Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2020

Sách mới: XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT / Văn Cường




        Trang chủ đã nhận được sách biếu của nhà thơ Văn Cường, cuốn:

        XƯỚNG HỌA THƠ ĐƯỜNG LUẬT / Trần Văn Cường. – H. : Tủ sách gia đình, 2020. – 343 tr. ; 21 cm.


        Tiến sĩ khoa học Trần Văn Cường, bút danh Văn Cường, sinh năm 1951, là rể Nam Định hiện sống tại Hà Nội. Ông chỉ bắt đầu làm thơ sau khi nghỉ hưu, nhưng thơ ông nhanh chóng được nhiều bạn đọc ái mộ. Sở trường của ông là thơ Đường luật. Trong dăm bảy năm gần đây ông liên tiếp cho ra đời các tập thơ:
        - Trận tuyến vô hình.
        - Lỗi cũ ta về.
        - Quẩy gánh thơ chơi.
        - Thư pháp Đường thi.
        - 50 ngón chơi thơ Đường luật.
        Và hiện tập “Xướng họa thơ Đường luật” của ông vừa ra mắt bạn đọc.
        Tập thơ tập hợp 310 bài của 132 tác giả do ông tuyển chọn và họa lại 315 bài (có bài xướng được họa 2 hoặc 3 bài). Cuối tập sách là 32 bài ông mời các thi nhân thi hữu họa góp vui.

        Phong trào làm thơ thể Đường luật hiện nay ở nước ta rất mạnh mẽ và rộng rãi. Hàng nghìn câu lạc bộ thơ Đường luật, hàng chục vạn hội viên hoạt động sôi nổi… Rất nhiều tập thơ Đường luật được ra đời, nhiều tác giả được bạn đọc quan tâm. Nhà thơ Văn Cường trong một thời gian rất ngắn đã bộc lộ năng lực thơ luật Đường được nhiều bạn đọc quan tâm yêu mến có thể coi là một hiện tượng đáng quan tâm. Ông là một trong số không nhiều những nhà thơ thành thạo các ngón chơi của thể thơ Đường luật.

        Xướng họa thơ Đường luật là một thú chơi phổ biến và được nhiều người thực hành trong đời sống. Cuối thế kỷ 15, thời Lê đã có Tao Đàn hội do Lê Thánh Tông làm chủ soái, tập hợp 28 nhà thơ học vị cao gọi là Tao Đàn nhị tập bát tú nổi tiếng trong lịch sử văn học nước nhà. Lê Thánh Tông, nhân hai năm được mùa liền (1493 – 1494) đã làm 9 bài thơ gọi là “Quỳnh uyển cửu ca” giao cho Tao Đàn nhị thập bát tú phụng canh, phụng bình, phụng họa… Hoạt động của Tao Đàn hội chỉ tồn tại từ 1495 đến 1497 nhưng đã được coi là một thi xã cung đình đầu tiên có quy mô và thành quả lớn của nước ta. Xướng họa là một hình thức tiêu biểu của Hội Tao Đàn này.

Tập “Xướng họa thơ Đường luật” của Văn Cường vừa ra mắt là một sản phẩm tiêu biểu của thú chơi xướng họa thơ Đường luật, là một sân chơi thú vị cho những người yêu thơ Đường luật qua việc tự mình họa lại các bài thơ xướng của Văn Cường.
       
        Tập sách của nhà thơ Văn Cường sẽ rất bổ ích và thú vị đối với những ai ham mê thơ Đường luật và học hỏi về các ngón chơi của thể thơ này.
        Cảm ơn nhà thơ Văn Cường tặng sách và trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

        Xin trích một số bài họa đầu sách để bạn đọc thưởng lãm và 32 bài mời họa của Văn Cường. Mời các bạn hưởng ứng, nhà thơ Văn Cường sẽ tập hợp các bài họa ra tập mới. Bạn nào tham gia họa xin gửi bài về email: cuong300475@gmail.com hoặc nhắn tin qua Facebook Văn Cường Trần.

01. Thơ Hoàng Bích Dư:
1.1.   56 CHỮ VÀNG

Năm sáu chữ vàng đẹp ý thơ
Đường thi… đố bạn dám lơ mơ
Từng đôi trạng luận từng câu đối
Mỗi cặp hùng thư mỗi nước cờ
Niêm luật phân minh tài Hạng Võ
Trắc bằng điêu luyện sắc Ngu Cơ
Bao viên ngọc quý lung linh sáng
Mang lại niềm vui thật bất ngờ.

Văn Cường họa:

THẤT NGÔN BÁT CÚ

Hỷ, nộ, bi, hài khởi tứ thơ
Thất ngôn bát cú trải hồn mơ
Tung hoành, khoán thủ nhuần quy tắc
Thuận nghịch, đồng âm vững thế cờ
Chữ nghĩa – tham thiền, tâm nhập định
Câu từ - giáng bút, trí cầu cơ
Lung linh năm sáu vì sao đẹp
Xướng họa Đường thi khoái chẳng ngờ!



02. Thơ Tản Đà:



2.1.   MUỐN LÀM THẰNG CUỘI
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi!
Trần giới em nay chán nữa rồi.
Cung Quế đã ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhắc lên chơi.
Có bàu có bạn, can chi tủi,
Cùng gió cùng mây, thế mới vui.
Rồi cứ mỗi năm rằm tháng tám,
Tựa nhau trông xuống thế gian, cười.


Văn Cường họa:


Bài họa 1: HẰNG NGA NHẮN CUỘI

Đối ẩm tiêu sầu chú Cuội ơi !
Trần gian khổ cực cách xa rồi
Quan trường thối nát nghèo cơ hội
Thế sự thăng trầm khó cuộc chơi
Thả tứ đường thi xua nỗi nhọc
Gieo vần lục bát gợi niềm vui
Trăm năm cõi tạm miền sinh tử
Mấy kẻ u mê biết khóc cười ?

  
Bài họa 2: ĐỔI ĐỜI

Núi Tản sông Đà đất mẹ ơi
Đầu tư, mở cửa khác xưa rồi
Sân gôn, Rì - zọt nhiều cơ hội
Sòng bạc, vũ trường lắm ngón chơi
Kiếm việc trời Tây lòng xốc nổi
Tìm chồng đất khách dạ buồn vui
Hằng Nga xuất ngoại quên tình Cuội
Cám cảnh hèn - sang, khóc dở cười !

2.2.   ĐÊM TỐI
Ù ù gió thổi Bắc, Tây, Đông
Đêm tối trông ra tối lạ lùng
Tạo vật không tay mà hoá có
Phàm trần có mắt cũng như không
Mơ màng đâu đó bao dân chúng
Tô điểm nào ai với núi sông?
Đánh đuốc đố ai tìm khắp nước
Kiếm đâu cho thấy mặt anh hùng ?
Văn Cường họa:     ÁC MỘNG

Chuột bọ, sâu rầy quậy phá đông
Quan tham lại nhũng khó truy lùng
Lên voi xuống chó không thành có
Bán chức mua quyền có hóa không
Mãi quốc cầu vinh đè bá tánh
Tiêu rừng giết biển hại non sông
Tồn vong xã tắc treo đầu đẳng
Nghĩ tới tương lai thật hãi hùng !



2.3.   VỊNH BỨC DƯ ĐỒ RÁCH

Nọ bức dư đồ thử đứng coi,
Sông sông núi núi khéo bia cười !
Biết bao lúc mới công vờn vẽ,
Sao đến bây giờ rách tả tơi ?
Ấy trước Ông Cha mua để lại,
Mà sau Con Cháu lấy làm chơi.
Thôi thôi chớ trách chi đàn trẻ
Thôi để rồi ta sẽ liệu bồi !

Văn Cường họa:    1. HẬN MÔI TRƯỜNG

Dư đồ Việt cổ ngó dùm coi
Hải đảo giang sơn cảnh khóc cười !
Cướp biển thu gom thềm lục địa
Côn đồ lấn chiếm giậu mùng tơi
Ông cha kiệm ước dồn cơ nghiệp
Cháu chắt hoang toàng ném cuộc chơI
Thảm họa môi trường đang hiện hữu
Lưu manh móc ngoặc với cao bồi ?

Bài họa 2:   VỠ MỘNG TRUNG HOA

Lưu manh tỉ thí với cao bồi
Bành trướng bá quyền thật khó coi
Liên hợp quốc, năm Châu phản đối
A – SE - AN, thế giới chê cười
Thay đen đổi trắng phường gian giảo
Lấy thịt đè người lũ xấu chơi
Tổng thống Hoa Kỳ tung sách lược
Chiến tranh thương mại đả mê tơi.     


03.  Thơ Vua Tự Đức:

3.1.   KHÓC BẰNG PHI
Ới Thị Bằng ơi đã mất rồi!
Ới tình, ới nghĩa, ới duyên ôi!
Mưa hè, nắng chái, oanh ăn nói,
Sớm ngõ, trưa sân, liễu đứng ngồi.
Đập cổ kính ra, tìm lấy bóng,
Xếp tàn y lại, để dành hơi.
Mối tình muốn dứt càng thêm bận,
Mãi mãi theo hoài cứ chẳng thôi.

Văn Cường họa: (mượn vần):
“CỦI“ CHẬT “LÒ”
Lũ tướng, bầy quan lộ mặt rồi
Ới quyền, ới chức, ới vàng ôi !
Tiền dân, quỹ nước ăn rồi phá
Móng ngựa, nhà lao đứng lại ngồi
Tước vị phăng teo, đời tuột dốc
Ô dù gãy nát, phận xì hơi
Nhà xiêu mái thủng đầy dơi chuột
Chất “củi” vào “lò” phải đốt thôi !



        THƠ MỜI HỌA

X01.   THẾ VẬN HỘI BÓNG ĐÁ
Vào mùa Uôn Cúp thức liên miên
Hội thảo hai người bỏ mấy phiên
Đấm ngực khua chân xô lệch chiếu
Vò đầu bứt tóc giật tung mền
Chồng già nháy mắt: Thua ?- Truy lĩnh !
Vợ trẻ trề môi: Thắng ? - Phạt đền !
Vật vã hò reo đà thấm mệt
Riêng giường ngủ lịm, ngáy ầm lên !

X02. THƯƠNG THÂN KIỀU
(Thể đối kép, bát láy)
Ba chìm bảy nổi, chín lênh đênh
Nước chảy hoa trôi, số gập ghềnh
Mệnh bạc thân cô, duyên vất vưởng
Hương tàn sắc nhạt, phận chông chênh
Chim lồng cá chậu, đời sa sút
Liễu yếu đào tơ kiếp dập dềnh
Nghĩa trả tình vay, lòng bối rối
Em vui chị tủi, dạ bồng bềnh.
  
X03.   LÃNH TỤ HỒ CHÍ MINH
                       (THTK)
KIM Liên thánh địa xuất thần đồng
CỔ học trau dồi, quyết khổ công
ANH dũng Tự do Bình đẳng lập
HÙNG cường Dân chủ Cộng hòa thông
DUY tình nước Việt luôn bền chí
HỮU lý dân Nam mãi vững lòng
NHẤT đẳng minh quân ngời nhật nguyệt
Á ÂU HÀO KIỆT THỊ VÔ SONG.

X04.   HOÀI NIỆM MẸ
Lót dạ khoai lang với ngụm trà
Còng lưng nhổ cỏ cánh đồng xa...
Bần thần sớm hạ: khô vườn sắn
Ngán ngẩm chiều đông: dột mái nhà.
Tóc bạc dầm sương dần rụng tóc
Da mồi nhúng nước mãi nhăn da.
Cù lao chín chữ (*) tròn duyên phận
Vất vả quanh năm tuổi xế tà.
(*) Chín chữ cù lao: SINH: Đẻ con; CÚC: Nâng đỡ; SÚC: Cho bú mớm; DỤC: Dạy dỗ; VŨ: Âu yếm; CỐ: Chăm nom; PHÚC: Che chở; PHỤC: Uốn nắn; TRƯỞNG: Nuôi khôn lớn.


X05.   BÌNH MINH HAY HOÀNG HÔN ?
 
TÔI thấy mặt trời mọc phía Đông
KHÔNG ngờ trái đất lại quay vòng
BUỒN khi nắng quái thương bè bạn
NHỮNG lúc mây hừng cảm núi sông
BUỔI sớm nhìn hư hư, thực thực
CHIỀU tà hiểu sắc sắc, không không
VÌ tâm giác ngộ, đời thư thái
NGẮM ĐỦ NHIỀU TIA NẰNG RẠNG ĐÔNG !
  
X06.   TÌNH CHỒNG VỢ
                  (THTK)
GÁI ngoan - mát dịu gió Nam nồm
THƯƠNG cảm vơi đầy chuyện tép tôm
CHỒNG phận chinh phu cần gánh vác
ĐƯƠNG thì thiếu phụ phải ôm đồm
ĐÔNG người hỏi bán - mời đon đả
BUỔI khách tìm mua - nói dẻo mồm
CHỢ vãn, ân cần thu với vén
TRAI THƯƠNG VỢ NẮNG QUÁI CHIỀU HÔM !

X07. SUY NGẪM VỀ THỊ MẦU
Sống thật như Mầu ngẫm cũng hay !
Yêu nhầm Thị Kính hút hồn ngây
Mồi chài phật tử trò trai gái
Náo loạn thiền môn chuyện gió mây
Khát vọng xuân thì tim rạo rực
Đam mê luyến ái óc nồng say
Lẳng lơ tiếng xấu mình em chịu
Để khúc ca chèo sải cánh bay !

X08.   TỰ TÌNH XUÂN
Cội nhú chồi non, lá cựa mình
Mai đào hé nụ gọi bình minh
Trăng treo một mảnh hình lưu luyến
Bướm lượn từng đôi dáng tự tình
Bối rối trai thanh đôi mắt sáng
Thẹn thùng gái lịch nụ cười xinh
Xuân sang cảnh sắc tràn thi hứng
Nước Việt canh tân hưởng thái bình.
  
X09.   CHỢ TÌNH KHAU VAI
Đến chợ tình mua vé khứ hồi
Đừng xanh như lá, bạc như vôi (*)
Đôi già rót mật bên bờ suối
Cặp trẻ tìm hương cạnh mé đồi
Có phải duyên đầu thương chẳng đặng ?
Nên đành phận cuối tiếc mà thôi !
Ai ngờ vết sẹo trong tim ấy
Lại hé mầm xanh, nhú lộc chồi !

X10.   BẢN LĨNH ĐẠI NHÂN
(THTK, cảm tác 2 câu thơ của Lỗ Tấn)

NGƯỚC lên: sừng sững dãy Ba Vì
MẮT dõi mây hồng chẳng muốn đi
COI bạc vàng kia không quyến rũ
KHINH danh vọng đó chẳng so bì
NGHÌN xưa giác ngộ người quân tử
LỰC trí am tường bạn cố tri
SĨ diện xem thường ai hợm hĩnh
CÚI ĐẦU LÀM NGỰA ĐỨA HÀI NHI.

X11.   KÍNH CỤ TÚ XƯƠNG
(THTK bằng hai câu thơ của Xuân Diệu)
ÔNG giỏi, linh hồn thơ tỏa sáng
NGHÈ thường, tước phẩm phận tàn phai
ÔNG hoàng đất Việt Đường thi tếu
THÁM tử Thành Nam điển tích hài
VÔ địch vần, cao siêu độc nhất
MÂY vờn bút, trác tuyệt không hai
KHÓI sương vạn cổ mờ nhân ảnh
ĐỨNG LẠI VĂN CHƯƠNG MỘT TÚ TÀI.

X12.   LỄ HỘI ĐÁNH ĐU
 
Lễ hội tưng bừng cuộc đánh đu
Kìa ai ngực ưỡn, kẻ lưng gù
Vươn lên giữ thế nàng phơi nhũ
Nhún xuống theo đà cậu chổng khu
Bốn mắt đòng đưa mây thích thú
Hai thân quấn quýt gió vù vù
Vui xuân phấn chấn đời no đủ
Thỏa mãn duyên tình khách lãng du.



X13.   CHIA SẺ CÙNG ÔNG KIM QUỐC HOA

Bảy sáu xuân đời trải gió sương
Năm mươi tuổi Đảng vẫn kiên cường
Phanh phui kế bẩn người vô luật
Đả phá trò hèn kẻ bất lương
Chính sự thăng trầm chen sáng tối
Quan trường hóc hiểm vấp tai ương
Tâm thanh, chí lớn Trời không phụ
Chủ tịch Thơ Đường tỏa ánh dương.


X14.   LÒI ĐUÔI CHUỘT KHỦNG
Đại án AVê Gờ nổ tựa bom
Lòi đuôi chuột khủng thế nhân dòm
Bắc Son hóa củi đời toi ngỏm
Minh Tuấn chui lò phận tối om
Tử đệ, quan thầy lo thấp thỏm
Sâu vua, mọt chúa cãi om sòm
Nhà xiêu, mái thủng, sân bì bõm
Vận hạn trùng tu chín mõm mòm !

 X15. NGƯỜI THƠ TÌNH BÚT
Thơ Việt luật Đường lắm ngón chơi
Mê rồi đâm nghiện đấy ai ơi
Ngũ thanh, thuận nghịch, lời bay nhảy
Khoán thủ, tung hoành, ý cuốn trôi
Ngữ nghĩa câu vần tài ghép cặp
Trắc bằng nhịp điệu giỏi tìm đôi
Tâm thanh, bút lực đằm con chữ
Sắc sảo tư duy, tứ gợi mời.

X16.   CHỒNG KHỜ
                (BVĐÂ)
Trời ban lấy được lão khù khờ
Lọ mọ đêm ngày phú với thơ
Gặp bạn tri âm cười rạng rỡ
Chơi trò trống mái nói lơ mơ (!)
Nhân tình thế thái thường than thở
Địa vị tiền tài cứ ngó lơ !
Vẫn nghiện cơm nhà, chê quán phở
Đôi lần cấm vận thấy bơ vơ !
  
X17.   TÁM MÓN TRONG ĐỜI
             (Tập danh, tứ đối)
Một CHỮ hiền nhân tình đã nổi
Hai TRANH thông điệp ý đang chìm
Ba SÀNH tượng gốm hoa văn cổ
Bốn KIỂNG cây vườn triết lý kim
Năm CHỨC cao sang người chiếm đoạt
Sáu QUYỀN tối thượng kẻ truy tìm
Bẩy DUYÊN quyến rũ vì nhân cách
Tám PHẬN an bài bởi trái tim.

X18.   MƯA KHÔNG THEN KHÓA KÌM LƯU KHÁCH
SẮC CHẲNG PHONG BA ĐẮM ĐUỐI NGƯỜI.
              (Tung hoành trục khoán)
MƯA bão, bạn hiền nán lại chơi
KHÔNG ham trưởng giả cỗ sang mời
THEN lâu chẳng đóng niềm tâm sự
KHÓA mãi không dừng nỗi xả hơi
KÌM tỏa lương tri người nghĩa hiệp
LƯU đày dục vọng kẻ xu thời
KHÁCH thơ đối ngẫu nhuần niêm luật
SẮC CHẲNG PHONG BA ĐẮM ĐUỐI NGƯỜI.

X19.   RƯỢU – THƠ
                (Độc vận)
Xuân mừng đãi rượu khách bình thơ
Nghệ sĩ si tình món rượu thơ
Rượu chuốc phàm phu người nát rượu
Thơ chài thục nữ kẻ ngây thơ
Xuân Hương kiệt tác thơ thành rượu
Lý Bạch siêu quần rượu hóa thơ
Tri kỷ tri âm nghìn chén rượu
Anh hào bất tử một bài thơ !

X20.   CHÍ LÀM TRAI
ĐÃ phận dân Nam, giống Lạc Hồng
MANG lòng ái quốc của cha ông
TIẾNG miền Nghĩa Lĩnh reo chim Hạc
Ở chốn Phong Châu vọng trống đồng
TRONG cõi phiêu du hồn thế tục
TRỜI xanh vẫy gọi chí tang bồng
ĐẤT còn nhắn nhủ đời trai tráng
PHẢI CÓ DANH GÌ VỚI NÚI SÔNG



X21.   XUÂN – THI
             (Bát điệp)
XUÂN cảm THI nhân luyến bóng hồng
XUÂN mừng THI phẩm viết kỳ công
XUÂN thiên THI phú người mơ mộng
XUÂN nhật THI ca bạn tán đồng
XUÂN cảnh THI đàn nghe sống động
XUÂN tình THI hứng thấy mênh mông
XUÂN hồi THI vị đà bay bổng
XUÂN khí THI duyên mãi thắm nồng.



X22.   NHỚ HUY CẬN
(Cảm tác thăm chùa Tây Phương")
 
MỘT cảnh linh thiêng lẫn nhiệm màu
CÂU lưu cõi tục, tọa cùng nhau
HỎI duyên trần thế, đời tu tỉnh
LỚN mệnh thiên cơ, kiếp dãi dầu
KHÔNG điếc buông lơi niềm thống khổ
LỜI câm nén chịu nỗi âu sầu
ĐÁP từ bất khả ai thiền định
CHO ĐẾN BÂY GIỜ MẶT VẪN CHAU.




X23.   THẠCH HÃN - 1972

CÓ sông bãi mộ các anh nằm
TUỔI trẻ thời sinh Bắc tử Nam
HAI vạn tân binh dồn nhiệt huyết
MƯƠI nghìn liệt sĩ ngậm hờn căm
THÀNH xương Quảng Trị cờ đen xạm
SÓNG máu Ô Lâu bọt đỏ bầm
NƯỚC cuốn vòng hoa hồn bất tử
VỖ YÊN BỜ MÃI MÃI NGÀN NĂM.



X24.   75 NĂM THẮNG LỢI
             
(1944 ÷ 2019)
 
TRUNG kiên dũng cảm chốn sa trường
VỚI Đảng không hề tiếc máu xương
NƯỚC thịnh non sông luôn vững chãi
NHÀ vui xã hội mãi an cường
HIẾU nhân tướng giỏi nhuần binh pháp
NGHĨA đức quân hùng thuận kỷ cương
VỚI lá cờ sao cùng lý tưởng
DÂN Nam gọi, tráng sĩ lên đường !




X25.   NGHỀ SƯ PHẠM

Tải đạo chèo đò thật đáng yêu
Đầu phơi nắng sớm gội mưa chiều
Ươm mầm hạt Đức không thui yểu
Uốn gốc cây Tài khỏi ngã xiêu
"Nhất tự vi sư" bình lắm kiểu
"Tam cương tại giáo" luận bao điều
Tâm thành trí thảo rèn trung hiếu
Chức phận trồng Người có bấy nhiêu !

  

X26.   HS – TS – VN

HOÀNG đế Trung Hoa thuở trị vì
SA   bàn cổ lục chẳng hề ghi
TRƯỜNG  thành Tây Bắc luôn phòng thủ
SA   khoáng Đông Nam bất chủ trì
LÀ   bạn dối lừa, trò xảo trá
CỦA   người chiếm đoạt, thói gian phi
VIỆT  - Trung lịch sử nghìn năm rõ
NAM Quốc Sơn Hà vọng sấm thi !


  
X27.   KHÓC NGƯỜI NẰM XUỐNG
 
Tiến sĩ Lê An mất mạng rồi
Hoa thơm chóng héo, cỏ thường tươi !
Mười ba trảm sớ còn lưu bút
Độc nhất liêm quan đã bỏ đời
Chính trực, tài năng sao vắn số ?
Gian tà, dốt nát cứ toàn ngôi ?
Bao giờ Bộ Dục đà thay máu ?
Hủy cánh tay đen chắn mặt trời ?



X28.   THU MỀM
(Cảm tác bài “Tỳ Bà” của Bích Khê)
Ô kìa ! bầy chim đan tầng không
HAY chăng chiều buông dần trên sông
BUỒN thương vi vu reo rừng thông
VƯƠNG sầu lang thang trôi mây bồng
CÂY khô cành vươn chờ cơn dông
NGÔ non hoa rung soi cầu vồng
ĐỒNG quê cao lương đang đơm bông
VÀNG RƠI ! VÀNG RƠI: THU MÊNH MÔNG!

          X29.   TẤM LÒNG SON
RẮN nhân mật ngọt trắng phau hòn
NÁT dính thêm vừng đĩa bánh ngon
MẶC sức người đời xoa với nắn
DẦU cho tạo hóa bóp cùng bòn
TAY phàm cấu véo thân thành nhỏ
KẺ sĩ vân vê phận hóa tròn
NẶN luộc ba chìm sôi bảy nổi
MÀ EM VẪN GIỮ TẤM LÒNG SON.



X30.   LIỆT SĨ ĐIỆN BIÊN
Him Lam nát ngực Phan Đình Giót
Máu thấm Mường Thanh liệt sĩ Can
Cứu pháo chèn lưng Tô Vĩnh Diện
Gồng mình giữ súng Bế Văn Đàn
Quân ta quyết tử khinh bom đạn
Giặc Pháp quy hàng nẫu ruột gan
Chiến thắng Điện Biên ngời sử Việt
Cờ hồng phấp phới, trắng hoa ban.
  
X31.   NHỚ XUÂN DIỆU
MỘT đời thi sĩ mấy thăng trầm
PHÚT dại sa vào bẫy hiểm thâm
HUY hiệu phai màu thân trói buộc
HOÀNG anh khản tiếng phận giam cầm
RỒI mong hạ đến tình sôi nổi
CHỢT nhớ thu về tứ lặng câm
TỐI để Nàng Thơ bừng sáng rực
HƠN BUỒN LE LÓI SUỐT TRĂM NĂM.


X32.   MỪNG THỌ 70
CHÚC Bác ngày vui nhất tháng này
MỪNG Ông bảy chục bến xuân khai
SINH thời phụ mẫu sâu lòng biển
NHẬT xạ song thân nặng gánh vai
THẤT lộ giao du tầm chiến hữu
THẬP phương hội ngộ đáo kỳ đài
NIÊN canh cổ thụ phù tôn tử
TRÒN đạo làm Người, Phúc tái lai !


Văn Cường

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét