kìm của địch. Thoát
Hoan từ phía bắc đánh xuống Thiên Trường, Toa Đô từ phía nam tiến công Trường
Yên. Quân ta bí mật rút lui qua cửa bể Giao Hải ra biển, làm cho giặc chưng
hửng vì mất mục tiêu, không thi thố được sở trường và nhanh chóng rơi vào tình
trạng quẫn bách vì thiếu lương ăn, vì ốm đau do không quen khí hậu.
Chỉ
trong một tháng (từ cuối tháng 5 đến cuối tháng 6 - 1285) quân ta phản công
thắng lớn trong các trận A Lỗ, Giáng Khẩu, Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, giải
phóng Thăng Long, truy kích địch ra khỏi biển giới.
Tránh
cái mạnh của địch, dùng cái mạnh của ta để đánh cái yếu của địch, buộc địch
phải bị động theo ý định tác chiến của ta, nắm thời cơ khi địch quẫn bách để
phản công giành toàn thắng. Đó là biểu hiện sáng tạo tư tưởng dĩ đoản, chế
trường mà Trần Quốc Tuấn đã vận dụng trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông
lần thứ hai. Tư tưởng này đã được Trần Quốc Tuấn đưa tới đỉnh cao của nghệ
thuật quân sự đương thời.
Năm
1288 quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ ba với 50 vạn quân, ngoài bộ binh và
kỵ binh còn có 500 chiến thuyền và một đoàn thuyền chở 70 vạn thạch lương. Trần
Quốc Tuấn tự tin nhận định: “Năm nay đánh giặc nhàn”. Lần kháng chiến này Trần
Quốc Tuấn tổ chức trận địa phòng ngự tiêu hao địch nhưng đều để chúng đi qua,
chủ động dụ chúng vào vòng vây thế trận của ta. Tháng 1 – 1288 Trần Khánh Dư đánh
tan đoàn thuyền lương của Trương Văn Hổ ở Vân Đồn, thọc một mũi dao vào tử
huyệt của giặc, làm chúng không thể kéo dài cuộc chiến. Giặc vào Thăng Long nôn
nóng tiêu diệt đối phương nhưng không tìm thấy dấu vết quân Trần, chúng buộc
phải lui về Vạn Kiếp và tính kế rút quân. Từ thế chủ động tiến công, giặc lâm
vào thế bị động lui quân và rơi vào trận địa quân Trần chờ sẵn. Quân thuỷ của
giặc bị ta phá tan trong trận Bạch Đằng. Quân bộ của Thoát Hoan bị quân Trần
cùng dân binh truy kích đánh cho tơi tả trên đường rút lui ra biên giới.
Với cuộc kháng chiến chống
Nguyên Mông thắng lợi, Trần Quốc Tuấn đã chứng tỏ là một vị tướng lĩnh tài ba.
Tư tưởng dĩ đoản chế trường mà ông có công tổng kết không chỉ là những tri thức
quân sự thuần tuý, mà nó được bảo đảm chắc thắng dựa trên lĩnh vực chính trị
“dân là gốc”, “toàn quốc đánh giặc”, “anh em hoà mục”, “tướng sĩ như cha con”.
Tránh
cái thế “hăng hái lúc ban mai” của địch, làm cho đội kỵ binh địch bị dàn mỏng
trên địa hình sông ngòi chật hẹp, lầy thụt mà không phát huy được tác dụng;
Dùng kế “thanh dã ”, triệt lương của giặc, đẩy chúng vào cái thế “tàn lụi lúc
buổi chiều”; Lợi dụng sở đoản, kiềm chế sở trường của địch; Phát huy sở trường
của ta là quen đánh giặc ở vùng sông nước và ven biển, buộc địch phải bị động tác
chiến theo ý đồ của ta. Đó là nguyên tắc nghệ thuật quân sự, phép dùng binh của
Quốc Công Tiết Chế Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn. Cả hai lần kháng chiến
chống Nguyên Mông mà Trần Quốc Tuấn nắm toàn quyền chỉ huy quân đội, ông đều
lợi dụng được địa hình, khí hậu, thuỷ văn có lợi cho ta, bất lợi cho địch. Hai
cuộc rút lui chiến lược của quân Trần đều theo đường thuỷ làm cho kỵ binh địch
trở nên bất lực. Các trận thắng quyết định của quân Trần thường là thuỷ chiến,
ở vùng sông nước mà đỉnh cao là trận Bạch Đằng lịch sử.
Tư tưởng “dĩ đoản (binh), chế trường (trận)” được Nguyễn Trãi phát triển trong kháng chiến chống Minh thắng lợi. Nhân dân ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự dĩ đoản, chế trường, phát triển chiến tranh du kích kết hợp với quân chủ lực, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, nâng tư tưởng quân sự này tới đỉnh cao mới trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Nghệ thuật dĩ đoản, chế trường là một sáng tạo sâu sắc của dân tộc ta dùng chống lại kẻ thù đông và trang bị mạnh hơn hẳn mà Trần Quốc Tuấn có công khái quát, tổng kết với chất lượng mới trong ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông toàn thắng, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Tư tưởng “dĩ đoản (binh), chế trường (trận)” được Nguyễn Trãi phát triển trong kháng chiến chống Minh thắng lợi. Nhân dân ta đã vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự dĩ đoản, chế trường, phát triển chiến tranh du kích kết hợp với quân chủ lực, tiến hành cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, nâng tư tưởng quân sự này tới đỉnh cao mới trong kháng chiến chống Pháp và kháng chiến chống Mỹ. Nghệ thuật dĩ đoản, chế trường là một sáng tạo sâu sắc của dân tộc ta dùng chống lại kẻ thù đông và trang bị mạnh hơn hẳn mà Trần Quốc Tuấn có công khái quát, tổng kết với chất lượng mới trong ba lần kháng chiến chống Nguyên Mông toàn thắng, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
Trần Mỹ Giống
………………….
Chú thích:
(1) Thanh dã: Làm vườn không nhà trống, khiến quân xâm lược tới không có một nguồn hậu cần tại chỗ nào.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. – BK5. – T9a
(3) Binh thư yếu lược. – H.: Khoa học xã hội, 1970.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư. BK 5. T51b
(5) Đại Việt sử ký toàn thư. BK5. T14a
(6) Binh thư yếu lược. H.: Khoa học xã hội, 1970. Tr.56
(7) Nguyên sử. – Q.13. – T.8b
(8) Binh thư yếu lược. – H.: Khoa học xã hội, 1970. – Tr. 385
(1) Thanh dã: Làm vườn không nhà trống, khiến quân xâm lược tới không có một nguồn hậu cần tại chỗ nào.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. – BK5. – T9a
(3) Binh thư yếu lược. – H.: Khoa học xã hội, 1970.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư. BK 5. T51b
(5) Đại Việt sử ký toàn thư. BK5. T14a
(6) Binh thư yếu lược. H.: Khoa học xã hội, 1970. Tr.56
(7) Nguyên sử. – Q.13. – T.8b
(8) Binh thư yếu lược. – H.: Khoa học xã hội, 1970. – Tr. 385
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét